Kỹ thuật trồng một số loại cây thức ăn cho trâu bò
Đối với trâu bò, cũng như các gia súc nhai lại khác, thức ăn thô xanh giữ vai trò rất quan trọng. Chúng chẳng những cung cấp cho cơ thể gia súc nhai lại những chất dinh dưỡng cần thiết mà còn bảo đảm cho bộ máy tiêu hoá (dạ cỏ) hoạt động bình thường. Trong chăn nuôi trâu bò theo quy mô trang trại, ...
Đối với trâu bò, cũng như các gia súc nhai lại khác, thức ăn thô xanh giữ vai trò rất quan trọng. Chúng chẳng những cung cấp cho cơ thể gia súc nhai lại những chất dinh dưỡng cần thiết mà còn bảo đảm cho bộ máy tiêu hoá (dạ cỏ) hoạt động bình thường. Trong chăn nuôi trâu bò theo quy mô trang trại, lượng thức ăn tận dụng từ các nguồn phụ phẩm nông nghiệp thường không đủ đáp ứng cho nhu cầu của đàn gia súc.
Để bảo đảm cung cấp thức ăn thô xanh đều đặn, ngoài việc sử dụng hợp lý bãi chăn tự nhiên, tận dụng các nguồn phụ phẩm, cần bố trí diện tích thích đáng để trồng các giống cỏ và các loại cây thức ăn có năng suất cao.
Khác với các nước ôn đới, nước ta có thể cung cấp thức ăn tươi xanh quanh năm nếu trong mùa khô ta giải quyết được nhu cầu nước tưới hoặc áp dụng công thức trồng cây thức ăn hợp lý.
Sau đây là một số loại cây thức ăn có khả năng thích ứng cao, cho năng suất cao và biện pháp kỹ thuật trồng chúng.
Cỏ voi
Cỏ voi thuộc họ hoà thảo, thân đứng, có nhiều đốt, rậm lá, sinh trưởng nhanh. Có nhiều dòng cỏ voi như: Merkeron, Seleccion 1 và King grass. Trong đó King grass là dòng được trồng phổ biến ở nước ta và cho năng suất cao.
Cỏ voi ưa đất màu và thoáng, không chịu được ngập và úng nước. Khi nhiệt độ môi trường xuống thấp (2 – 3 °C) vẫn không bị cháy lá. Cỏ voi là giống rất thích hợp cho chăn nuôi trâu bò theo quy mô trang trại. Bởi vì, có khả năng trồng cỏ voi với diện tích lớn và với mức độ cơ giới hoá cao. Mặt khác, có thể trồng cỏ voi để thu cắt làm thức ăn bổ sung tại chuồng hoặc ủ ướp dự trữ.
Thời gian trồng thích hợp là từ tháng 2 đến tháng 5, thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 11. Nếu mùa khô chủ động được nước tưới thì có thể thu hoạch quanh năm. Chu kỳ kinh tế của cỏ voi là 3 – 4 năm (tức là trồng một lần thu hoạch được 3 – 4 năm).
Yêu cầu đất trồng và chuẩn bị đất
Yêu cầu loại đất trồng cỏ voi có tầng canh tác trên 30cm, nhiều màu, tươi xốp, thoát nước, có độ ẩm trung bình đến hơi khô, pH của đất = 5 – 7. Cần cày sau, bừa kỹ hai lượt và làm sạch cỏ dại, đồng thời san phẳng đất. Rạch hàng sâu 15 – 20cm theo hướng đông – tây, hàng cách hàng 60cm. Cũng có thể trồng theo khóm với mật độ bụi nọ cách bụi kia 40cm và hàng cách hàng 60cm.
Phân bón
Được sử dụng với lượng khác nhau, tuỳ theo chân ruộng tốt hay xấu. Trung bình cho 1 ha cần bón:
15 – 20 tấn phân chuồng hoai mục – bón lót toàn bộ theo hàng trồng cỏ.
300 – 400kg đạm – bón thúc và sau mỗi lần cắt.
250 – 300kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng trồng cỏ.
150 – 200kg sulfat kali – bón lót toàn bộ theo hàng trồng cỏ.
Nếu đất chua (pH <5) thì phải bón thêm vôi.
Cách trồng và chăm sóc
Trồng bằng thân cây (hom), chọn cây mập và hom bánh tẻ (ở độ tuổi 80 – 100 ngày). Chặt vát hom với độ dài 25 – 30cm/hom và có 3 – 5 mắt mầm. Mỗi ha cần 8 -10 tấn hom.
Đặt hom trong lòng rãnh, chếch 45°, cách nhau 30 – 40cm và lấp đất sao cho hom nhô trên mặt đất khoảng 10cm.
Sau khi trồng 10 -15 ngày mầm bắt đầu mọc. Nếu có hom chết, cần trồng dặm, đồng thời làm cỏ và xới xáo nhẹ làm cho đất tơi, thoáng. Lúc được 30 ngày tiến hành bón thúc bằng 100kg urê. Sau khi trồng 80 – 90 ngày thu hoạch đợt đầu (không thu hoạch non đợt đầu). Cứ sau mỗi lần thu hoạch và cỏ ra lá mới lại tiến hành bón thúc. Khoảng cách những lần thu hoạch tiếp theo là 30 – 45 ngày, cắt gốc ở độ cao 5cm trên mặt đất và cắt sạch, không để lại mầm cây, để cho cỏ mọc lại đều.
Năng suất chất xanh
Tuỳ theo trình độ thâm canh, năng suất chất xanh trên một ha có thể biến động từ 100 tấn đến 200 tấn/năm. Ngoài ra, tuổi cắt của mỗi lứa cũng ảnh hưởng đến năng suất của cỏ.
Cỏ Stylo
Đây là loại cây bộ đậu, lưu niên. Thích nghi tốt với khí hậu nhiệt đới. Cũng như các loại cây bộ đậu khác, cỏ Stylo là nguồn thức ăn tươi xanh giàu protein, là nguồn đạm lá quan trọng để bổ sung và nâng cao chất lượng khẩu phần thức ăn cho trâu bò. Ngoài ra, có thể dùng phối hợp cỏ Stylo với một số cây hoà thảo như cỏ voi, cỏ Xuđăng, cây ngô…làm nguyên liệu ủ ướp, nhằm nâng cao giá trị dinh dưỡng của thức ăn ủ xanh hoặc có thể phơi khô thân, lá cỏ Slylo, nghiền thành bột cỏ và sử dụng như nguồn bổ sung protein có giá trị, thay thế một phần thức ăn tinh.
So với các loại cây bộ đậu khác nhập vào nước ta từ trước tới nay để làm thức ăn gia súc như cỏ Medicago sativa, cỏ ba lá (Trifolium alexandinum) được trồng rất phổ biến, ở các nước ôn đới và á nhiệt đới thì cỏ Stylo hơn hẳn về khả năng thích ứng rộng và dễ nhân giống. Cỏ Stylo có thể vừa trồng bằng hạt, vừa trồng bằng cành dâm. Cỏ Stylo phát triển tốt khi nhiệt độ không khí trong khoảng 20 – 35°c. Nhưng khi nhiệt độ dưới 5°c và trên 40°c cây phát triển kém. Cỏ Stylo phù hợp với chân ruộng cao và là loại cây chịu được khô hạn, không chịu được đất bị úng ngập. Độ ẩm không khí thích hợp là 70 – 80%.
Cỏ Stylo rất ít bị sâu bệnh và có thể phát triển trên nhiều loại đất, ngay cả ở vùng đất đồi cao. Chính vì vậy, ngoài tác dụng làm nguồn thức ăn cho gia súc chất lượng cao nó còn được trồng để cải tạo đất và che phủ đất, chống xói mòn.
Thời gian gieo trồng từ tháng 2 đến tháng 4 (nếu gieo bằng hạt) và vào tháng 8 – 9 (nếu dâm cành). Thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 12. Chu kỳ kinh tế 4 – 5 năm.
Yêu cầu về đất và cách chuẩn bị đất
Yêu cầu loại đất nhẹ với độ ẩm từ trung bình đến hơi khô. Làm đất kỹ như trồng cỏ voi (cày, bừa hai lần), cày sâu 15 – 20cm, bảo đảm đất tơi nhỏ, hạt đất có đường kính dưới 1cm chiếm 70 – 80%, hạt đất có đường kính 2 – 5cm chỉ chiếm 20 – 30%. Làm sạch cỏ dại.
Phân bón
Trên mỗi ha bón:
10 – 15 tấn phân chuồng hoai mục – bón lót toàn bộ theo hàng rạch.
300 – 350kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng rạch
100 – 150kg cloma kali – bón lót toàn bộ theo hàng rạch.
50kg urê – bón thúc khi cây đạt độ cao 5 – 10cm.
Nếu đất chua thì bón thêm vôi (0,5 – 1 tấn/ha) bằng cách rải đều khi cày bừa.
Cách trồng và chăm sóc
Có thể trồng cỏ theo hai cách:
+ Trồng bằng cành dâm: cắt cành dài 30 – 40cm, có 4 – 5 mắt, chôn xuống đất 20cm. Trồng hàng cách hàng 50 – 60cm, cây cách cây 3 – 5cm.
+ Gieo bằng hạt: sử dụng 4 – 5kg hạt giống cho một ha. Gieo hạt theo hàng rạch sau khi đã bón phân. Để cho cây chóng mọc, có thể ủ hạt trong nước nóng 60 – 70°C, khí hạt nứt nanh thì đem gieo.
Cũng có thể gieo hạt trong vườn ươm và khi cây mọc cao 20 – 25cm thì nhổ ra trồng theo rạch với khoảng cách cây cách cây 15 – 20cm.
Trong trường hợp gieo hạt hoặc dâm cành, khi cây mọc cao khoảng 5 – 10cm thì tiến hành xới xáo cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại, đổng thời bón thúc bằng urê.
Thu hoạch cỏ Stylo lứa đầu khoảng 3 tháng sau khi trồng, tức là lúc cỏ cao khoảng 60cm và thảm cỏ che phủ kín đất. Khi thu hoạch cắt cách mặt đất 15 – 20cm. Thu hoạch các lứa tiếp theo cứ sau 2 – 2,5 tháng, lúc cây cao 35 – 40cm.
Năng suất chất xanh
Chỉ bằng 1/5 năng suất cỏ voi. Năng suất trên một ha là 40 – 50 tấn / năm. Cỏ Xuđăng
Cỏ Xuđăng
Cỏ Xuđăng thuộc họ hoà thảo, thân đứng, cỏ có khả năng sinh trưởng nhanh, chịu được các điều kiện nóng và khô hạn. Loại cỏ này cũng rất thích hợp cho chăn nuôi trâu bò theo quy mô trang trại. Vì có thể cơ giới hoá toàn bộ từ khâu làm đất đến gieo trồng, chăm sóc và thu cắt; cỏ có thể được dùng cho trâu bò ăn tươi hoặc dự trữ bằng ủ chua.
Để nâng cao chất lượng củ, người ta đã tiến hành lai cỏ Xuđăng với cao lương (lúa miến, bo bo).
Thời gian trồng: từ tháng 2 đến tháng 9,thu hoạch từ tháng 4 đến tháng 12. Chu kỳ kinh tế: trung bình 3 – 4 năm.
Yêu cầu đất trồng
Đất có thành phần cơ giới nhẹ, sâu màu, tơi xốp, pH gần trung tính, không ngập nước. Yêu cầu về kỹ thuật làm đất và phân bón giống như cỏ voi.
Cách trồng và chăm sóc
Gieo bằng hạt, cứ 7 – 8kg hạt giống cho 1 ha. Mật độ gieo trồng: hàng cách hàng 50cm, bụi cách bụi 20cm.
Năng suất chất xanh
Đạt 100 – 120 tấn/ha/năm.
Cỏ Ghinê
Cỏ Ghinê còn gọi là cỏ sả, là loại cây hoà thảo, mọc thành bụi như bụi sả. Cỏ ăn rất ngon và có giá trị dinh dưỡng cao, không bị giảm chất lượng nhanh như cỏ voi.
Có hai loại cỏ Ghinê: loại lá lớn và loại lá nhỏ. Loại lá lớn cho năng suất cao, nên trồng để cho trâu bò ăn tươi hoặc ủ chua dự trữ với cỏ voi. Loại lá nhờ cho năng suất thấp hơn, nhưng có khả năng chịu dẫm đạp, chịu hạn tốt, rất thích hợp cho việc trồng để tạo nên bãi chăn thả và chống xói mòn cho đất.
Nhìn chung, cỏ Ghinê có nhiều đặc tính quý: sinh trưởng mạnh, năng suất cao, khả năng chịu hạn, chịu nóng và chịu bóng cây tốt, dễ trồng. Thời gian trồng từ tháng 2 – 4, thu hoạch từ tháng 5 đến tháng 11. Chu kỳ kinh tế: sau 4 – 5 năm mới phải trồng lại.
Yêu cầu đất trồng
Loại cỏ này phù hợp với chân ruộng cao, loại đất cát pha, không bị ngập nước hoặc ẩm nhiều. Yêu cầu cày bừa kỹ (cày sâu 15 – 20cm), làm đất tơi nhỏ, đặc biệt là trong trường hợp trồng bằng hạt.
Phân bón
Cho mỗi ha cần:
10 – 15 tấn phân chuồng hoai mục – bón lót toàn bộ theo hàng rạch.
200 – 250kg super lân – bón lót toàn bộ theo hàng rạch.
150 – 200kg sulfat kali – bón lót toàn bộ theo hàng rạch.
200 – 300kg sulfat đạm – chia đều để bón thúc sau mỗi lần thu hoạch.
Cách trồng và chăm sóc
Có thể trồng bằng hạt, hoặc dùng khóm thân rễ, trồng theo bụi. Sau khi làm đãt kỹ, rạch hàng cách nhau 40 – 50cm, sâu 15cm (nếu trồng bằng khóm theo bụi) hoặc sâu 10cm (nếu gieo bằng hạt). Lượng hạt cần cho mỗi ha là 5 – 6kg,
Lượng khóm cần là 5 – 6 tấn/ha. Cách chuẩn bị khóm giống như sau: cắt bỏ phần ngọn các khóm cỏ sả giống trên ruộng và để lại chiều cao khóm khoảng 25 – 30cm. Dùng cuốc đánh gốc cỏ lên, rũ sạch đất, cắt bớt phần rễ già. Sau đó tách thành những khóm nhỏ, mỗi khóm 3 – 4 nhánh đem trồng.
Sau khi rạch hàng và bón phân như nêu trên, tiến hành trồng bằng cách đặt các khóm vào rãnh, ngả cùng một phía và vuông góc với thành rãnh, cách nhau 35 – 40cm, lấp đất sâu khoảng 10 – 15cm và dậm chặt đất.
Nếu trồng bằng hạt thì lấp đất dày 5cm.
Sau khi trồng 15 – 20 ngày kiểm tra khả năng ra mầm chồi và nếu cần thiết thì trồng dặm lại. Đồng thời lúc này xới xáo qua, làm cỏ dại và bón thúc bằng urê. Được 60 ngày sau khi trồng thì thu hoạch lứa đầu, cắt phần trên, cách mặt đất 10cm. Các lứa thu hoạch sau cách nhau 40 – 45 ngày.
Năng suất chất xanh
Với loại cỏ lá lớn và trồng thâm canh có thể cho năng suất tương đương cỏ voi: mỗi năm thu hoạch 8 – 10 lứa và trên một ha có thể đạt 100 – 200 tấn.
Cỏ lông Para
Là loại cây thuộc họ hoà thảo; thân bò, mặt trên và dưới lá có nhiều lông tơ mịn. Ở Ấn độ, người ta còn gọi cỏ lông Para là cỏ nước hay cỏ trâu vì nó ưa nước và sinh trưởng nhanh trong điều kiện đầm lầy.
Cỏ lông Para thích hợp với những vùng mưa nhiều, đất trũng. Tại những nơi này, cỏ mọc rất khỏe và nhanh chóng lấn át cỏ dại. Chỉ cần trồng một lần sau đó nó tự phát triển dễ dàng. Thân và lá cỏ lông Para mềm nên trâu bò rất thích ăn. Tuy nhiên, khi cỏ già và vấy bùn, phân thì tính ngon miệng giảm rõ rệt. Hơn nữa, cỏ lông Para không chịu được dẫm đạp, do vây chỉ nên trồng để thu cắt và cho ăn tại chuồng.
Thời gian trồng loại cỏ này là từ tháng 3 đến tháng 9 và thời gian thu hoạch là từ tháng 5 đến tháng 11 hàng năm. Chu kỳ kinh tế 4 – 5 năm.
Yêu cầu đất và kỹ thuật làm đất
Cỏ ưa loại đất có độ ẩm cao hoặc bùn lầy, nhiều màu, không chua mặn. Phải cày bừa đất nhuyễn như cấy lúa. Trên đất cạn phải làm đất tơi nhỏ.
Bón phân
Mỗi ha cần bón:
15 tấn phân chuồng, bón lót vào lúc trồng cỏ.
100 – 150 kg sulfat đạm, bón thúc sau mỗi lần thu hoạch.
Sau khi làm đất kỹ, rạch hàng cách nhau 40 – 50cm và tiến hành đặt hom kép, xuôi theo rạch hàng. Trồng bằng hom giống dài 20cm.
Năng suất chất xanh
Đạt 90 – 100 tấn/ha. Cây ngô
Cây ngô
Ngô thuộc họ hoà thảo, là loại cây lương thực quan trọng đứng hàng thứ hai sau lúa. Ở nước ta, việc trồng ngô làm thức ăn cho trâu bò, đặc biệt là bò sữa ngày càng được chú ý. Ngô có thể được sử dụng cho ăn tươi hoặc dự trữ dưới dạng ủ chua. Thân, lá cây ngô là loại thức ăn rất tốt cho trâu bò. Có thể cho trâu bò ăn cây ngô vào bất kỳ giai đoạn sinh trưởng nào, nhưng tốt nhất là lúc cây ngô ngậm sữa hay chín sáp. Bởi vì, lúc này chẳng những hàm lượng các chất dinh dưỡng trong ngô cao mà năng suất chất xanh cũng cao. Sản phẩm thu hoạch lúc này cũng là thích hợp nhất để ủ chua.
Ngô không có khả năng chịu hạn và chịu ngập nước, dù chỉ là một thời gian ngắn.
Thời vụ trồng: trồng ngô lấy thân và lá (không phải trồng ngô lấy hạt) từ tháng 2 đến tháng 11, thu hoạch 80 – 90 ngày sau khi trồng.
Yêu cầu về đất
Ngô thích hợp trên đất nhẹ, sâu màu, khô và dễ thoát nước. Phải làm đất kỹ, cày bừa đất tơi nhỏ.
Phân bón
Phân bón cho mỗi ha như sau:
20 – 25 tấn phân chuồng – bón lót toàn bộ lúc gieo trồng.
150 – 200kg super lân – bón lót toàn bộ lúc gieo trồng.
40 – 50kg kali – bón lót toàn bộ lúc gieo trồng.
100 – 120kg urê, bón làm ba lần. Lần thứ nhất bón 35kg/ha khi cây mọc cao 15 – 20cm (giai đoạn 3 đến 5 lá). Lần thứ hai: 35kg/ha, vào lúc ngô đạt 6 tuần tuổi (khi cây đạt độ cao 50cm). Lần bón phân urê thứ ba tương ứng với thời kỳ cây có nhu cầu đạm rất cao: khoảng từ 15 ngày trước khi xuất hiện hoa đực cho đến khoảng một tháng sau khi trổ hoa.
Việc bón phân tuỳ thuộc vào thời vụ gieo trồng và từng vùng đất. Đối với những vùng đất bãi ven sông, ngay sau khi nước lũ rút và gieo hạt vụ đầu tiên, có thể tiến hành gieo hạt mà không cần bón phân chuồng, chỉ cần rải tro. Đối với những vụ gieo trồng khác, tiếp theo, cần bón lót một lượng phân như nêu trên. Cần phải bón nhiều phân đạm, bởi vì loại phân này tạo thuận lợi cho việc hình thành các phần xanh của cây và lưu ý bón vào gần rễ để cho cây hút đạm dễ dàng.
Nếu thiếu đạm vào thời điểm hình thành bắp, các lá phía dưới cây bị biến màu: chúng có màu vàng nhạt và bắt đầu từ đường gân trung tâm. Điều đó được giải thích bằng thực tế là khi cây ngô không có đủ đạm trong đất để hình thành bắp, sẽ điều đạm từ các lá về.
Cách trồng và chăm sóc
Trồng theo mật độ: hàng cách hàng 50 – 60cm, các khóm cây cách nhau 15 – 20cm, mỗi khóm gieo 3 hạt. Cũng có thể gieo hạt theo hàng liên tục.
Cần chú ý là, đối với trường hợp trồng ngô làm thức ăn cho trâu bò và ủ chua, khi gieo hạt cần phải gieo dày hơn so với ngô dùng lấy hạt. VI đó là hai cách sử dụng ngô khác nhau. Tuy nhiên, ngô là loại khó tính, cần phải tuân thủ nghiêm túc mật độ gieo hạt để thu được một lượng tối đa vật chất xanh, có chất lượng tốt. Khi mật độ gieo quá lớn, sẽ gây ra hiện tượng cạnh tranh dinh dưỡng giữa các cây cạnh nhau, và thông thường sẽ không có những cây khỏe mạnh, thân cây lớn trội, mà tất cả các cây đều bị tổn hại, nhỏ bé. Kết quả là ngô sẽ ra ít bắp hoặc bắp rất nhỏ, mà ngô làm thức ăn gia súc cần phát triển các bắp; bắp chiếm 60% khối lượng vật chất thu hoạch để ủ chua và chúng chứa nhiều chất dinh dưỡng cần thiết cho trâu bò. Thực tế, mật độ gieo quá dày sẽ không cho phép thu được khối lượng thức ăn lớn trên một đơn vị diện tích.
Thông thường trong trồng ngô làm thức ăn cho trâu bò hoặc để ủ chua, lượng hạt ngô giống lớn hơn so với lượng hạt sử dụng để gieo ngô lấy hạt từ 10 đến 15%. Tức là, lượng hạt sử dụng khoảng 70kg cho một hecta hoặc 2,5kg cho một sào.
Việc lựa chọn giống ngô trồng lấy cây để ủ chua (và làm thức ăn cho trâu bò nói chung) cũng rất quan trọng. Yêu cầu chung là giống ngô phải có chu kỳ thực vật ngắn, có khả năng thích ứng và chống chịu với các điều kiện ngoại cảnh, có tổng khối lượng vật chất trên một đơn vị diện tích lớn. Những giống ngô truyền thống thường cho khối lượng thức ăn lớn nhưng hình thành ít bắp hơn so với những giống ngô đã được chọn lọc hoặc những giống ngô lai. Như vây cũng không tốt nếu đem ủ chua. Tốt nhất nên dùng giống ngô VM – 1.
Cần xới xáo gốc cho đất tơi xốp và làm sạch cỏ dại. Nên làm cỏ hai lần: lần làm cỏ đầu tiên tiến hành khoảng 3 tuần sau khi gieo hạt. Trong trường hợp gieo ngô theo khóm thì đồng thời vào dịp làm cỏ này tiến hành tỉa bớt: trong một khóm có ba cây thì nhổ đi một. Lần làm cỏ thứ hai, tương ứng với lần bón đạm thứ hai và nên tiến hành vun gốc. Sau khi làm cỏ thì bón đạm.
Năng suất chất xanh
Với điều kiện thâm canh nói trên, năng suất có thể đạt 35 – 40 tấn/ha/vụ.
Giâm cành, giâm hom mới đúng chữ. Dâm là từ nói về việc khác.
Giâm cành, mà hom vát xéo, và nhô lên khỏi mặt đất là kỹ thuật xưa rồi. Bây giờ hom phải cắt ngang, và đặt chìm dưới mặt đất.
Năng suất chất xanh chưa được đúng nghĩa lắm. Năng suất đó chỉ là thân và lá thôi, trong đó tỷ lệ thân không ăn được có thể rất cao, vì thân già rất nặng. Nói tóm lại, khi trồng các cây lấy thân lá chăn nuôi, luôn luôn phải để ý đến tỷ lệ ăn được và không ăn được, mà thu hái khi còn sớm. Ví dụ, cỏ Voi mọc cao 2 mét, thì tỷ lệ ăn được chỉ có 30%, còn thân già cứng phải mất công cắt băm rồi vứt đi chiếm quá nửa. Ở Trung quốc, người ta đã ngừng trồng cỏ Voi, và còn phá đi để lấy đất trồng cây họ đậu.