24/06/2018, 17:08

Chuyên đề 8: Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản và khuynh hướng vô sản ở Việt Nam, sự thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930 – Lịch sử 12

I. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, giai cấp tư sản Việt Nam đã bước lên vũ đài chính trị với một phong trào yêu nước sôi nổi, rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với ...

I. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản

Mặc dù còn nhiều hạn chế, nhưng với tinh thần dân tộc, dân chủ, chống đế quốc và chống phong kiến, giai cấp tư sản Việt Nam đã bước lên vũ đài chính trị với một phong trào yêu nước sôi nổi, rộng lớn, lôi cuốn đông đảo quần chúng tham gia với những hình thức đấu tranh phong phủ.

1. Hoạt động yêu nước của tư sản và tiểu tư sản từ năm 1919 — 1920

a) Hoạt động của tiểu tư sản
– Năm 1923, một số thanh niên yêu nước hoạt động ở Quảng Châu — Trung Quốc, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu lập ra tổ chức Tâm tâm xã. Năm 1924, Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát Toàn quyền Đông Dương Méc-lanh ở Sa Diện (Quảng Châu), tuy không thành công, nhưng đã khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân, nhất là tầng lớp thanh niên yêu nước.
– ở trong nước, tầng lớp tiểu tư sản trí thức sôi nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ; thành lập một số tổ chức chính trị (như Phục Việt, Hưng Nam, Việt Nam nghĩa đoàn, Thanh niên cao vọng), xuất bản nhiều tờ báo tiến bộ (bằng tiếng Pháp có: An Nam Trẻ, Người nhà quê, Chuông rè, báo bằng tiếng Việt: Hữu Thanh, Đông Pháp thời báo). Một số nhà xuất bản như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn), Quan hải tùng thư (Huế) đã phát hành nhiều sách tiến bộ.

– Một số phong trào đấu tranh chính trị như cuộc đấu tranh đòi thả Phạn BỐi Châu (1925), truy điệu và để tang Phan Châu Trinh, đòi thả nhà yêu nước Nguyễn An Ninh (1926). Ngoài ra, tiểu tư sản Việt Nam còn tiến hành những hoạt động văn hoá tiến bộ, tuyên truyền tư tưởng tự do dân chủ và cổ vũ lòng yêu nước. Càng về sau, phong trào của tiểu tư sản càng bị phân hoá mạnh, có bộ phận đi sâu hơn nữa vào khuynh hướng tư sản, có bộ phận chuyển dần sang khuynh hướng vô sản.

b) Hoạt động của tư sản:
– Từ năm 1919, tư sản Việt Nam tổ chức tẩy chay hàng Hoa Kiều, vận động chấn hưng nội hoá, bài trừ ngoại hoá.
– Năm 1923, một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì đấu tranh chống độc quyền cảng Sài Gòn và xuất cảng lúa gạo ở Nam Kì.
– Năm 1923, một số tư sản và đại địa chủ ở Nam Kì thành lập Đảng Lập hiến, đưa ra một số khẩu hiệu đòi tự do dân chủ, nhằm tranh thủ quần chúng.
Ngoài ra còn có nhóm Nam phong và nhóm Trung Bắc tân văn hoạt động ở Bắc Kì, mở các cuộc vận động đòi tự do đi lại, tự do ngôn luận, tự do buôn bán.

2. Việt Nam Quốc dân đảng (1927 – 1930)

Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, trào lưu dân chủ tư sản tiếp tục ảnh hưởng vào Việt Nam, đặc biệt là chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, tác động đến một bộ phận tư sản dân tộc và tiểu tư sản Việt Nam.
Trên cơ sở hạt nhân là nhà xuất bản Nam Đồng thư xã, ngày 25/12/1927, Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Phạm Tuấn Tài thành lập Việt Nam Quốc dân đảng. Đây là tổ chức đại diện cho tư sản dân tộc theo khuynh hướng cách mạng dân chủ tư sản.
Tổn chỉ mục đích: Khi mới thành lập, đảng chưa có chính cương rõ ràng mà chỉ nêu chung chung là trước làm dân tộc cách mạng, sau làm thế giới cách mạng. Năm 1928, đảng nêu lên chủ nghĩa của đảng là chủ nghĩa xã hội dân chủ. Mục đích của Đảng là đoàn kết lực lượng để đẩy mạnh cách mạng dân tộc, xây dựng
nền dân chủ trực tiếp, giúp đỡ các dân tộc bị áp bức.

Bản chương trình hành động của Đảng (1929) nêu nguyên tắc tư tưởng là Tự do – Bình đẳng – Bác ái, chương trình gồm 4 thời kỳ, thời kỳ cuối cùng là bất hợp tác với Chính phủ Pháp và triều đình nhà Nguyễn; cổ đông bãi công, đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập dân quyền. Việt Nam quốc dân đảng
chủ trương tiến hành cách mạng bằng sắt và máu.
– Thành phần: trí thức, học sinh, giáo viên, công chức, những người làm nghiề tự do, một số thân hào ở nông thôn, một số bình lính người Việt trong quân đội Pháp.
– Tổ chức cơ sở trong quần chúng rất ít, địa bàn hoạt động chỉ bó hẹp trong một số tỉnh ở Bắc kỳ, ở Trung kỳ và Nam kỳ không đáng kể.

– Hoạt động:
+ Tháng 2/1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức ám sát trùm mộ phu Ba danh ở Hà Nội. Thực dân Pháp tiến hành khủng bố, lực lượng của Đảng và quần chúng bị tổn thất nặng nề. Trước tình thế đó, những cán bộ lãnh đạo quyết định thực hiện cuộc bạo động cuối cùng với y tưởng không thành công cũng thành nhân.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái nổ ra ngày 9/2/1930, trung tâm là th xã Yên Bái, ở một số nơi có những hoạt động phối hợp như Phủ Thọ, Sơn Tây, Hải Dương, Thái Bình, Hà Nội, nhưng cuối cùng bị quân Pháp phân công và dập tắt.
+ Cuộc khởi nghĩa Yên Bái thất bại kéo theo sự tan rã hoàn toàn của Việt Nam quốc dân đảng, chấm dứt vai trò lịch sử của giai cấp tư sản Việt Nam trong phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam.

II. Phong trào theo khuynh hướng vô sản

1. Phong trào công nhân
– Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong lần khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, ngày càng tăng về số lượng. Dưới ảnh hưởng của trào lưu cách mạng vô sản, phong trào công nhân ngày càng phát triển theo phương hướng từ tự phát đến tự giác. Từ năm 1919 – 1925, đã nổ ra 25 cuộc đấu tranh, tiêu biểu: Năm 1922, có các cuộc bãi công của công nhân và viên chức các cơ sở công thương tư nhân ở Bắc Kì và công nhân các lò nhuộm ở Sài Gòn — Chợ Lớn. Năm 1924 có các cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay xát ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương. Tháng 8/1925, thợ máy xưởng Ba Son tại cảng Sài Gòn bãi công, không chịu sửa chữa chiến hạm Misơlê của Pháp trước khi chiến hạm này chở lính sang đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân Trung Quốc. Lần đầu tiên trong cuộc đấu tranh này đã xuất hiện ý thức giai cấp, ý thức chính trị và tinh thần đoàn kết quốc tế.
– Về tổ chức, năm 1920, có tổ chức Công hội bí mật do Tôn Đức Thắng sáng lập ở Sài Gòn.
Nhận xét: phong trào công nhân có bước phát triển mới so với trước Chiến tranh thế giới thứ nhất: hình thức bãi công đã trở nên phổ biến hơn, quy mô lớn hơn và thời gian dài hơn.

— Tuy nhiên khẩu hiệu đấu tranh chủ yếu vẫn là kinh tế. Giai cấp công nhân Việt Nam chưa ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình, còn thiếu một tổ chức lãnh đạo thống nhất và một đường lối chính trị đúng đắn. Phong trào vẫn còn dừng ở trình độ tự phát và còn phụ thuộc vào phong trào yêu nước nói chung.
– Từ năm 1926 – 1929, phong trào đấu tranh của công nhân Việt Nam chuyển sang đấu tranh tự giác:
– Tháng 6/1925, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên được thành lập. Thống qua những hoạt đông của tổ chức này, phong trào công nhân ngày càng phát trịển mạnh.
– Trong hai năm 1926 — 1927, nổ ra khoảng 20 cuộc bãi công, sôi nổi nhất là phong trào công nhân đồn điền.

– Năm 1928, sau khi có chủ trương vô sản hoá, nhiều cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã đi vào nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân, làm cho phong trào công nhân lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.
– Trong hai năm 1928 — 1929, có khoảng 40 cuộc bãi công của công nhân nổ ra từ Bắc chí Nam, nhất là ở các trung tâm kinh tế, chính trị.

Về tổ chức: Tại nhiều nhà máy, xí nghiệp, sự lãnh đạo của tổ chức Hội Việt Nam cách mạng thanh niên hay Tân Việt cách mạng đảng được mở rộng. Công hội Nam Kì đã bắt liên lạc với Tổng liên đoàn lao động Pháp để tranh thủ sự ủng hộ quốc tế đối với phong trào công nhân Việt Nam.
– Điều đáng chú ý là trong phong trào, những khẩu hiệu kinh tế được kết hợp chặt chẽ với các khẩu hiệu chính trị; có sự liên kết của công nhân nhiều nhà máy, nhiều địa phương, nhiều ngành kinh tế.

* Nhận xét:
– Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng giác ngộ về chính trị, ý thức giai cấp ngày càng rõ rệt, đang đi dần vào cuộc đấu tranh có tổ chức.
– Phong trào công nhân đang chuyển biến mạnh mẽ từ tự phát đến tự giác, có
sức quy tụ và dẫn đầu phong trào yêu nước nói chung.

* ý nghĩa:
– Phong trào công nhân ngày càng phát triển tạo cơ sở để tiếp thu ánh sáng của thời đại, nhất là lí luận giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc.
– Sự phát trịển của phong trào công nhân nói riêng, phong trào yêu nước nói chung đặt ra yêu cầu phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Yêu cầu đó tác động vào các tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên và Tân Việt cách mạng đảng dẫn đến cuộc đấu tranh nội bộ và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam, và cuối cùng là sự thống nhất các tổ chức đó thành Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đầu năm 1930 là sản phẩm của sự kết hợp
chủ nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam
sục sôi trong 20 năm đầu thế kỉ XX.

2. Sự ra đời và hoạt động của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên (1925 – 1929)
a) Sự thành lập:
– Sau chiến tranh thế giới thứ nhất có nhiều thanh niên trí thức, tiểu tư sản yêu nước sang Trung Quốc hoạt đông cứu nước, tuy nhiện họ chưa có phương hướng chính trị đúng đắn, vi thế họ rất cần được trang bị về lý luận cách mạng.
– Tháng 11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Quảng Châu (Trung Quốc), liên lạc với những người Việt Nam yêu nước. Tại đây Người chọn một số thanh niên tích cực trong Tâm tâm xã đề tổ chức thành nhóm Cộng sản đoàn (2/1925).

-Tháng 6/1925 Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên Đây là một tổ chức yêu nước có khuynh hướng cộng sản, một bước chuẩn bị có y nghĩa quyết định về tổ chức cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
b) Tôn chỉ mục đích: tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đánh đô để quốc để giải phóng dân tộc.
– Hoạt đông:
+ Xây dựng hệ thống tổ chức ở khắp nơi trong nước. Cơ quan lãnh đạo cao nhất là Tổng bố, xuống kì bố, cơ sở là chi bộ. Năm 1928, Hội có gần 300 hội viên, năm 1929 có 1700 hội viên.
+ Mở các lớp huấn luyện chính trị, đào tạo cán bộ. Hội phải người về trong nước đưa những người yêu nước sang Quảng Châu (Trung Quốc) dự các lớp huấn
luyện chính trị của Nguyễn Ái Quốc. Đại đa số là học sinh, sinh viên, trí thức Việt Nam yêu nước. Họ học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật. Sau khi dự các lớp huấn luyện này, một số được gửi đi học ở Liên Xô, một số khác vào học ở trường Quân sự Hoàng Phố, còn phần lớn trở về nước hoạt động.

+ Tuyên truyền lí luận cách mạng giải phóng dân tộc theo khuynh hướng vô sản trong nhân dân Việt Nam, thông qua báo Thanh niên và tác phẩm Đường kách mệnh, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị điều kiện về tư tưởng chính trị cho sự thành lập Đảng Cộng sản. Cuối năm 1928, sau khi có chủ trương vô sản hoá nhiều cán bộ của hội đã đi sâu vào các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền cùng lao động và sống với công nhân để tuyên truyền cách mạng.

+ Đấu tranh trong nội bộ để thành lập Đảng Cộng sản: Trước sự phát triển của phong trào công nhân và phong trào yêu nước, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản. Trong nội bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã diễn ra cuộc đấu tranh, dẫn đến sự phân hoá tích cực, hình thành nên hai tổ chức cộng sản: Đông Dương cộng sản đảng (6/1929) và An nam cộng sản đảng (8/1929).

Vai trò của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên đối với cách mạng Việt Nam:
+ Việc truyền bá lí luận cách mạng giải phóng dân tộc về Việt Nam đã từng bước giải quyết tinh trạng khủng hoảng về đường lối cứu nước đầu thế ký XX;
+ Làm cho giai cấp công nhân ngày càng giác ngộ, phong trào công nhân ngày càng phát trịển theo hướng vươn lên một phong trào tự giác; làm cho khuynh hướng vô sản ngày càng chiếm ưu thế trong phong trào dân tộc Việt Nam.
+ Góp phần chuẩn bị về tư tưởng chính trị và tổ chức, tạo điều kiện chín muồi cho sự ra đòi Đảng Cộng sản Việt Nam.

3. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời
a) Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản năm 1929
– Đển năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và các tầng lớp nhân dân yêu nước kết thành một làn sóng dân tộc dân chủ ngày càng mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu phải có sự lãnh đạo của một Đảng Cộng sản.
– Yêu cầu trên tác đông vào các tổ chức tiền cộng sản, dẫn đển cuộc đấu tranh nội bố và sự phân hoá tích cực trong các tổ chức này, hình thành nên ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam.
– Tháng 3/1929, tại số 5D, Hàm Long (Hà Nội) những người tiên tiến của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên ở Bắc Kì lập ra chi bộ cộng sản đầu tiên. Chi bộ mở cuộc vận động để thành lập một đảng cộng sản nhằm thay thế Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên.

– Tháng 5/1929, tại Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên họp tại Hương cảng (Trung Quốc), đoàn đại biểu Bắc Kì đưa ra vấn đề thành lập đảng cộng sản, song không được chấp nhận, nên rút khỏi Đại hội về nước.
– Ngày 17/6/1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở miền Bắc họp đại hội thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ, ra báo Búa liềm, xây dựng cơ sở ở khắp nơi trong cả nước.
– Tháng 8/1929. các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ và Kì bộ Nam Kì quyết định thành lập An Nam Cộng sản đảng. Đảng có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc, một số chi bộ hoạt động ở Nam Kì. Tờ báo Đỏ là cơ quan ngôn luận của đảng. Tháng 9/1929 những thành viên trong Tân Việt Cách mạng đảng tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản liên đoàn, xây dựng nhiều chi bộ ở Trung Kì, Bắc Kỳ và cả Nam Kỳ.

* Nhận xét:
– Sự ra đời ba tổ chức cộng sản là một xu thế khách quan của cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam.
– Các tồ chức cộng sản đều tích cực lãnh đạo phong trào đấu tranh của quần chúng, làm làm cho phong trào phát trịển mạnh hơn.
– Nhưng ba tố chức lại hoạt đông riêng rẽ với nhau, làm cho lực lượng và sức
mạnh của cách mạng bị phân tán. Điều đó không có lợi cho phong trào cách mạng.

b) Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
* Hoàn cảnh lịch sử
– Năm 1929, ba tổ chức cộng sản ra đời và tích cực lãnh đạo quần chúng đấu tranh. Tuy nhiên, các tổ chức đó hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của nhau làm cho phong trào cách mạng trong cả nước có nguy cơ bị chia rẽ lớn. Tình hình đó đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải thống nhất các tổ chức thành một đảng.
– Với tư cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định mọi vấn đề của cách mạng Đông Dương, Nguyễn Ái Quốc chủ động triệu tập đại biểu của Đông Dương cộng sản đảng và An Nam cộng sản đảng để bàn về việc thống nhất đảng. Hội nghị bắt đầu họp ngày 6/1/1930 tại cửu Long (Hương cảng — Trung
Quốc) do Nguyễn Ái Quốc chủ trì.

* Nội dung Hội nghị
– Thảo luận và nhất trí ý kiến của Nguyễn ái Quốc là thống nhất thành một đảng cộng sản duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có giá trị lí luận và thực tiễn lâu dài đối với cách mạng Việt Nam.
– Vạch kế hoạch hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước và thành lập Ban chấp hành trung ương lâm thời.
– Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh, anh ch em bị áp bức bóc lột đấu tranh.
– Hội nghị có ý nghĩa như một đại hội thành lập Đảng. Ngày 24/2/1930 theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn, tổ chức này được gia nhập vào Đảng Cộng sản Việt Nam.

* Nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng:
– Xác định đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam là làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản.
– Nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng trước mắt là: đánh đồ để quốc Pháp, bọn phong kiện và phân cách mạng làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do; lập chính phủ công nông bình; tổ chức quân đội công nông, tich thu hêt sản nghiệp lớn của để quốc; tich thu ruộng đất của để quốc và phân cách mạng chia cho dân cày nghèo.
– Lực lượng cách mạng là: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ và tư bản phải lợi dụng hoặc trung lập.

~ Lãnh đạo cách mạng: Đảng cộng sản Việt Nam, đội quân tiên phong của giai cấp vô sản sẽ giữ vai trò lãnh đạo cách mạng.
Về quan hệ với cách mạng thế giới: Đảng phải liên lạc với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới, nhất là giai cấp vô sản Pháp.
* Nhận xét:
– Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng là một cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
– Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp của nhân dân Việt Nam. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ
nghĩa Mác – Lênin và lý luận cách mạng giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam.

* Ý nghĩa sự ra đời của Đảng:
– Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng có đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ đảng viên kiên trung nguyện suốt đời hy sinh cho lý tưởng Đảng, vì độc lập dân tộc và tự do cho nhân dân.
– Sự ra đời của Đảng với tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn đã chấm dứt tình trạng khủng hoảng về lãnh đạo cách mạng kéo dài mấy chục năm đầu thế kỉ XX. Từ đây cách mạng Việt Nam bước lên một con đường mới, con đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và hướng tới chủ nghĩa xã hội.

– Đảng cộng sản Việt Nam ra đời chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng. Phong trào công nhân Việt Nam từ đây hoàn toàn trở thành một phong trào tự giác.
– Sự lãnh đạo của đảng làm cho cách mạng Việt Nam thực sự trở thành một bố phận khăng khít của cách mạng thế giới. Từ đây nhân dân Việt Nam tham gia vào sự nghiệp cách mạng thế giới một cách có tổ chức.
– Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có ý nghĩa quyết định cho những bước phát triển tiếp theo của lịch sử dân tộc Việt Nam. Đó là nhân tố hàng đấu địam báo mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

Những chuyên mục hay của Lịch sử lớp 12:

  • Giải bài tập Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 12
  • Câu hỏi ôn tập môn Lịch sử lớp 12
  • Đáp án môn Lịch sử lớp 12
  • Đề thi học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 12
0