Một số giống bò sữa phổ biến trên thế giới
Bò sữa nhiệt đới Bò Sind (Red Sinhi) Bò Sind thực ra là một giống bò kiêm dụng sữa – thịt – cày kéo có nguồn gốc từ vùng Sinhi (Pakistan), Vùng này có nhiệt độ rất cao về mùa hè, ban ngày có thể lên tới 40 – 50°C. Bò Sind thường được nuôi theo phương thức chăn thả tự do. Bò có màu lông đỏ ...
Bò sữa nhiệt đới
Bò Sind (Red Sinhi)
Bò Sind thực ra là một giống bò kiêm dụng sữa – thịt – cày kéo có nguồn gốc từ vùng Sinhi (Pakistan), Vùng này có nhiệt độ rất cao về mùa hè, ban ngày có thể lên tới 40 – 50°C. Bò Sind thường được nuôi theo phương thức chăn thả tự do.
Bò có màu lông đỏ cánh dán hay nâu thẫm, thân hình ngắn, chân cao, mình lép, tai to và rũ xuống. Đặc biệt bò Sind có yếm và nếp gấp da dưới rốn và âm hộ rất phát triển. Đây là một đặc điểm tốt giúp bò này thích nghi với điều kiện khí hậu nóng nhờ tăng tỷ diện bề mặt toả nhiệt. Bò đực có u vai rất cao, đầu to, trán gồ, rộng, sừng ngắn, cổ ngắn, vạm vỡ, ngực sâu nhưng không nở. Bò cái có đầu và cổ nhỏ hơn, phần sau phát triển hơn phần trước, vú phát triển, núm vú to, dài, tĩnh mạch nổi rõ. bo sind
Khối lượng sơ sinh khoảng 19 – 20kg. Khi trưởng thành bò đực có khối lượng 450 – 500kg, bò cái 350 – 380kg. Tuổi đẻ lứa đầu vào khoảng 30 – 40 tháng. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ khảng 14 – 15 tháng. Sản lượng sữa trung bình khoảng 1400 – 2100 kg/chu kỳ 270 – 290 ngày. Tỷ lệ mờ sữa 5 – 5,5%.
Bò Sind thích nghi tốt được với khí hậu nóng và có sức đề kháng bệnh cao.
Bò Sahiwal
Bò Sahiwal là giống bò u cho sữa của Pakistan. Bò này cũng được nuôi nhiều tại các vùng Punjab, Biha, Una Pradesh của Ấn Độ. bo sahiwal
Bò có màu lông đỏ vàng hay vàng thẫm. Kết cấu ngoại hình tương tự như bò Red Sinhi nhưng bầu vú phát triển hơn. Bò có u, yếm và dậu phát triển. Sừng nhỏ và bò cái thường không có. Khi trưởng thành, bò cái có khối lượng 360 – 380kg, bò đực 470 – 500kg. Sản lượng sữa khoảng 2100 – 2300kg/chu kỳ 9 tháng. Tỷ lệ mỡ sữa 5 – 5,5%.
Cũng giống như bò Red Sinhi, bò Sahiwal thích nghi tốt được với khí hậu nóng và có sức đề kháng bệnh cao nên được nhiều nước nhiệt đới dùng để cải tạo các giống bò địa phương hoặc lai với các giống bò chuyên dụng sữa để tạo bò sữa nhiệt đới.
Bò AFS (Australian Friesian Sahiwal)
Bò AFS là kết quả lai tạo giữa bò Holstein với bò Sahiwal và chọn lọc con lai trên 50 năm ở bang Queensland, Australia. Bò AFS đã được cố định máu và được công nhận là một giống bò sữa mới.
Bò AFS kết hợp được khả năng cho sữa cao của bò HF và khả năng chống chịu bệnh tật cao và thích nghi với khí hậu nhiệt đới của bò Sahiwal. Bò này có màu sắc phân ly cao, thay đổi từ màu vàng đậm đến màu đen hay màu lang trắng đen. Khối lượng trưởng thành của bò cái khoảng 450 – 550kg. Sản lượng sữa bình quân đạt 4200 kg/chu kỳ 300 ngày.
Bò sữa gốc ôn đới
Bò Hà Lan (Holstein Friesian)
Bò Holstein Friesian (HF) là giống bò chuyên sữa nổi tiếng thế giới được tạo ra từ thế kỷ thứ XIV ở tỉnh Fulixon của Hà Lan, là nơi có khí hậu ôn hoà, mùa hè kéo dài và đồng cỏ rất phát triển. Bò HF không ngừng được cải thiện về phẩm chất, năng suất và hiện nay được phân bố rộng rãi trên toàn thế giới nhờ có khả năng cho sữa cao và cải tạo các giống bò khác theo hướng sữa rất tốt. Cũng chính vì vậy mà các nước thường dùng bò HF thuần để lai tạo với bò địa phương tạo ra giống bò sữa lang trắng đen của nước mình và mang những tên khác nhau như bò lang trắng đen Mỹ, Anh, Pháp, Canada, Trung Quốc, v.v…
Bò HF có 3 đạng màu lông chính: lang trắng đen (chiếm ưu thế), lang trắng đỏ (ít) và toàn thân đen (riêng đỉnh trán và chót đuôi trắng). Các điểm trắng đặc trưng là: điểm trắng ở trán, vai có vệt trắng kéo xuống bụng, 4 chân và chót đuôi trắng. Toàn thân có dạng hình nêm đặc trưng của bò sữa. Đầu con cái dài, nhỏ, thanh; đầu con đực thô. Sừng nhỏ, ngắn, chĩa về phía trước. Trán phẳng hoặc hơi lõm. cổ thanh, dài vừa phải, không có yếm. Vai – lưng – hông – mông thẳng hàng. Bốn chân thẳng, đẹp, hai chân sau doãng. Bầu vú rất phát triển; tĩnh mạch vú ngoằn ngoèo, nổi rõ.
Tầm vóc bò HF khá lớn: khối lượng sơ sinh khoảng 35 – 45kg,trưởng thành 450 – 750 kg/cái, 750 – 1100 kg/đực. Bò này thành thục sớm, có thể phối giống lúc 15 – 20 tháng tuổi. Khoảng cách lứa đẻ khoảng 12 – 13 tháng.
Năng suất sữa trung bình khoảng 5000 – 8000 kg/chu kỳ. Tỷ lệ mỡ sữa thấp, bình quân 3,3 – 3,6%. Năng suất sữa biến động nhiều tuỳ theo điều kiện nuôi dưỡng và thời tiết khí hậu, cũng như kết quả chọn lọc của từng nước.
Bò HF chịu nóng và chịu đựng kham khổ kém, dễ cảm nhiễm bệnh tật, đặc biệt là các bệnh ký sinh trùng đường máu và bệnh sản khoa. Bò HF chỉ nuôi thuần tốt ở những nơi có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ bình quân nãm dưới 21°C.
Bò lang trắng đen Trung Quốc
Bò Lang trắng đen Trung Quốc là kết quả lai tạo giữa bò HF, bò địa phương Bắc Mãn và bò Simental ở đời F3. Bò được nuôi phổ biến ở vùng Đông Bắc Trung Quốc (Bắc Kinh, Thượng Hải). Bò thích nghi với khí hậu lục địa và nuôi nhốt tại chuồng.
Bò có màu lông lang trắng đen và có tầm vóc vạm vỡ hơn bò HR. Khối lượng trưởng thành của bò cái khoảng 650 – 700kg. Sản lượng sữa bình quân đạt khoảng 4500 kg/chu kỳ. Tỷ lệ mỡ sữa 3,7 – 3,8%.
Bò Jersey
Bò Jersey là giống bò sữa của Anh, được tạo ra từ gần ba trăm năm trước trên đảo Jersey là nơi có khí hậu ôn hoà, đồng cỏ phát triển tốt quanh năm thích hợp cho chăn nuôi bò chăn thả. Bò Jersey là kết quả lai giữa giống bò Bretagne (Pháp) với bò địa phương, về sau có thêm máu bò Normandie (Pháp). Từ năm 1970 nó đã trở thành giống bò sữa nổi tiếng Thế giới.
Bò có màu vàng sáng hoặc sẫm. Có những con có đốm trắng ở bụng, chân và đầu. Bò có kết cấu ngoại hình đẹp, đặc thù của bò hướng sữa. Đầu nhẹ, mặt cong, mắt lồi, cổ thanh dài và có yếm khá phát triển. Vai cao và dài. Ngực sâu, xương sườn dài. Lưng dài, rộng. Mông dài, rộng và phẳng. Bụng to, tròn. Bốn chân mảnh, khoảng cách giữa hai chân rộng. Đuôi nhỏ. Bầu vú phát triển tốt cả phía trước và phía sau, tĩnh mạch vú to và dài.
Tầm vóc của bò Jersey tương đối bé: khối lượng sơ sinh 25 – 30kg, trưởng thành của bò cái là 300 – 400kg, của bò đực 450 – 550kg.
Năng suất sữa bình quân đạt 3000 – 5000 kg/chu kỳ 305 ngày. Đặc biệt bò Jersey có tỷ mỡ sữa rất cao 4,5 – 5,5%, mỡ sữa màu vàng, hạt to thích hợp cho việc chế biến bơ. Do đó giống bò này thường được dùng để lai cải tạo những giống bò sữa có tỷ lệ mỡ sữa thấp.
Bò Jersey thành thục sớm, 16 – 18 tháng tuổi có thể phối giống lần đầu, có khả năng đẻ 1 năm 1 lứa. Bò đực giống phát triển tốt có thể lấy tinh lúc 12 tháng tuổi.
Do có thể vóc bé nên bò Jersey đòi hỏi nhu cầu duy trì thấp và có khả năng chịu nóng tốt hơn bò Holstein. Chính vì thế mà nhiều nước đã dùng bò Jersey lai tạo với bò địa phương để tạo ra các giống bò sữa thích nghi với khí hậu nhiệt đới.
Bò nâu Thụy Sĩ (Brown Swiss)
Bò nâu Thụy Sĩ được tạo thành ở vùng núi Anpơ của Thụy Sĩ do nhân thuần từ bò địa phương theo hướng kiêm dụng sữa – thịt. Giống bò này có tính bảo thủ di truyền cao về ngoại hình và sức sản xuất sữa.
Bò nâu Thụy Sĩ có màu nâu, một số ít màu sáng đậm hay nâu xám. Đầu ngắn, trán dài và rộng, mồm rộng, sừng ngắn, cong, gốc sừng trắng. Thân hình dài, ngực nở, sâu, rộng, sườn bụng thon. Bốn chân chắc chắn khoẻ mạnh, tư thế vững vàng, móng đen.
Đây là giống bò có tầm vóc lớn, có khả năng tăng trọng nhanh, phẩm chất thịt ngon. Thể trọng lúc sơ sinh khoảng 31 – 37kg, khối lượng trưởng thành của bò cái 650 – 700kg, bò đực 800 – 950. Tỷ lệ thịt xẻ 59 – 60%. Năng suất sữa bình quân 3500 – 4000 kg/chu kỳ, tỷ lệ mỡ sữa 3,5 – 4%,
Bò nâu Thụy Sĩ có khả năng thích nghi với khí hậu vùng núi cao.