Tìm hiểu các giống bò
Các giống bò nuôi lấy sữa Bò lang trắng đen (Holstein Friesian – HF) Holstein Friesian là giống bò sữa nổi tiếng nhất thế giới, được tạo ra ở tỉnh Fulixon, phía bắc Hà Lan từ thế kỷ thứ XIV và không ngừng được cải thiện về phẩm chất năng suất. Đến thế kỷ thứ XV, bò Holstein Friesian được bán ra ...
Các giống bò nuôi lấy sữa
Bò lang trắng đen (Holstein Friesian – HF)
Holstein Friesian là giống bò sữa nổi tiếng nhất thế giới, được tạo ra ở tỉnh Fulixon, phía bắc Hà Lan từ thế kỷ thứ XIV và không ngừng được cải thiện về phẩm chất năng suất. Đến thế kỷ thứ XV, bò Holstein Friesian được bán ra khỏi nước và từ đó nó có mặt ở hầu khắp các nơi trên thế giới.
Bò Holstein Friesian có màu lông lang trắng đen, một số có màu lang trắng đỏ. Các điểm trắng đặc trưng là: điểm trắng ở trán, vệt trắng ở vai kéo xuống bụng và bốn chân, đuôi trắng.
Holstein Friesian là giống bò có khả năng cho sữa cao, đồng thời có khả năng cải tạo các giống bò khác theo hướng sữa. Chính vì vậy, các nước thường dùng bò Holstein Friesian thuần để lai tạo với bò địa phương, tạo ra giống bò sữa lang trắng đen của nước mình và mang những tên khác nhau: bò Lang trắng đen Mỹ, Anh, Pháp, Cuba, Canada, Trung Quốc…
Bò lang trắng đen thành thục sớm, 15 – 20 tháng tuổi có thể cho phối giống. Là giống bù có khối lượng cơ thể lớn: bê sơ sinh cân nặng 35 – 45kg; bò cái trưởng thành cân nặng 450 – 750kg; bò đực giống có thể nặng từ 750kg đến 1100kg. Bò cái Holstein Friesian có kiểu hình đặc trưng của giống bò sữa: thân hình tam giác, phần sau sâu hơn phần trước, thân bò hẹp dần về phía trước, giống như cái nêm cối. Đầu dài, thanh nhẹ, trán phẳng, sừng thanh và cong. Cổ dài cân đối, da cổ có nhiều nếp gấp, không có yếm. Bốn chân thẳng, dài, khoẻ, cự ly chân rộng. Bầu vú phát triển to, tĩnh mạch vú nổi rõ, da mỏng, đàn hồi tốt, lông mịn. Sản lượng sữa bình quân 5000 – 6000kg/chu kỳ vắt sữa 300 ngày. Con cao nhất có thể đại trên 18.000 kg/chu kỳ. Nhìn chung, tỷ lệ mỡ sữa của giống bò Holstein Friesian thấp, bình quân 3,42%.
Hầu hết các nước có ngành chăn nuôi bò sữa phát triển đều nuôi bò giống Holstein Friesian. Bởi vì giống này chẳng những cho năng suất sữa cao mà còn có khả năng cho thịt lớn. Bê đực nuôi thịt công nghiệp đạt khối lượng 400 – 450kg lúc 15 tháng tuổi, tỷ lệ thịt xẻ 50 – 55%.
Để phát triển chăn nuôi bò sữa trong nước, ngay từ những năm 1960 – 1970, chúng ta đã nhập bò lang trắng đen của Trung Quốc, Cuba và phát triển chúng bằng nhân thuần đồng thời lai chúng với bò Lai Sind.
Kết quả nghiên cứu nhiều năm cho thấy, bò Holstein Friesian thuần chỉ thích nghi với những vùng có khí hậu mái mẻ, nhiệt độ bình quân cả năm dưới 21°C, như cao nguyên Mộc Châu (Sơn La), Đức Trọng (Lâm Đồng)… Những vùng khác, khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, không thích hợp với chúng. Chính vì vậy, để có giống bò sữa nuôi được rộng rãi ở nhiều vùng khác nhau của đất nước, đáp ứng như cầu sản xuất sữa, chúng ta đã tiến hành nghiên cứu, lai tạo bò Holstein Friesian thuần với bò Vàng Việt Nam đã được “Zebu hoá”.
Bò Jersey
Bò Jersey được tạo ra ở đảo Jersey nước Anh, từ gần ba trăm năm trước. Nó là kết quả tạp giao giữa giống hò Bretagng (Pháp) và bò địa phương, về sau có tăng thêm máu bò Normandie (Pháp). Từ năm 1970 nó đã trở thành giống bò sữa nổi tiếng thế giới.
Bò Jersey có thân hình nhỏ (khối lượng bê sơ sinh: 25 – 30kg; bò cái trưởng thành cân nặng 300 – 350kg; bò đực: 550 – 700kg), màu lông xám hoặc vàng xám, có con lông xám sậm hoặc đen nâu, đôi khi có đốm trắng ở chân. Đầu thanh, mặt cong, mắt lồi, sừng nhỏ và có màu ngà, cổ thanh và dài, yếm lớn nhưng mỏng. Mình bò Jersey dài, bụng to, lông ngắn và thưa. Da mỏng, hông rộng. Bốn chân mảnh, khoảng cách giữa hai chân rộng, móng bé, đuôi nhỏ. Bầu vú lớn, phát triển cả về phía trước và phía sau, mặt dưới vú rộng và bằng phẳng, bốn vú cách xa nhau, tĩnh mạch vú to, dài và gấp khúc, kéo dài lên đến nách trước. Bò có tính tình hiền lành, không phá phách và cũng không kén ăn.
Bò cái Jersey thành thục sớm, 16 – 18 tháng tuổi có thể phối giống lần đầu. Khả năng sinh sản của bò cũng rất tốt, có thể đẻ mỗi năm một lứa. Đây là giống bò chuyên dụng sữa, có chu kỳ tiết sữa kéo dài, nhiều con có thể khai thác đến 12 – 14 tháng. Năng suất sữa trung bình 3.500kg/chu kỳ tiết sữa 300 ngày. Đặc biệt tỷ lệ mỡ sữa rất cao: 5,5 – 6,0%. Mỡ sữa màu vàng, hạt mỡ to, thích hợp cho việc chế biến bơ. Chính vì vậy, nó thường được sử dụng trong công tác lai tạo để nâng cao tỷ lệ mỡ sữa cho các giống bò sữa khác.
Tuy được tạo ra ở vùng có khí hậu ôn hoà, nhưng bò Jersey thích nghi tốt với khí hậu nước ta và ít bệnh tật.
Bò lai F1 (Lai Sind x Holstein Friesian)
Bò lai đời 1 (F1) có 1/2 máu Holstein Friesian, được tạo ra bằng cách lai giữa bò đực Holstein Friesian với bò cái Lai sind. Hầu hết bò lai F1 có màu lông đen, nếu có vết lang trắng thì rất nhỏ, ở dưới bụng, bốn chân, khấu đuôi và trên trán.
Bê sơ sinh có khối lượng 20 – 25kg. Bò cái trưởng thành nặng 350 – 420kg, bò đực trưỏng thành nặng 500 – 550kg. Sản lượng sữa đạt 2500 – 3000kg/chu kỳ. Ngày cao nhất có thể đạt 15 – 20kg. Tỷ lệ mỡ sữa 3,6 – 4,2%. Thời gian cho sữa có thể kéo dài trên 300 ngày.
Bò lai F1 động dục lần đầu bình quân lúc 17 tháng tuổi, có khi sớm hơn ở 13 – 14 tháng. Tuổi đẻ lứa đầu bình quân lúc 27 tháng, Bò lai F1 mắn đẻ. Khoảng cách giữa hai lứa đẻ là 13 – 14 tháng.
Bò lai F1 chịu đựng tương đối tốt điều kiện nóng (30 – 35°C), ít bệnh tật. Do có nhiều ưu điểm, ở những vùng mới chăn nuôi bò sữa, bò F1 được xem như đàn bò chủ lực.
Bò lai F2 (Lai F1 x Holstein Fnesian)
Bò lai F2 được tạo ra bằng cách lai bò đực giống Holstein Friesian (nhảy trực tiếp hoặc thụ tinh nhân tạo) với bò cái lai F1 (bò lai F2 có 3/4 máu Holstein Friesian). Về ngoại hình, bò lai F2 gần giống với hò Holstein Friesian thuần, với màu lông lang trắng đen.
Bê lai sơ sinh F2 cân nặng 30 – 35kg. Bò đực trưởng thành cân nặng 600 – 700kg. Bò cái nặng trung bình 400 – 450kg.
Trong điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, bò lai F2 cho năng suất sữa cao hơn bò F1. Trong một chu kỳ vắt sữa 300 ngày, năng suất có thể đạt 3.000 – 3.500kg hoặc cao hơn. Tỷ lệ mỡ sữa từ 3,2% đến 3,8%.
Trong điều kiện nóng và ẩm (nhiệt độ trên 30°C), bò lai F2 tỏ ra kém chịu đựng hơn so với bò F1.
Các giống bò nuôi lấy thịt
Bò Charolais
Là giống bò chuyên dụng thịt của Pháp, được tạo ra từ trên 200 năm nay. Bò có lông màu trắng, ánh kem sữa. Bò Charolais thuộc loại to con, mình dài, ngực sâu, lưng phẳng, đầu ngắn và thanh.
Con đực trưởng thành cân nặng 1.100 – 1.200kg, con cái cân nặng 650 – 750kg. Sản lượng sữa bình quân một chu kỳ 1.500 – 2.000kg.
Bò có tốc độ lớn nhanh, trong giai đoạn nuôi lớn và vỗ béo, mức tăng trọng hàng ngày của con đực có thể lên tới 1.100g, của con cái 950g. Lúc 12 tháng tuổi, con đực đạt 400 – 450kg, con cái đạt 380 – 400kg. Lúc 18 tháng tuổi, con đực đạt 650kg, con cái đạt 550kg, tỷ lệ thịt xẻ 60 – 62%.
Có thể dùng bò đực Charolais để lai kinh tế với các giống bò sữa hoặc kiêm dụng thịt sữa cho kết quả rất tốt. Bê lai nuôi thịt đạt khối lượng 500kg lúc 18 tháng tuổi, với tỷ lệ thịt xẻ trung bình 60%.
Mấy năm trước đây nước ta đã nhập một số tinh đông lạnh bò Charelais để thực nghiệm lai với bò cái Lai Sind, tạo ra bê nuôi lấy thịt. Bò Charolais
Hereford
Hereford là giống bò thịt chuyên dụng, nổi tiếng thế giới, được tạo ra ở Anh vào thế kỷ thứ 19. Nó là giống bò ít đòi hỏi các điều kiện chăm sóc, thích hợp với điều kiện chăn thả và thích nghi với khí hậu nhiều nước. Chính vì vậy, hiện nay giống bò này được nuôi rộng rãi ở Anh, Mỹ, Canada… và nhiều nước khác trên thế giới.
Bò có lông màu đỏ với đốm trắng ở đầu, ức, bụng và khấu đuôi. Giống bò này có những đặc điểm điển hình của loại hướng thịt: thân hình vạm vỡ, chân và đầu ngắn, cổ dày, tròn và ngắn, u vai rộng, lưng hông thẳng và rộng, mông dài và nở, ngực tròn, rộng.
Thể trọng trung bình: con đực: 800 – 1100 kg.
con cái: 600 – 750 kg.
Bò có tốc độ lớn nhanh; bê đực 12 tháng tuổi có thể đạt khối lượng 350 – 400kg hoặc hơn, lúc 18 tháng tuổi đạt 550kg.
Tỷ lệ thịt xẻ của bò cao (65 – 70%), phẩm chất thịt ngon, mềm, thớ thịt nhỏ, giữa cơ bắp cổ lớp mỡ.
Bò B.B.B
Bò B.B.B. (tên viết tắt từ tiếng Pháp Blanc Bleu Belge = Bò trắng xanh Bỉ) là giống bò siêu thịt của Vương quốc Bỉ, với số lượng khoảng 1.500.000 con, chiếm 45% tổng đàn của cả nước Bỉ, Bò B.B.B, cũng được nuôi và phái triển thành công tại Pháp, Hà lan, Đan mạch, Anh, Mỹ, Canada, Brazin, Australia.
Bò B.B. B là kết quả của chương trình lai tạo giữa bò địa phương và bò Shorthorn, bắt đầu tiến hành vào những năm đầu của thế kỷ 20. Nhưng do chiến tranh nên mãi tới thập kỷ 60 – 70 chương trình mới thành công và một giống bò thịt mới ra đời, với sự phát triển tuyệt vời của cơ bắp.
Bò B.B.B. có ba màu lông chủ yếu là trắng, trắng loang xanh và trắng loang đen. Trong đó tỷ lệ bò có màu thuần trắng cao nhất.
Bò B.B.B. có thân hình đẹp, đồ sộ, cấu trúc xương vững chắc, hài hoà với xương sườn tròn, mông không dốc, đuôi dài với túm lông dầy ở cuối. Bò đực B.B.B, trưởng thành có khối lượng: 1.100 – 1.250kg, cao vây: 145 – 150cm. Bò cái vào lúc chửa lần đầu có khối lượng 700 – 750kg, cao vây: 132 – 134cm. Tuổi đẻ lần đầu trung bình lúc 32 tháng. Nhưng nếu được nuôi tốt có thể đẻ lần đầu lúc 24 tháng tuổi. Ở 75% số bò, khoảng cách lứa đẻ bình quân 14 tháng (dao động từ 11 đến 15 tháng). Thời gian mang thai trung bình 280 – 282 ngày. Khối lượng bê sơ sinh: 44kg.
Bò B.B.B. có khả năng sản xuất thịt tốt. Khối lượng bò lúc 1 năm tuổi đạt 480kg (con đực) và 370kg (con cái). Nuôi tới 15 – 16 tháng tuổi đạt 650kg. Mức tăng trọng bình quân đạt 1300g/ngày. Tỷ lệ thịt xẻ đạt 66%. Hệ số sử dụng thức ăn (lượng thức ăn ăn vào/1kg tăng trọng) của bò B.B.B. được công nhận là tốt nhất trong các giống bò thịt hiện nay (biến động trong khoảng 5,5 – 7,0kg thức ăn cho 1kg tăng trọng). Phẩm chất thịt thơm, ngon, Nhược điểm lớn nhất của bò B.B.B. là đẻ khó, tại Bỉ 95% số ca đẻ phải sử dụng đến phẫu thuật xoang bụng để lấy thai.
Một số nước như Anh, Mỹ, Canada…. đã dùng bò B.B.B. để lai kinh tế bò thịt và kết quả cho thấy bò B.B.B. là một trong những giống bò thịt tốt nhất có thể dùng để lai tạo bò thịt chất lượng cao. Bò lai B.B.B. có hệ số sử dụng thức ăn tốt, năng suất thịt cao, chất lượng thịt ngon, tỷ lệ mỡ giắt trong cơ thấp, ngoại hình đẹp. Cũng có thể dùng bò đực cho lai tạo với bò cái giống sữa Holstein Friesian, kết quả là làm tăng khối lượng giết thịt lên 5% và làm tăng tỷ lệ thịt tinh lên 8%.
Một số cơ sở giống của nước ta (Công ty giống gia súc Hà Nội, Xí nghiệp truyền giống Thanh Ninh – Ninh Bình) đã nhập một số tinh bò B.B.B. từ Bỉ và đang tiến hành thực nghiệm lai tạo với bò Lai Sind. Bước đầu cho kết quả tốt: bê sơ sinh có khối lượng trung bình 25 – 28kg, khả năng tăng trọng cao.
Bò Santa – gertrudis
Bò Santa – gertrudis được tạo ra ở Mỹ, là kết quả lai tạo giữa giống Shorthorn Hereford và bò Zebu Ấn độ (tỷ lệ máu bò Zebu là 3/8). Chính vì vậy bò có tính thích nghi cao tại các vùng nóng (chịu đựng được nhiệt độ và độ ẩm cao), chịu đựng được kham khổ, chống chịu tối các bệnh ký sinh trùng đường máu và cho năng suất cao.
Bò có lông màu đỏ xẫm, đôi khi có đốm trắng dưới bụng. Có yếm to, dầy với nhiều nếp gấp. Ngực sâu, lưng phẳng, da mỏng.
Bò Santa – gertrudis thuộc loại nặng cân, con đực trưởng thành có khối lượng 900 – 1.000kg, con cái trưởng thành nặng 600 – 800kg. Lúc 18 tháng tuổi bê đực nuôi thịt đại khối lượng 550kg, bê cái đạt 400kg, tỷ lệ thịt xẻ trung bình 60% .
Trong những năm 1978 – 1982 nước ta đã thử nghiệm dùng bò đực Santa – gertrudis cho lai kinh tế với bò cái Lai Sind, bê lai nuôi 22 – 24 tháng tuổi đạt khối lượng 250kg, tỷ lệ thu xẻ 50 – 51%.
Các giống bò kiêm dụng
Bò Vàng Việt Nam
Bò Vàng Việt Nam hay bò địa phương Việt Nam là tập hợp các quần thể bò, phân bố tương đối tập trung ở các vùng có yêu cầu về sức kéo trên đất nhẹ: vùng ven biển Thanh Hoá, Nghệ An, Quảng Ngãi, Phú Yên, Khánh Hoà… và các vùng đồi núi. Phần lớn có u nổi rõ nên được xem là có nguồn gốc như bò Zebu Ấn Độ (Bos Indicus). Bò có sắc lông vàng, đậm nhạt tuỳ từng quần thể, từng vùng nên được gọi chung là “bò Vàng”. Cũng có thể gọi tên theo vùng tập trung, tuy có ít nhiều sai khác về tầm vóc và sắc lông như bò Thanh Hoá, bò Lạng Sơn, bò Phú Yên, bò Bà Rịa.
Do nó có tầm vóc nhỏ bé nên còn quen gọi là “bò cóc” hay bò ta.
Bò Vàng Việt Nam có nhiều đặc tính quý như: khỏe mạnh, nhanh nhẹn, thích nghi lâu đời với điều kiện khí hậu nhiệt đới; chịu đựng được các điều kiện kham khổ về thiếu thốn thức ăn; sức chống chịu bệnh tật tốt. Nhược điểm lớn nhất của bò ta là tầm vóc nhỏ bé, khối lượng thấp, chậm thành thục tính dục (khoảng 2,5 – 3 tuổi mới phối giống lứa đầu), năng suất sữa và thịt đều rất thấp. Khối lượng bình quân toàn đàn khoảng 140 – 200kg. Cơ thể thấp, mình ngắn và lép. Kích thước các chiều: cao vây: 95 – 110cm, dài thân chéo: 113 – 120cm, vòng ngực: 135 – 140cm. Kích thước của đực giống so với kích thước của cái sinh sản không có sự chênh lệch lớn. Chu kỳ cho sữa khoảng 6 – 7 tháng, với sản lượng từ 300 – 400kg/chu kỳ. Lượng sữa này chỉ đủ cho con bú. Bò Vàng Việt Nam cũng không phải là giống bò cho thịt, tỷ lệ thịt xẻ thấp, khoảng 42 – 45%.
Để tạo ra con lai có tầm vóc lớn hơn và sức sản xuất tốt hơn, đã từ lâu chúng ta dùng bò đực giống Zebu cho phối với bò cái địa phương. Đặc biệt, thời gian gần đây, nhờ triển khai chương trình “Zebu hoá ” (với việc sử dụng tinh bò đực Red Sindhi hoặc Sahiwal), chúng ta đã tạo được đàn bò lai lớn và chất lượng tốt.
Bò Lai Sind
Vào những năm 1923 – 1924, một số bò Red Sindhi được nhập vào nước ta. Quá trình lai hấp phụ tự nhiên và nhân tạo từ đó đến nay giữa bò Vàng Việt Nam và bò Red Sindhi tạo thành quần thể bò Lai Sind, với tỷ lệ máu Red Sindhi rất khác nhau và ngày một lăng. Bò Lai Sind càng có nhiều tỷ lệ máu bò Red Sindhi, thì khả năng cho thịt càng tốt hơn, sức cày kéo khoẻ hơn và khả năng cho sữa cũng cao hơn. Bò Lai Sind
Hiện nay đàn bò Lai Sind chiếm 30 – 40% tổng số đàn bò nội và được phân bố ở hầu khắp các tỉnh trong toàn quốc, đặc biệt là ở Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, An Giang, Long An, Phan Rang, Nam Định, Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên.
Bò cái Lai Sind đã khắc phục được những nhược điểm của bù Vàng, tập trung được những đặc tính quý của cả hai giống bò Vàng và bò Red Sindhi. Bò Lai Sind có nhiều đặc điểm gần giống như bò Red Sindhi: đầu hẹp, trán gồ, lông màu cánh dán, tai to cúp xuống, yếm và rốn rất phát triển, u vai cao và nổi rõ, chân cao, mình ngắn, ngực sâu, mỏng dốc, bầu vú khá phát triển, âm hộ có nhiều nếp nhăn, đa số đuôi dài và đoạn chót đuôi không có xương.
Bò Lai Sind cân nặng 280 – 320kg (con cái) và 450 – 500kg (con đực). Khối lượng sơ sinh của bê: 18 – 25kg. Sản lượng sữa bình quân đạt khoảng 800 – 1200kg/chu kỳ vắt sữa 240 ngày. Cá biệt có những con cho đến 2000kg sữa trong một chu kỳ. Ngày cao nhất có thể đạt 8 – 10kg sữa.Tỷ lệ mỡ sữa rất cao: 5,5 – 6,0%.
Tuy năng suất sữa không cao, nhưng do dễ nuôi, chịu đựng được kham khổ, ít bệnh tật, nên phần lớn bà con bắt đầu nghề chăn nuôi bò sữa từ bò Lai Sind.
Những bò Lai Sind đạt tiêu chuẩn phối giống (khối lượng cơ thể trên 280kg, không bệnh tật) có thể dùng làm bò cái nền và cho phối với đực của những giống chuyên sữa, chuyên thịt cao sản, tạo ra con lai có khả năng cho sữa, cho thịt cao hơn, lại dễ nuôi và sinh sản tốt.
Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của các nhóm giống bò nuôi tại TP.Hồ Chí Minh
(Theo Đinh Văn cải và CS.-1997) Một số chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật của các nhóm giống bò nuôi tại TP.Hồ Chí Minh
Bò nâu Thuỵ Sỹ (Brown Swiss)
Bò nâu Thuỵ Sỹ được tạo ra tại vùng núi Alpes (Thuỵ Sỹ), do nhân thuần từ bò địa phuơng theo hướng kiêm dụng sữa – thịt. Nó có khả năng thích nghi với vùng núi cao, có sức chịu đựng tốt, chịu nóng khá hơn bò Holstein Friesian và dễ thích nghi với nhiều vùng khí hậu khác nhau.
Bò nâu Thuỵ Sỹ có những đặc điểm sau: tầm vóc lớn, thân dài, bụng to vừa phải, ngực nở, sâu, rộng, đầu ngắn, trán dài và rộng, mồm rộng, sừng ngắn, cong, gốc sừng mầu ngà. Nói chung, lông mầu nâu, một số ít có màu xám đậm hay nâu sáng, ở mõm, quanh mũi và mắt hơi trắng sáng, phía lưng từ u vai đến gốc đuôi có vệt lông sáng. Bốn chân chắc chắn, khoẻ, tư thế vững vàng, móng đen.
Bò nâu Thuỵ Sỹ là giống bò kiêm dụng sữa – thịt, có khả năng tăng trọng nhanh, phẩm chất thịt ngon. Về khối lượng, bê sơ sinh cân nặng 31 – 37kg, bò cái trưởng thành nặng 650 – 700kg, bò đực có thể nặng tới 800 – 950kg.
Nếu được nuôi dưỡng đầy đủ, bò nâu Thuỵ Sỹ có năng suất sữa tương đương bò Jersey. Tuy nhiên, thời gian cho sữa ngắn hơn và tỷ lệ mỡ sữa thấp hơn bò Jersey. Năng suất sữa một chu kỳ bình quân đạt 3.500 – 4.000kg; tỷ lệ mỡ sữa 3,5 – 4,0%.
Trong thời gian qua, chúng ta có nhập một số tinh đông lạnh dưới dạng viên và cọng rạ của giống Jersey và nâu Thuỵ sỹ thuần từ Cuba và Ấn Độ và phối cho bò Lai Sind, tạo ra con lai F1, một số ít F2. Tuy nhiên, do năng suất sữa kém xa bò lai với Holstein Friesian và màu lông không hợp thị hiếu người chăn nuôi, nên việc lai tạo chỉ dừng lại ở đó và không phát triển thêm.