25/05/2018, 17:56
Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Việt Nam
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM Tóm tắt: Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay. Khi Việt Nam gia nhập nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như: WTO, ASEAN, ...
GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM
Tóm tắt:
Chất lượng nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng bậc nhất trong phát triển du lịch ở Việt Nam hiện nay. Khi Việt Nam gia nhập nhiều tổ chức quốc tế và khu vực như: WTO, ASEAN, AEC… làm cho sự cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt thì chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi phải được nâng cao. Việc đổi mới phương pháp đào tạo, cách tiếp cận thông tin sao cho phù hợp với thực tế là đòi hỏi cần thiết đối với các cơ sở đào tạo. Bên cạnh đó, việc chủ động tìm những giải pháp để khắc phục khó khăn trong quá trình giảng dạy, xây dựng và khẳng định thương hiệu của mình cũng là một trong những công cụ cạnh tranh hữu hiệu trong quá trình hội nhập.
Key words: Nguồn nhân lực du lịch, đào tạo, chất lượng…
1. VAI TRÒ CỦA ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH
Trong "Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030", du lịch được định hướng là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn, chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu GDP, tạo động lực để phát triển văn hóa, xã hội; du lịch phát triển theo hướng hiện đại, đa dạng... Để đạt được những mục tiêu đã đề ra, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao trong quá trình Toàn cầu hóa và Hội nhập kinh tế Quốc tế, chúng ta phải có những mục tiêu, chiến lược rõ ràng, cụ thể; phải tập trung phát triển mọi nguồn lực, mà trước hết là nguồn nhân lực bởi trong các nguồn lực: tài nguyên, vốn, khoa học - công nghệ, con người, thì nguồn lực con người là quan trọng nhất, có tính quyết định sự phát triển của mọi quốc gia.
Nguồn nhân lực lao động trong lĩnh vực du lịch rất đa dạng, bao gồm: lao động thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch, lao động trong các doanh nghiệp du lịch (đội ngũ cán bộ quản trị kinh doanh, lao động nghiệp vụ trong các khách sạn - nhà hàng, công ty lữ hành, vận chuyển du lịch...), lao động làm công tác đào tạo du lịch trong các trường dạy nghề, cao đẳng và đại học.
Nguồn nhân lực được xem là tài sản quý giá, tác động trực tiếp đến năng lực cạnh tranh, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cũng như sự phát triển bền vững của ngành. Để nguồn nhân lực phát triển theo hướng chuyên môn hóa, được đánh giá và thừa nhận trên thị trường lao động Quốc tế thì vai trò của các cơ sở đào là vô cùng quan trọng. Đặc biệt khi Việt Nam gia nhập vào các Tổ chức Quốc tế và khu vực như: ASEAN, WTO, AEC...thì thị trường lao động du lịch sẽ có sự chuyển dịch lớn, nhiều cơ hội nghề nghiệp được mở ra nhưng người lao động cũng vấp phải sự cạnh tranh gay gắt. Chỉ những người lao động có kỹ năng, kinh nghiệm, năng lực, sáng tạo mới có thể đáp ứng những yêu cầu của thời đại. Năng lực đó phải dựa trên nền tảng giáo dục - đào tạo cơ bản. Đó là cơ hội, cũng chính là thách thức lớn đặt ra đối với các cơ sở đào tạo, từ các trường đào tạo nghề cho đến các trường cao đẳng, đại học ở Việt Nam.
Đào tạo có thể hiểu là hoạt động nâng cao kiến thức, kỹ năng, tay nghề, trình độ chuyên môn, để người lao động có thể thực hiện hiệu quả nhiệm vụ nghề nghiệp. Đào tạo cũng chính là nâng cao, phát triển nguồn nhân lực, nhằm thay đổi chất lượng lao động. Trong đào tạo nguồn nhân lực du lịch, bên cạnh vai trò chủ chốt của các cơ sở đào tạo (trường nghề, cao đẳng, đại học), thì không thể không kể đến vai trò của các doanh nghiệp. Tuy nhiên trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi chỉ đề cập đến vai trò của các cơ sở đào tạo.
Vai trò của các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch:
Đối với người học:
- Giúp người học nhận thức rõ hơn về ngành nghề và các cơ hội nghề nghiệp; nuôi dưỡng tình yêu và sự gắn bó với nghề.
- Giúp người học có trình độ chuyên môn vững vàng để có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ tại các vị trí khác nhau trong các doanh nghiệp lữ hành, các khách sạn, nhà hàng, các cơ quan quản lý về du lịch...
- Giúp người học có kiến thức và kỹ năng tổ chức điều hành, hoàn thành các công đoạn trong một chu trình kinh doanh du lịch lữ hành đạt hiệu quả kinh tế - văn hóa - xã hội.
- Phát huy khả năng làm việc độc lập, sáng tạo của người học để khai thác, phát triển các chương trình du lịch mới, các dự án du lịch; phát huy lợi thế về tiềm năng du lịch của các địa phương...
Đối với thị trường du lịch:
- Chất lượng đào tạo của các cơ sở đào tạo du lịch quyết định chất lượng lao động trong thị trường du lịch. Đào tạo chất lượng cao góp phần làm tăng năng suất lao động, hiệu quả, tính chuyên nghiệp, khả năng thích ứng trong công việc.
- Duy trì sự ổn định cho thị trường du lịch.
- Đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng học hỏi, nâng cao tay nghề của người lao động.
- Giúp người lao động có cách nhìn, cách tư duy mới, hiện đại, năng động và thực tế hơn, phát huy tính chủ động và sáng tạo của người lao động.
Đối với ngành du lịch:
- Rút ngắn khoảng cách tụt hậu của Việt Nam so với các nước khác.
- Gia tăng sức cạnh tranh của ngành, nâng cao khả năng mở rộng, chiếm lĩnh thị phần của du lịch Việt Nam trên thị trường khu vực và Quốc tế.
- Tạo sự phát triển bền vững bởi nhân lực chính là yếu tố hàng đầu đối với sự tồn tại của bất cứ ngành nghề nào, mà cụ thể ở đây là ngành du lịch.
Chất lượng nhân lực phản ánh kết quả của quá trình đào tạo. Chính vì những vai trò vô cùng quan trọng của các cơ sở đào tạo đối với nguồn nhân lực du lịch như đã kể trên mà việc nâng cao chất lượng đào tạo ngày càng được chú trọng và là nhiệm vụ hàng đầu của các cơ sở đào tạo.
2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Nhận biết được nhu cầu đi du lịch ngày càng tăng cao, lợi ích của ngành du lịch đóng góp vào sự phát triển kinh tế của quốc gia ngày càng lớn, trong những năm gần đây Đảng và Nhà Nước đã chú trọng đầu tư cho phát triển du lịch, đặc biệt là đã có những chính sách ưu tiên cho công tác đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Hiện nay (2016) theo thống kê của ngành du lịch trên cả nước có 156 cơ sở đào tạo chuyên ngành du lịch. Trong đó, bao gồm: 48 trường đại học, 43 trường cao đẳng (trong đó có 10 trường cao đẳng nghề), 40 trường trung cấp (trong đó có 4 trường trung cấp nghề), 2 công ty đào tạo, 23 trung tâm, lớp đào tạo nghề, 1trường duy nhất trực thuộc doanh nghiệp chuyên đào tạo chuyên ngành du lịch, khách sạn, nhà hàng, mỗi năm cả trên cả nước có khoảng 15.000 sinh viên ra trường.
Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cũng như tạo ra những tiêu chuẩn chung cho ngành du lịch khách sạn, năm 2013 Tổng cục du lịch Việt Nam đã đưa ra bộ tiêu chuẩn nghề VTOS trong đó quy định những kỹ năng, kiến thức, hành vi, thái độ cần thiết để đáp ứng yêu cầu công việc trong cả lĩnh vực khách sạn và lữ hành.
Những con số trên cho thấy nỗ lực của các ban ngành, các cơ sở trong việc đào tạo ra lượng nhân lực đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của thị trường du lịch, tuy nhiên trong quá trình đào tạo còn gặp khá nhiều bất cập:
Chương trình đào tạo: Chương trình đào tạo chưa đáp ứng được yêu cầu của các doanh nghiệp du lịch, nội dụng đa phần là lý thuyết mà thiếu về thực hành. Thời gian thực tập của sinh viên tại các doanh nghiệp quá ít (trung bình khoảng 4 tháng cho 4 năm học), sinh viên không có cơ hôi tiếp cận thực tế vì vậy sau khi ra trường hầu như thiếu những kỹ năng cần thiết để làm việc đặc biệt là khả năng ngoại ngữ.
Phương pháp đào tạo: Phương pháp đào tạo không có sự đổi mới, đa phần các cơ sở đào tạo hiện nay đang sử dụng phương pháp truyền thống, cung cấp thông tin một chiều, thiếu sự tương tác giữa giáo viên và sinh viên, điều này không những làm mất đi sự chủ động, sáng tạo, làm giảm đi khả năng biện luận mà còn làm tăng sự ì ạch, thụ động của sinh viên.
Chất lượng của đội ngũ giảng viên: Hầu hết đội ngũ giảng viên tại các cơ sở đào tạo được tốt nghiệp từ các trường đại học thuộc khối văn hóa, xã hội, quản trị kinh doanh… do đó, kiến thức chuyên sâu về du lịch không nhiều, trình độ ngoại ngữ, tin học chưa cao để có thể ứng dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin vào giảng dạy. Đội ngũ này không tốt nghiệp từ các trường sư phạm nên phương pháp sư phạm, cách thức truyền đạt nội dung bài giảng cũng không thực sự hiệu quả. Ngoài ra, các giảng viên chủ yếu là những người được tiếp nhận vào giảng dạy ngay sau khi ra trường nên kiến thức thực tế tại các doanh nghiệp du lịch của họ cũng không có, điều này cũng làm cho bài giảng không thực sự sinh động và hấp dẫn.
Cơ sở vật chất: Hầu hết cơ sở vật chất kỹ thuật của các trường ở Việt Nam hiện nay còn khá sơ sài, chưa đáp ứng được yêu cầu đào tạo chất lượng cao. Ví dụ: Diện tích trường quá nhỏ hẹp dẫn đến giảng đường ít, số sinh viên/lớp học quá đông gây ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy. Số lượng các cơ sở thực hành tại các trường rất ít (chủ yếu ở các trường dạy nghề, các trường đại học hầu như không có) do đó sinh viên có rất ít cơ hội để tiếp cận thực tế.
Đánh giá trong đào tạo: Tâm lý trọng bằng cấp vẫn còn đè nặng lên hệ thống giáo dục Việt Nam. Do đó, việc đánh giá quá trình học tập của sinh viên chưa thực sự khách quan và công bằng. Các trường cấp bằng loại khá, giỏi tràn lan, trong khi những đối tượng này ra trường lại không có khả năng tác nghiệp, thích nghi với thực tế gây bức xúc cho doanh nghiệp và làm giảm uy tín của cơ sở đào tạo.
Định hướng nghề nghiệp: Theo khảo sát của dự án Nghiên cứu chính sách hợp tác với Quỹ Rosa - Luxemburg của CHLB Đức thì trong số gần 3.000 sinh viên đã tốt nghiệp được hỏi, có 73% sinh viên tìm được việc sau khi tốt nghiệp, song có tới 58,2% sinh viên tốt nghiệp không biết xin việc ở đâu, 42% không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng, 27% không xin được việc vì lý do ngành học không phù hợp với thị trường, thậm chí có 18% sinh viên không tìm được việc vì nhà tuyển dụng không biết đến ngành đào tạo. Nguyên nhân chính của vấn đề trên là do thiếu sự định hướng nghề nghiệp cho sinh viên ngay từ khi họ còn học tại các trường phổ thông. Hầu hết trong số họ vào đại học, cao đẳng theo yêu cầu của cha mẹ chứ không thực sự yêu thích ngành nghề mình đã chọn, do đó họ không có hứng thú với nghề dẫn đến tỷ lệ sinh viên ra trường làm trái nghề rất cao. Cũng do không có định hướng nghề nên tỷ lệ giữa nam và nữ trong ngành du lịch có sự chênh lệch khá lớn có đến 80% sinh viên theo học ngành du lịch là nữ do đó tuổi nghề của họ của khá ngắn gây xáo trộn cho thị trường du lịch.
Liên kết giữa nhà trường và các đơn vị sử dụng lao động: Hầu hết các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam đang thiếu tính chủ động trong việc tạo mối quan hệ với các doanh nghiệp, các đơn vị tuyển dụng dẫn đến tình trạng đào tạo không đáp ứng được các yêu cầu mà doanh nghiệp đề ra, các doanh nghiệp rất thờ ơ với các sinh viên vừa tốt nghiệp.
Tóm lại, dù đã có nỗ lực, chung tay từ nhiều phía nhưng công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch còn khá nhiều bất cập. Để có được lực lượng lao động chất lượng cao đáp ứng được với yêu cầu và nhu cầu xã hội, có thể cạnh tranh được với thị trường khu vực và thế giới thì cần có những giải pháp đồng bộ và cụ thể.
3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CƠ SỞ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH Ở VIỆT NAM
3.1. Chương trình đào tạo
- Hoàn thiện, nâng cao chương trình học theo hướng chuẩn Quốc tế, phù hợp với khung tiêu chuẩn nghề VTOS, chương trình học đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của xã hội.
- Đa dạng hóa và đổi mới chương trình đào tạo theo hướng đáp ứng yêu cầu - nhu cầu của xã hội. Thường xuyên lấy ý kiến của các doanh nghiệp sử dụng lao động, thậm chí cả khách du lịch nếu có điều kiện để thiết kế chương trình đào tạo cho phù hợp với thực tiễn. Tiến tới chuyên nghiệp hóa bằng cách xây dựng chương trình đào tạo riêng cho từng vị trí cụ thể trong ngành công nghiệp du lịch.
3.2. Phương pháp đào tạo
- Tăng cường thời lượng thực hành, thực tế; nâng cao khả năng tự học, tự nghiên cứu của sinh viên. Mỗi môn học nên chia thành 3 phần: 1/3 học lý thuyết trên lớp; 1/3 học thực tế, thực hành; 1/3 sinh viên thảo luận nhóm.
- Ngoài những kiến thức chuyên ngành thì ngoại ngữ là yếu tố quan trọng, là điều kiện để xác định lợi thế cạnh tranh của sinh viên du lịch so với các sinh viên khác. Năm 2016, Việt Nam lần đầu tiên đón 10 triệu lượt khách quốc tế. Do đó nâng cao chất lượng Ngoại ngữ của sinh viên là việc làm không thể thiếu. Mỗi sinh viên sau khi tốt nghiệp phải hoàn thành chứng chỉ Tiếng Anh Quốc tế (Ielts, Toefl, B1...), khuyến khích sinh viên học thêm ngoại ngữ thứ hai (Tiếng Trung, tiếng Hàn, Nhật...).
- Thường xuyên tổ chức các buổi Tọa đàm, Hội thảo có các chuyên gia đầu ngành trong lĩnh vực du lịch đến trao đổi để sinh viên hiểu rõ hơn và cập nhật nhanh các kiến thức mới mẻ về ngành nghề.
- Khuyến khích các dự án khởi nghiệp của sinh viên, kêu gọi các doanh nghiệp hỗ trợ đối với các dự án nhiều tiềm năng.
- Tạo điều kiện để những sinh viên ưu tú được đi thực tập ở các nước trong khu vực như Singapore, Thái Lan, Malaysia, Philippines...
- Mở rộng, tăng cường hoạt động của các câu lạc bộ như câu lạc bộ lễ tân, câu lạc bộ giao tế, câu lạc bộ hướng dẫn viên du lịch, câu lạc bộ thuyết trình… để tăng tính gắn kết và sự năng động của sinh viên trong điều kiện đào tạo tín chỉ.
- Nhà trường, khoa giúp sinh viên định hướng nghề nghiệp thông qua đội ngũ cố vấn học tập và các câu lạc bộ chuyên ngành ngay từ khi họ chuẩn bị nộp hồ sơ vào dự thi vào trường.
- Sàng lọc, nâng cao yêu cầu về chất lượng đầu vào đối với sinh viên ngành du lịch dựa trên các tiêu chí: Ngoại hình, Ngoại ngữ, khả năng giao tiếp - ứng xử, khả năng xử lý tình huống...
3.3. Cơ sở vật chất
- Tăng cường ngân sách cho việc nâng cấp và mở rộng các cơ sở đào tạo; Đầu tư máy móc, thiết bị hiện đại cho phòng học; Đảm bảo số lượng sinh viên/phòng học không bị quá tải.
- Phát triển mạng lưới cơ sở đào tạo vùng, miền, tạo điều kiện để tất cả mọi thành phần từ thành thị đến nông thôn trên khắp cả nước đều có thể tham gia vào quá trình học tập và nâng cao kiến thức.
- Xây dựng thư viện điện tử để giảng viên và sinh viên dễ dàng tiếp cận với hệ thống tài liệu tham khảo.
- Bổ sung các cơ sở, khu vực thực hành nghề cho sinh viên, chẳng hạn trung tâm tư vấn du lịch, khu thực hành nghiệp vụ khách sạn - nhà hàng, lễ tân...
3.4. Chất lượng giảng viên
- Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tại các trường đại học, cao đẳng, trường nghề, đặc biệt là về khả năng ngoại ngữ, khả năng nghiên cứu khoa học và khả năng thực hành, thực tiễn. Mỗi tuần, nhà trường nên quy định số giờ làm việc cụ thể cho từng giảng viên như sau: 2 ngày giảng dạy, 2 ngày nghiên cứu khoa học, 1 ngày làm việc thực tế tại các doanh nghiệp du lịch.
- Có chính sách hỗ trợ, khuyến khích đối với các giảng viên có nhiều sáng kiến trong quá trình giảng dạy và nghiên cứu.
- Mỗi kỳ học lấy ý kiến sinh viên đối với chất lượng giảng dạy của giảng viên. Đối với giảng viên nào có tỷ lệ phàn nàn về công tác giảng dạy trên 50% thì phải có hình thức cảnh báo, nếu quá 3 lần thì đình chỉ giảng dạy, chuyển công tác khác.
- Nâng cao chuyên môn đội ngũ thẩm định, giám sát viên về đào tạo du lịch, định kỳ mỗi năm 2 lần sẽ thực hiện đánh giá toàn bộ các cơ sở đào tạo du lịch trên cả nước.
- Có chính sách khuyến khích, hỗ trợ các giảng viên, chuyên gia trình độ cao đã được đào tạo ở nước ngoài về Việt Nam giảng dạy.
3.5. Tăng cường liên kết, hợp tác
- Tăng cường hợp tác quốc tế giữa các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước, tổ chức các khóa đào tạo dài - ngắn hạn để các giảng viên có điều kiện học hỏi ở các nước văn minh, phát triển.
- Kết hợp chặt chẽ giữa Nhà trường và Doanh nghiệp trong đào tạo và bồi dưỡng cho người học, tạo điều kiện để người học có điều kiện cọ xát và trải nghiệm thực tế cũng như mở rộng cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên sau khi ra trường. Muốn vậy, mối quan hệ giữa các giảng viên bộ môn cần mở rộng và duy trì mối quan hệ với các doanh nghiệp du lịch, nhà hàng, khách sạn trên địa bàn.
- Tăng cường mối quan hệ với các cựu sinh viên thành đạt để có được sự hỗ trợ đối với sinh viên trong và sau khi tốt nghiệp.
- Xây dựng kênh phản hồi từ các sinh viên sau khi ra trường để có thông tin về chất lượng đào tạo, đồng thời điều chỉnh và tìm hướng đối với giải pháp quản lý dạy - học.
- Tạo mối quan hệ chặt chẽ giữa các khoa chuyên ngành du lịch và gia đình sinh viên, định kỳ gửi kết quả học tập của sinh viên về gia đình để bố mẹ họ nắm bắt được tình hình học tập của con cái để có những định hướng và điều chỉnh kịp thời.
3.6. Hỗ trợ từ các cơ quan chức năng
Tất cả những giải pháp ở trên để có thể thực hiện được và hiệu quả thì không thể thiếu sự đầu tư và định hướng đúng đắn từ các cơ quan chức năng có liên quan: Chính phủ, Tổng cục du lịch, các sở du lịch…
Kết luận: Chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định sự thành công của Du lịch Việt Nam. Cải tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một quá trình lâu dài và cần có sự chung tay của 3 « nhà » : Nhà trường - Nhà Doanh nghiệp - Nhà Nước. Hy vọng, với chiến lược và giải pháp cụ thể và đúng đắn trong tương lai gần chất lượng nguồn nhân lực Du lịch Việt Nam sẽ được nâng cao, không chỉ đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong nước mà có thể cạnh tranh với thị trường khu vực và thế giới.
Tài liệu tham khảo: Website Tổng cục Du lịch Việt Nam: vietnamtourism.gov.vn/
Tác giả: Ths. Phạm Thị Hải Yến , Giảng viên Khoa Văn hóa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
Email: phamyenvhdl@gmail.com
Điện thoại: (84) 38511971, ext: 154
Điện thoại: (84) 38511971, ext: 154