Những yêu cầu đối với cán bộ TVTT hiện nay và trách nhiệm của các cơ sở đào tạo
(ĐHVH HN) - Chúng ta đang sống trong xã hội thông tin. Sự “bùng nổ thông tin” khiến mọi người gần như luôn ở trong tình trạng bão hòa thông tin, do đó, việc tìm ra những thông tin cần thiết một cách nhanh nhất, chính xác nhất được xem là yêu cầu quan trọng của cuộc sống hiện đại. ...
(ĐHVH HN) - Chúng ta đang sống trong xã hội thông tin. Sự “bùng nổ thông tin” khiến mọi người gần như luôn ở trong tình trạng bão hòa thông tin, do đó, việc tìm ra những thông tin cần thiết một cách nhanh nhất, chính xác nhất được xem là yêu cầu quan trọng của cuộc sống hiện đại. Ngày nay, có nhiều kênh thông tin cho mọi người cập nhật: các phương tiện truyền thông, các thiết bị thu phát thông tin, các cơ quan chuyên cung cấp thông tin theo yêu cầu và không thể không kể đến vai trò của các cơ quan thông tin thư viện. Cán bộ thư viện – thông tin, nguồn nhân lực, là một trong những yếu tố không thể thiếu trong bất kỳ thư viện nào, cho dù đó là thư viện truyền thống hay thư viện điện tử, thư viện số… Trong thế kỷ 21 – thế kỷ của công nghệ và số - các thư viện Việt Nam không ngừng biến đổi để phù hợp với sự thay đổi của môi trường thông tin và nhu cầu tin của người dùng tin. Hiện nay, “người cán bộ thư viện có thể không phải là người biết tất cả nhưng phải là người biết cách tìm ra mọi thứ nhanh nhất”. Để thực hiện được nhiệm vụ này, người cán bộ thư viện thông tin hiện nay cần thể hiện được những năng lực nghề nghiệp gì?
Dựa vào cách phân loại năng lực của SLA (Special Library Association – Hiệp hội Thư viện đặc biệt), thuộc Đại học Washington, Hoa Kỳ, năng lực của sinh viên nói chung và sinh viên ngành thư viện thông tin nói riêng được đánh giá theo 3 nhóm:
Nhóm A: Nhóm năng lực chuyên môn
Nhóm B: Nhóm năng lực cá nhân
Nhóm C: Nhóm năng lực cốt lõi
Qua đó, có thể thấy, một cán bộ thư viện thông tin trong giai đoạn hiện nay, phải đảm bảo cả ba nhóm năng lực này, trong đó, dễ dàng nhận thấy: các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thư viện thông tin hiện nay chú trọng trang bị năng lực chuyên môn cho người học (như năng lực quản lý tổ chức thư viện, quản lý các nguồn tài nguyên thông tin, quản lý các dịch vụ thông tin và áp dụng các công cụ và công nghệ thông tin). Nhóm năng lực này đảm bảo nghề thư viện có những nguyên tắc, có những kỹ thuật và phương pháp khác với các ngành nghề khác, người cán bộ thư viện được đánh giá như một nhà khoa học chứ không đơn thuần chỉ là người “xếp sách lên giá đơn giản”. Nhóm năng lực cá nhân và năng lực cốt lõi ít được quan tâm trong các chương trình đào tạo cũ của các cơ sở đào tạo, nhưng trước yêu cầu của thực tiễn và của các cơ sở sử dụng nhân lực, cơ sở đào tạo muốn đảm bảo chuẩn đầu ra đáp ứng được yêu cầu của công tác thì không thể không quan tâm, trang bị cho sinh viên các kỹ năng này. Nhóm năng lực cá nhân (các kỹ năng mềm như kỹ năng viết lý lịch xin việc, phỏng vấn, làm việc nhóm, thuyết trình, sử dụng các thiết bị văn phòng… và ngoại ngữ) đảm bảo một cán bộ thư viện thông tin có đủ tự tin vào bản thân để tham gia ứng cử vào các công việc đúng với chuyên môn được đào tạo. Và nhóm năng lực cốt lõi (tính cộng tác trong công việc, đạo đức nghề nghiệp và lòng yêu nghề) đảm bảo cho hai nhóm năng lực trên được phát huy có hiệu quả, tạo nên các giá trị nghề nghiệp và đảm bảo “sức sống” lâu dài của nghề thông tin thư viện. Việc quan tâm rèn luyện và phát triển ba nhóm kỹ năng trên bắt đầu được các cơ sở đào tạo quan tâm thông qua việc đổi mới chương trình đào tạo và đổi mới phương pháp giảng dạy, nhằm đào tạo ra những cán bộ thư viện thông tin tự tin, năng động, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, có khả năng đáp ứng các yêu cầu của thực tiễn xã hội và tạo ra các giá trị nghề nghiệp. Có thể nhận thấy, cán bộ thư viện thông tin trong giai đoạn hiện nay cần:
Thứ nhất, có kỹ năng quản lý và tổ chức thư viện.
Thư viện không chỉ đơn thuần là kho sách, mà được tổ chức theo một trật tự khoa học và có các công cụ quản lý như khung phân loại, khung đề mục chủ đề, bộ từ chuẩn từ khóa. Tài liệu – khi được nhập vào thư viện – lại được biên mục theo quy tắc biên mục khác nhau như ISBD, MARC21, AACR2… Tổ chức thư viện theo trật tự để có thể dễ truy cập, dễ khai thác, dễ kiểm soát là nhiệm vụ không phải dễ dàng. Tiêu chuẩn này là cơ sở cho các tiêu chuẩn tiếp theo.
Thứ hai, có kỹ năng quản lý các nguồn tài nguyên thông tin.
Dựa trên việc xử lý thông tin, quản lý thông tin theo một cấu trúc, theo nội dung, người cán bộ thư viện cần nắm vững các nguồn tài nguyên thông tin có trong thư viện của mình (bộ sưu tập vật lý) và nguồn tài nguyên thông tin ở các thư viện liên kết. Để có được kỹ năng này, cán bộ thư viện thông tin cần biết xác định, lựa chọn, đánh giá, đảm bảo và cung cấp quyền truy cập tài nguyên thông tin cần thiết. (Khi bản thân cán bộ thư viện không nắm rõ nguồn tài nguyên thông tin có trong thư viện mình cũng như các nguồn tài nguyên sẵn có trên internet và các nguồn tài nguyên ở những nơi có thể truy cập đến thì dịch vụ thông tin cho bạn đọc – người dùng tin chỉ dừng lại ở mức độ trả lời có/không có thông tin họ cần, mà không thể tư vấn cho họ những thông tin thay thế). Hệ quả tất yếu sẽ là: nhiều người dùng tin sẽ bỏ đi, một vài lần nhu cầu tin của họ không được đáp ứng, họ sẽ không quay lại thư viện và cơ quan thông tin nữa, vì họ cho rằng nguồn tài nguyên thông tin tại thư viện nghèo nàn, dịch vụ yếu.
Thứ ba, có kỹ năng quản lý các dịch vụ thông tin.
Dựa trên nguồn lực thông tin do thư viện và cơ quan thông tin quản lý, cán bộ thư viện thông tin phải biết cách tạo lập và quản lý các dịch vụ thông tin thư viện. Ngày nay, với sự xuất hiện ngày càng nhiều các nhóm đối tượng sử dụng thư viện đặc thù (người khuyết tật, người không có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ thư viện, người dân vùng sâu, vùng xa…), nhu cầu của người dùng tin – người sử dụng thư viện ngày nay càng trở nên phong phú và chuyên sâu, đòi hỏi phải có những dịch vụ tương xứng – đặc biệt là các dịch vụ trực tuyến để hấp dẫn bạn đọc. Cán bộ thư viện phải là người có khả năng đánh giá mức độ đáp ứng của các sản phẩm và dịch vụ thông tin mà thư viện đang cung cấp cho người dùng tin, để tư vấn cho nhà quản lý ra quyết định có nên duy trì dịch vụ đó hay không. Cán bộ thư viện thông tin đồng thời phải là người tư vấn cho các nhà quản lý để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin mới, đáp ứng nhu cầu của người dùng tin. Để làm được điều đó, cán bộ thư viện thông tin phải có khả năng đánh giá nhu cầu của người dùng tin. Nếu làm được điều đó, cán bộ thư viện đã nhìn nhận và đánh giá được mối tương quan giữa mức độ phát triển của xã hội và năng lực đáp ứng nhu cầu thông tin của thư viện mình để từ đó có những quyết sách phù hợp liên quan đến định hướng phát triển thư viện.
Thứ tư, có kỹ năng áp dụng các công cụ và công nghệ thông tin.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào trong hoạt động của cơ quan thông tin thư viện đã dẫn đến sự thay đổi quan trọng trong việc xử lý tài liệu cũng như việc tạo ra các sản phẩm và dịch vụ thông tin. Để không bị tụt hậu, người cán bộ thư viện thông tin phải là người có trình độ tin học, có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác thư viện; làm chủ được những công nghệ mới, các phương tiện kỹ thuật hiện đại; có khả năng đánh giá, sử dụng các phần mềm thư viện; xây dựng, sử dụng và kiểm tra việc áp dụng tiêu chuẩn mô tả thư mục, format, sử dụng các thư mục tự động hóa; sử dụng thành thạo mạng, máy tính để khai thác thông tin; sử dụng công nghệ mới để quản lý và chuyển giao dịch vụ thông tin, quản lý, bảo trì và khai thác các nguồn tài liệu điện tử; vận hành sáng tạo và cải tiến môi trường thông tin dựa trên nền tảng web; giải quyết tốt các vấn đề kinh tế và công nghệ trong hoạt động thông tin.
Thứ năm, có kỹ năng sử dụng thông thạo ít nhất một ngoại ngữ và am hiểu pháp luật.
Ngoại ngữ là một yêu cầu rất quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Thực tế là nguồn tài liệu có hàm lượng thông tin khoa học cao xuất phát từ các nước phát triển với các ngôn ngữ thông dụng là tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Trung và tiếng Nhật. Để hiểu, đánh giá nội dung tài liệu ngoại văn và khai thác được các nguồn tin ngoại văn mà không vi phạm pháp luật, người cán bộ thư viện thông tin phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ - đặc biệt là tiếng Anh, đồng thời phải am hiểu luật Sở hữu trí tuệ, Luật bản quyền tác giả, vấn đề bảo mật thông tin và các vấn đề pháp lý khác trong môi trường thông tin điện tử; Nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước đối với hoạt động thư viện thông tin.
Thứ sáu, cán bộ thư viện phải là người luôn chủ động tham gia vào quá trình học tập suốt đời.
Việc học tập suốt đời đối với người cán bộ thư viện thông tin có thể là việc học hỏi, tìm hiểu những công nghệ mới được áp dụng trong ngành thư viện, hay tạo cho mình cách suy nghĩ, tiếp cận vấn đề mới, rèn luyện khả năng bắt kịp những ý tưởng mới hoặc đơn giản là việc tìm hiểu kiến thức của các ngành khoa học khác… bởi cán bộ thư viện thông tin luôn là người tiếp cận với cái mới: thông tin mới, công nghệ mới, người dùng tin mới và những nhu cầu thông tin cũng luôn mới. Hơn thế, nghề thư viện nói riêng và các ngành nghề khác nói chung đều có thể có những tiêu chuẩn, quy định mới qua các giai đoạn khác nhau. Do vậy, nếu không thực sự thực hiện việc học tập suốt đời, cán bộ thư viện thông tin sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước sự phát triển của xã hội. Đồng thời, việc học tập suốt đời sẽ giúp cán bộ thư viện thông tin có được các kỹ năng mềm thuộc nhóm năng lực cá nhân như kỹ năng thuyết trình, đàm phán, kỹ năng tổ chức sự kiện, kỹ năng làm việc nhóm và làm việc độc lập, kỹ năng giao tiếp, xử lý tình huống, kỹ năng tiếp nhận và xử lý thông tin, kỹ năng chia sẻ và hợp tác…
Cuối cùng – nhưng cũng là yêu cầu quan trọng nhất đối với mỗi cán bộ thư viện, đó là tình yêu nghề, sự tâm huyết với nghề và khát khao luôn mong muốn được phục vụ cộng đồng.
Đối diện với sự gia tăng ngày càng mạnh của các nhóm người dùng tin cũng như nhu cầu tin của các nhóm người dùng khác nhau ngày càng phong phú và đa dạng, việc phục vụ trong các thư viện và cơ quan thông tin ngày càng là một công việc khó khăn, phức tạp và âm thầm. “Như những nốt trầm trên khuông nhạc, như là lời ru êm ái giữa trưa hè. Giản dị và nhiệt tình, cần mẫn như con ong, xây đời bằng trang sách. Những cuốn sách được nâng niu như con trẻ trong bàn tay tâm huyết, nhiệt tình. Họ đã sống như nhịp cầu không mệt mỏi, đưa con tàu tri thức đến bền bờ… Người cán bộ thư viện yêu sách hơn mình, nối quá khứ - hiện tại – tương lai”. Yêu cầu đối với công việc ngày càng cao nhưng sự đãi ngộ về vật chất, tinh thần ở Việt Nam đối với cán bộ thư viện thông tin nói chung chưa được tương xứng. Ngoài ra, sự nhận thức của nhiều người về thành quả do ngành thư viện thông tin mang lại còn nhiều hạn chế. Trong bối cảnh hiện nay, ngành thư viện thông tin đang từng bước tiếp cận các thành tựu hiện đại của thế giới, trực tiếp ứng dụng những thành tựu đó vào trong thực tiễn công việc của mình, mỗi cán bộ thư viện thông tin cần phải thường xuyên cập nhật kiến thức, trình độ chuyên môn cũng như các kỹ năng cần thiết trong nghề nghiệp, sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thách thức trong công việc... Để làm được những điều đó, tất cả đều xuất phát từ lòng yêu nghề. Lòng yêu nghề trong mỗi cán bộ thư viện thông tin là một nhân tố quan trọng tạo nên chất lượng hoạt động thư viện thông tin. Lòng yêu nghề là đòi hỏi mà không phải ai cũng có được khi mà cuộc sống còn bị quá nhiều yếu tố chi phối.
Trách nhiệm của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thư viện thông tin
Tính đến năm 2013, ở Việt Nam có hơn 50 trường tham gia đào tạo nguồn nhân lực thư viện – thông tin từ trình độ cao đẳng trở lên, trong đó có 9 cơ sở đào tạo cán bộ thư viện – thông tin trình độ đại học, 3 cơ sở đào tạo ở trình độ thạc sỹ và duy nhất một cơ sở đào tạo cả bốn bậc từ cao đẳng, đại học, thạc sỹ đến tiến sỹ thư viện – thông tin, đó là Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
Khoa Thư viện – Thông tin Trường Đại học Văn hóa Hà Nội được thành lập năm 1959, là một cơ sở đào tạo nguồn nhân lực thư viện – thông tin có truyền thống và uy tín. Hơn 50 năm đào tạo, tính đến nay, Khoa đã đào tạo được 40 khóa đại học chính quy với hơn 4000 sinh viên tốt nghiệp. Hệ đại học vừa học vừa làm cũng được triển khai đào tạo rộng khắp trong cả nước và đã đào tạo được gần 4000 sinh viên. Trong những năm gần đây, để đa dạng hóa các loại hình và cấp bậc đào tạo, Khoa đã mở thêm hệ Cao đẳng chính quy và hệ liên thông Cao đẳng – Đại học chính quy. Những sinh viên tốt nghiệp từ Khoa đã được xã hội đón nhận, trở thành các cán bộ thư viện – thông tin, đang công tác trong mọi loại hình thư viện và cơ quan thông tin trong cả nước. Họ đã và đang từng ngày, từng giờ, đem những kiến thức được đào tạo vào thực tiễn công việc, đóng góp vào việc phục vụ và thỏa mãn nhu cầu của người đọc – người dùng tin, góp phần thúc đẩy nhanh công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Họ đã cống hiến công sức và trí tuệ góp phần vào mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xã hội trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và bảo tồn, phát triển văn hóa Việt Nam.
Khoa Thư viện – Thông tin Trường Đại học Văn hóa Hà Nội luôn nhận thấy rõ vai trò then chốt, có tính chất quyết định của chương trình đào tạo tới chất lượng đầu ra của đội ngũ cán bộ thư viện – thông tin được đào tạo tại Khoa nên đã nhiều lần thực hiện đổi mới chương trình đào tạo. Tính từ năm 2002 đến nay, Khoa đã tiến hành điều chỉnh chương trình đào tạo 03 lần theo hướng giảm tải thời lượng các môn học cũ không còn đáp ứng nhu cầu thực tiễn của Việt Nam, kế thừa truyền thống và tiếp thu kinh nghiệm từ các chương trình đào tạo khoa học thư viện – thông tin của các nước tiên tiến trên thế giới. Chương trình mới nhất – năm 2010 – đảm bảo tính cập nhật những kiến thức mới, cơ bản hiện đại, tăng tính thực tiễn của nội dung các môn học chuyên ngành, chú trọng rèn luyện kỹ năng. Đây là đợt đổi mới chương trình lớn nhất, căn bản nhất với mục tiêu: Xây dựng chương trình đào tạo ngành Khoa học Thư viện và Thông tin học mang tính khoa học, hiện đại, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và tương thích với trình độ phát triển của khu vực. Để xây dựng được các chương trình đào tạo với chất lượng tốt nhất, Hội đồng xây dựng chương trình của Khoa đã tổ chức nhiều cuộc hội thảo, nhiều buổi tọa đàm khoa học với sự tham gia đóng góp ý kiến của nhiều nhà khoa học thuộc lĩnh vực thư viện – thông tin trong nước và quốc tế, các giám đốc, các cán bộ quản lý của những thư viện, trung tâm thông tin lớn trong nước – nơi đang sử dụng trực tiếp nguồn nhân lực do Khoa đào tạo. Hội đồng xây dựng chương trình cũng đã tham khảo trực tiếp chương trình đào tạo thư viện – thông tin của một số trường thuộc các quốc gia trên thế giới và trong khu vực như Anh, Mỹ, Úc, New Zealand, Thái Lan, Singapore… Chương trình mới đảm bảo tính cập nhật những kiến thức mới, cơ bản, hiện đại; phù hợp với điều kiện thực tiễn ngành nghề tại Việt Nam. Nhiều môn học đã chú trọng rèn luyện kỹ năng và phát triển tư duy sáng tạo cho người học. Hội đồng khoa học đã mời các chuyên gia đầu ngành của từng lĩnh vực cộng tác xây dựng đề cương và biên soạn bài giảng. Đặc biệt, trong 2 năm 2011, 2012, được sự phê duyệt của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Khoa Thư viện – Thông tin Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tích cực triển khai dự án về đổi mới chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy ngành thư viện thông tin bậc đại học và cao đẳng. Với các nội dung được phê duyệt trong dự án, nhiều bài giảng của nhiều môn học đã được giảng viên của Khoa xây dựng với sự tư vấn, hỗ trợ của các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực thư viện thông tin đến từ các trường Simmons (Mỹ), Victoria (New Zealand)… Bên cạnh việc tư vấn xây dựng bài giảng, các chuyên gia cũng đã tập huấn cho giảng viên của Khoa phương pháp giảng dạy mới, tích cực, nhằm phát triển tư duy sáng tạo cho người học, tăng cường trang bị cho người học kỹ năng mềm. Các môn học có sự tư vấn của chuyên gia nước ngoài đã được các giảng viên phụ trách của Khoa thay đổi, điều chỉnh và đã bắt đầu tiến hành lên lớp. Hiệu quả thật đáng mừng. Giờ học đã thực sự thu hút được sinh viên và tạo hứng thú cho sinh viên, kích thích được tính tích cực của sinh viên và hình thành trong các em lòng yêu nghề và tự tôn nghề nghiệp.
Với chương trình đào tạo mới này, chuẩn đầu ra phải đảm bảo 5 mục: Kiến thức, Kỹ năng, Thái độ, Vị trí - khả năng công tác sau khi tốt nghiệp và Khả năng học tập nâng cao trình độ sau tốt nghiệp. Với chương trình đào tạo được đổi mới, nguồn nhân lực thư viện thông tin được đào tạo tại Khoa Thư viện Thông tin Trường Đại học Văn hóa Hà Nội ngoài sự hiểu biết chuyên môn thư viện thông tin, họ còn biết sâu và giỏi nhiều lĩnh vực khoa học khác, có trình độ công nghệ thông tin và ngoại ngữ, kèm theo đó là sự năng động, cần mẫn và nhiệt tình. Tính đúng đắn trong chương trình đào tạo của Khoa đã được chính các đơn vị đang sử dụng trực tiếp nguồn nhân lực được Khoa đào tạo khẳng định.
Kết luận
Cán bộ thư viện là những chuyên gia được đào tạo về bổ sung, tổ chức, truy xuất và phổ biến thông tin. Nghề thư viện trong xã hội thông tin, kỷ nguyên internet và nội dung số không khác nhiều so với những gì đã được thực hiện trong các thư viện truyền thống, có khác chăng là cách thức đảm đương công việc và hiệu quả của công việc. Nhiệm vụ của họ sẽ vẫn tiếp tục là lựa chọn các nguồn thông tin thích hợp, cung cấp truy cập tới các nguồn thông tin đó, hướng dẫn và hỗ trợ người dùng tin trong việc hiểu các nguồn thông tin, và bảo quản cả phương tiện và thông tin chứa đựng trong nó. Vai trò “hoa tiêu’ trên biển thông tin của cán bộ thư viện thông tin là không thay đổi và để giữ vững vai trò này, người cán bộ thư viện thông tin trong xã hội thông tin, kỷ nguyên internet cần được đào tạo và tự đào tạo thường xuyên để nâng cao trình độ và năng lực nghề nghiệp của mình. Xin được dẫn lời của Stephen Pinfeld – cán bộ thư viện thông tin tại Đại học Nottingham – Hoa Kỳ như một lời kết cho bài viết:
“Tôi vẫn thường cho rằng cán bộ thư viện là những người thực thi ba nhiệm vụ: cung cấp nội dung, các dịch vụ và không gian. Trong các thư viện truyền thống, chúng tôi cung cấp nội dung trong sách, chúng tôi cũng cung cấp các dịch vụ như cách tra tìm sách, và cung cấp không gian trong các tòa nhà thư viện rộng lớn để làm việc và lưu giữ vốn tài liệu. Ngày nay, chúng tôi vẫn làm ba nhiệm vụ đó nhưng bản chất của chúng đã thay đổi rất nhiều: nội dung thường ở dạng điện tử thông qua việc đặt mua các sách, tạp chí điện tử, cơ sở dữ liệu, mà hiện giờ đang chiếm một tỉ lệ lớn trong kinh phí bổ sung của hầu hết các thư viện. Là cán bộ thư viện chúng ta buộc phải thích nghi hoặc sẽ chẳng ai cần tới chúng ta nữa”.
TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Nguyễn Minh Hiệp. Chiến lược đào tạo ngành thư viện – thông tin ở Việt Nam // Bản tin Liên hiệp Thư viện . – 2003 .- Tr. 2-5
2. Hoàng Thị Thu Hương. Những năng lực cần thiết của một thủ thư nhìn từ góc độ nhà tuyển dụng // Kỷ yếu Hội thảo 50 năm đào tạo nguồn nhân lực thư viện – thông tin / Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2011).- Tr.169-175
3. Vũ Dương Thúy Ngà. Suy nghĩ về phẩm chất và năng lực của người cán bộ thư viện – thông tin trong điều kiện hiện nay // Thư viện Việt Nam (2005) .- Số 1 .- Tr. 11-13
4. Trần Thị Quý. Đào tạo nguồn nhân lực ngành thông tin – thư viện ở Việt Nam 50 năm nhìn lại // Thư viện Việt Nam.- Số 1/ 2011.- Tr. 11-15
5. Nguyễn Thu Thảo. Năng lực cần thiết cho nghề thông tin trong thế kỷ 21 theo quan điểm của SLA // Thông tin và Phát triển (2011) .- Số 7 .- Tr. 8-13
6. Bùi Loan Thùy. Nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực bậc đại học và cao học thư viện thông tin trong không gian phát triển mới // Thư viện Việt Nam (2009).- Số 1 .- Tr.3-12
7. Bùi Loan Thùy. Đặc điểm lao động thông tin – thư viện và tiêu chí đánh giá hiện nay // Thông tin và Tư liệu (2009) .- Số 4 .- Tr. 8-13
Bài: Nguyễn Thị Ngà
Khoa Thư viện – Thông tin
Admin3