24/06/2018, 01:12

Bài 2: Liên Xô và các nước Đông Âu (1945 – 2000) Liên Bang Nga (1991 – 2000) – Lịch sử 12

Liên Xô là nước đứng đầu một cực cũng là nước đại diện tiêu biểu củ chủ nghĩa xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991, nền chính trị của Liên Xô có nhiều biến đổi quan trọng. Trong bài học ngày hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về sự biến đổi đó. A. Lý thuyết I. LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ...

Liên Xô là nước đứng đầu một cực cũng là nước đại diện tiêu biểu củ chủ nghĩa xã hội. Từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến năm 1991, nền chính trị của Liên Xô có nhiều biến đổi quan trọng. Trong bài học ngày hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu về sự biến đổi đó.

A. Lý thuyết

I. LIÊN XÔ VÀ ĐÔNG ÂU TỪ 1945 ĐẾN GIỮA NHỮNG NĂM 70

1. Liên Xô từ 1945 đến giữa những năm 70

a. Công cuộc khôi phục kinh tế (1945 – 1950)

* Bối cảnh

–       Bị tổn thất nặng do Chiến tranh thế giới thứ hai,20 triệu người chết, 1710 thành phố và  hơn 70.000 làng mạc bị thiêu hủy, 32.000 xí nghiệp bị tàn phá..

–       Các nước tư bản bao vây kinh tế, cô lập chính trị.

–       Phải tự lực tự cường  hoàn thành thắng lợi các kế hoạch 5  năm khôi phục kinh tế, củng cố quốc phòng, giúp đỡ phong trào cách mạng thế giới.

* Thành tựu

–       Hoàn thành kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế trong 4 năm 3 tháng.

–       Năm 1950, sản lượng công nghiệp tăng 73%, nông nghiệp đạt mức trước chiến tranh.

–       Năm 1949 chế tạo thành công bom nguyên tử, phá vỡ thế độc quyền nguyên tử của Mỹ.

b. Liên Xô tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội (từ 1950 đến nửa đầu những năm 70)

Liên Xô  tiến hành các kế hoạch dài hạn và đạt nhiều  thành tựu to lớn

* Kinh tế

–       Công nghiệp: Giữa những năm 1970, là cường quốc công nghiệp thứ hai thế giới, đi đầu trong công nghiệp vũ trụ, công nghiệp điện hạt nhân…)

–       Nông nghiệp: sản lượng tăng trung bình hàng năm 16%.

Khoa học kỹ thuật

–       Năm 1957 phóng vệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất.

–       Năm 1961, phóng tàu vũ trụ đưa nhà du hành Gagarin bay vòng quanh Trái đất, mở đầu kỷ nguyên chinh phục vũ trụ của loài ngoài.

* Xã hội: có nhiều biến đổi

–       Chính trị  tương đối ổn định.

–       Tỷ lệ công nhân  chiếm 55 %  số người lao động.

–       Trình độ học vấn của người dân được nâng cao (3/4 số dân có trình độ trung học và đại học).

* Đối ngoại

–       Bảo vệ hòa bình thế giới.

–       Ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc.

–       Giúp đỡ các nước xã hội chủ nghĩa.

* Ý nghĩa

–       Chứng tỏ tính ưu việt của CNXH ở mọi lĩnh vực xây dựng kinh tế, nâng cao đời sống, củng cố quốc phòng.

–       Làm đảo lộn toàn  bộ chiến  lược của đế quốc Mỹ  và đồng minh Mỹ
Lien Xo va cac nuoc Dong Au

Vệ tinh nhân tạo đầu tiên của trái đất

Lien Xo va cac nuoc Dong Au

Gagarin

2. Các nước Đông Âu từ 1945 – 1975

a.  Sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân Đông Âu 1945-1949

–       1944 – 1945 nhân dân Đông Âu phối hợp Hồng Quân Liên Xô truy kích quân Đức, đã giành chính quyền  và thành lập các Nhà nước dân chủ nhân dân: Ba Lan, Rumani, Hungari, Bulgari, Tiệp Khắc, Nam Tư, Anbani, riêng CHDC Đức ra đời tháng 10/1949.

–       Tại Đức: Đức tạm chia thành 4 khu  vực chiếm đóng  của Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp. Nhưng với âm mưu phục hồi chủ nghĩa quân phiệt, chia cắt  lâu dài  nước Đức, các nước  Anh, Pháp, Mỹ lập Cộng Hòa Liên bang  Đức  (9-1949). Thể theo nguyện vọng của nhân dân, được sự giúp đỡ của Liên Xô, CHDC Đức thành lập  (10-1949 )

* Nhà nước dân chủ nhân dân ở Đông Âu là chính quyền liên hiệp nhiều giai cấp, đảng phái:

+         Từ 1945 – 1949 tiến hành cải cách ruộng đất.

+         Quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn của tư bản trong và ngoài nước.

+         Ban hành các quyền tự do dân chủ, nâng cao đời sống của nhân dân.

+         Củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng  sản

+         Các thế lực phản động trong và ngoài nước tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng của các nước Đông Âu nhưng đều thất bại.

* Các nước CHND Đông Âu  ra đời là thay đổi lớn  đối với cục diện châu Âu.
Lien Xo va cac nuoc Dong Au

Các nước Đông Âu

b. Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở các nước Đông Âu

* Hoàn cảnh

–       1950-1975 Đông Âu thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm  xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội  trong tình hình khó khăn và phức tạp.

–       Xuất phát từ trình độ phát triển thấp, bị bao vây kinh tế, các thế lực phản động chống phá.

Thành tựu: nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô và sự nỗ lực của nhân dân Đông Âu.

–       Xây dựng  nền công  nghiệp dân tộc, điện khí hóa.

–       Nông nghiệp phát triển nhanh chóng.

–       Trình độ khoa học-kỹ thuật được nâng cao

–       Trở thành các quốc gia công – nông nghiệp.

* Ý nghĩa: làm thay đổi cục diện Châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành hệ thống.

3. Quan hệ hợp tác giữa các nước XHCN ở châu Âu

a. Quan hệ kinh tế, khoa học – kỹ thuật

Hội đồ ng tương trợ  kinh tế ( SEV thành lập ngày 08.01.1949):

–       Các  nước Đông Âu đã hòan thành CMDCND và bước vào thời kỳ xây dựng CNXH.

–       Hội Đồng Tương Trợ Kinh tế (SEV) thành lập ngày 8-1-1949 gồm Liên Xô,Ba Lan, Tiệp Khắc, Anbani, Bung ga ri, Hungari, Rumani sau thêm CHDC Đức, Mông Cổ, Cuba và Việt Nam.

* Mục đích

–       Tăng cường sự hợp tác giữa các nước  xã hội chủ nghĩa .

–       Thúc đẩy  sự tiến bộ về kinh tế, văn hóa, khoa học- kỹ thuật …

–       Thu hẹp dần về trình độ phát triển kinh tế.

–       Thành  tựu: đã thúc đẩy các nước XHCN phát triển kinh tế và kỹ thuật , tạo ra cơ sở  vật chất  kỹ thuật  để đẩy mạnh việc  việc xây dựng CNXH, nâng cao đời sống nhân dân.

* Tác động

–       Tốc độ tăng trưởng  trong sản xuất  công nghiệp  10%/ năm.

–       GDP tăng 5,7 lần.

–       Liên Xô giữ vai trò quan  trọng  tromg hoạt động của khối này, viện trợ không hoàn lại  cho các nước thành viên  20 tỷ Rúp.

* Thiếu sót, hạn chế

–       Không hòa nhập vào nền kinh tế thế giới.

–       Chưa áp dụng  tiến bộ của khoa học và công nghệ.

–       Do cơ chế quan liêu và bao cấp.

* Ý nghĩa

–       Các nước Xã hội chủ nghĩa có điều kiện giúp đỡ lẫn nhau  để đẩy mạnh công cuộc  xây dựng chủ nghĩa xã hội.

–       Nâng cao đời sống nhân dân

–       Ngày  28-8-1991 ngừng hoạt động.

b. Quan hệ chính trị – quân sự

Tổ chức  Hiệp ước Vacxava thành lập ngày 14.05.1955.

–       Hiệp ước  Vacsava thành lập ngày 14-5-1955 gồm Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Anbani, Bungari, Hungari, Rumani, CHDC Đức.

–       Mục tiêu

+         Là liên minh phòng thủ về quân sự, chính trị của  các nước xã hội chủ nghĩa Châu Âu.

+         Giữ gìn hòa bình và an ninh  ở Châu Âu  và thế giới

+         Tạo thế cân bằng về quân sự giữa các nước XHCN và đế quốc vào đầu những năm 1970.

+         Sau những biến động chính trị lớn ở Đông Âu, những người đứng đầu  2 nước Liên Xô và Mỹ thỏa thuận  chấm dứt chiến tranh lạnh  (1989), ngày 1-7-1991, tổ chức này ngừng hoạt động.

II. LIÊN XÔ VÀ CÁC NƯỚC ĐÔNG ÂU TỪ GIỮA NHỮNG NĂM 70 ĐẾN NĂM 1991

1. Sự khủng hoảng của chế độ XHCN ở Liên Xô.( Liên Xô từ nửa  sau những năm 1970 đến 1991)

a. Hoàn cảnh lịch sử

–       Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ đã tác động mạnh mẽ đến tình hình kinh tế, chính trị thế giới.

–       Do chậm sửa đổi để thích ứng với tình hình mới, cuối những năm 70 đến đầu những năm 80, kinh tế Liên Xô lâm vào tình trạng trì trệ, suy thoái.

b. Công cuộc cải tổ và hậu quả.

–       Tháng 3/1985,  M Gooc -ba – chop (M.Gorbachev)  tiến hành cải tổ đất nước theo đường lối “cải cách kinh tế triệt để”, tiếp theo là cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư tưởng.

–       Sau 6 năm,do sai lầm trong quá trình cải tổ, đất nước Xô Viết khủng hoảng toàn diện:

+         Kinh tế chuyển sang kinh tế thị trường vội vã, thiếu sự điều  tiết  của nhà nước  nên gây ra hỗn loạn, thu nhập giảm sút nghiêm trọng.

+         Chính trị và xã hội: mất ổn định (xung đột sắc tộc, ly khai liên bang..),thực hiện đa nguyên chính trị làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Đảng và nhà nước.

–       Tháng 08/1991, sau cuộc đảo chính lật đổ Gorbachev thất bại, Đảng Cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động.Chính phủ Liên bang bị tê liệt.

–       Ngày 21/12/1991, 11 nước cộng hòa tách ra khỏi liên bang lập Cộng đồng các quốc gia độc lập(SNG ). Gooc ba chop từ chức Tổng thống, Liên Xô tan rã sau 74 năm tồn tại.

2. Sự khủng hoảng của chế độ XHCN ở các nước Đông Âu ( nửa sau những năm 1970 đến 1991)

* Kinh tế

–       Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 nền kinh tế Đông Âu lâm vào tình trạng trì trệ.

–       Những sai lầm và bế tắc trong công cuộc  cải tổ ở Liên Xô  và hoạt động phá hoại  của các thế lực phản động  làm cho  cuộc khủng hoảng của các nước Đông Âu  ngày càng gay gắt.

* Chính trị

–       Sự sụp đổ của Liên  Xô  và các hoạt động phá hoại  của các thế lực phản động  làm cho cuộc khủng hoảng  thêm gay gắt.

–       Các nước Đông Âu  lần  lượt  từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng, chấp nhận đa nguyên, đa đảng và tiến hành tổng tuyển cử, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa, lập các nước cộng  hòa.

–       Đông Đức sát  nhập vào Tây Đức  (3-10-1990); SEV giải thể ngày 28-8-1991: Tổ chức Vác xa va giải thể ngày 1-7-1991.

3. Nguyên nhân tan rã  của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu

–       Đường lối  lãnh đạo chủ quan, duy ý chí, quan liêu bao cấp làm cho  sản xuất trì  trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện.

–       Thiếu dân chủ, thiếu công bằng, … làm nhân dân bất mãn.

–       Không bắt kịp bước phát triển của khoa học – kỹ thuật tiên tiến,dẫn đến tình trạng trì trệ, khủng hoảng kinh tế – xã hội.

–       Phạm phải nhiều sai lầm trong cải tổ làm khủng hoảng thêm trầm trọng.

–       Sự chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước.

Đây chỉ là sự sụp đổ của một mô hình xã hội chủ nghĩa chưa khoa học, chưa nhân văn và là một bước lùi tạm thời của chủ nghĩa xã hội.

III. LIÊN BANG NGA TỪ  NĂM 1991  ĐẾN NĂM 2000

Liên bang Nga là quốc gia kế thừa địa vị pháp lý của Liên Xô trong quan hệ quốc tế.

* Về kinh tế

–       Từ 1990 – 1995, GDP là số âm.

–       Giai đoạn 1996 – 2000  kinh tế phục hồi (năm 1997 tốc độ tăng trưởng là 0,5 %,năm 2000 là 9%).

* Về chính trị

–       Tháng 12.1993, Hiến pháp Liên bang Nga được ban hành, quy định thể chế Tổng thống Liên bang.

–       Tình hình chính trị không ổn định do sự tranh chấp giữa các đảng phái và xung đột sắc tộc, nổi bật là phong trào ly khai ở Tréc-ni-a.

* Về đối ngoại: một mặt ngả  về phương Tây, mặt khác khôi phục và phát triển các mối quan hệ với châu Á.

* Từ năm 2000 kinh tế dần hồi phục và phát triển, chính trị và xã hội ổn định, vị thế quốc tế được nâng cao. Tuy vậy, nước Nga vẫn phải đương đầu với nhiều thách thức như nạn khủng bố, li khai, việc khôi phục và giữ vững vị thế cường quốc Á – Âu …
Lien Xo va cac nuoc Dong Au

Bản đồ Liên bang Nga

B. Bài tập

Câu 1: Liên Xô và các nước Đông Âu từ giữa những năm 70 đến năm 1991

Trả lời:

1. Sự khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô

Năm 1973, cuộc khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô

Năm 1973, cuộc khủng hoảng dầu mỏ bùng nổ đã tác động mạnh mẽ đến tình hình chính trị, kinh tế tài chính của nhiều nước trên thế giới. Trong bối cảnh đó, Liên Xô chậm đề ra những biện pháp sửa đổi để  thích ứng với tình hình mới. Đến cuối những năm 70 – đầu những năm 80, nền kinh tế Liên Xô dần dần bộc lộ những dấu hiệu suy thoái.

Đời sống chính trị có những diễn biến phức tạp, xuất hiện tư tưởng và một số nhóm đối lập chống lại Đảng Cộng sản và Nhà nước Xô viết.

Tháng 3 – 1985, M. Goocbachop lên năm quyền lãnh đạo Đảng và Nhà nước Liên Xô, tiến hành công cuộc cải tổ đất nước. Đường lối cải tổ tập trung vào việc cải cách kinh tế triệt để, tiếp theo là cải cách hệ thống chính trị và đổi mới tư tưởng.

Sau 6 năm tiến hành cải tổ, do phạm nhiều sai lầm nên tình hình không được cải thiện, đất nước Xô viết lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện.

Về kinh tế, do việc chuyển sang kinh tế thị trường quá vội vã, thiếu sự điều tiết của Nhà nước nên đã gây ra sự rối loạn, thu nhập quốc dân giảm  sút nghiêm trọng.

Về chính trị và xã hội, những cải cách về chính trị càng làm cho tình hình đất nước rối ren hơn. Việc thực hiện đa nguyên chính trị, xuất hiện nhiều đảng đối lập làm suy yếu vai trò lãnh đạo của Nhà nước Xô viết và Đảng Cộng sản Liên Xô. Sự bất bình của nhân dân ngày càng sâu sắc, làm bùng nổ nhiều cuộc mít tinh, biểu tình với các khẩu hiệu phản đối Đảng và chính quyền. Khắp đất nước nổi lên làn sóng bãi công, xung đột sắc tộc diễn ra gay gắt, nhiều nước cộng hòa đòi tách khỏi Liên bang Xô viết.

Tháng 8 – 1991, một cuộc chính biến nhằm lật đổ Goocbachop nổ ra nhưng thất bại. Sau đó, Goocbachop tuyên bố từ chức Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô, yêu cầu giải tán Ủy ban Trung ương Đảng. Đảng cộng sản Liên Xô bị đình chỉ hoạt động. Chính phủ Liên bang bị tê liệt. Ngày 21 – 12 -1991, những người lãnh đạo 11 nước cộng hòa trong Liên bang kí kết hiệp định thành lập Hội đồng các quốc gia độc lập (gọi tắt là SNG). Nhà nước Liên bang Xô viết tan rã. Ngày 25 – 12 – 1991, Goocbachop từ chức Tổng thống lá cờ búa liềm trên nóc điện Kremli bị hạ xuống, đánh dấu sự chấm dứt chế độ xã hội ở Liên Xô sau 74 năm tồn tại.

2. Sự khủng hoảng của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu

Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 tác động mạnh đến nền kinh tế của các nước Đông Âu. Vào những năm cuối của thập kỉ 70 – đầu thập kỉ 80, nền kinh tế Đông Âu lâm vào tình trạng trì trệ. Lòng tin của nhân dân vào Đảng cộng sản và Nhà nước ngày càng giảm sút. Ban lãnh đạo Đảng và Nhà nước ở các nước Đông Âu đã có những cố gắng để điều chỉnh sự phát triển kinh tế. Những sai lầm của những biện pháp cải cách cộng với sự bế tắc trong công cuộc cải tổ ở Liên Xô và hoạt động phá hoại của các thế lực phản động đã làm choc cuộc khủng hoảng ở các nước xã hội chủ Đông Âu ngày càng gay gắt. Ban lãnh đạo ở các nước Đông Âu lần lượt từ bỏ quyền lãnh đạo của Đảng, chấp nhận chế độ đa nguyên, đa đảng và tiến hành tổng tuyển cử, chấm dứt chế độ xã hội chủ nghĩa xã hội.

Ở Cộng hòa Dân chủ Đức, cuộc khủng hoảng bùng nổ từ cuối năm 1989, nhiều người từ Đông Đức, chạy sang Tây Đức, “bức tường Beclin” bị phá bỏ. Ngày 3 – 10 – 1990 việc thống nhất nước Đức đã được thực hiện với sự sáp nhập Cộng hòa dân chủ Đức và Cộng hòa Liên bang Đức.

3. Nguyên nhân tan ra của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu

Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước Đông Âu đã đem lại nhiều thành tựu to lớn, thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của Liên Xô và các nước Đông Âu. Nhưng dần dần chính những sai lầm và khuyết tật đã làm xói mòn, dẫn tới sự tan rã của chế độ xã hội chủ nghĩa ở châu Âu trong những năm 1989 – 1991. Nguyên nhân trước hết là do đường lối lãnh đạo mang tính chủ quan duy ý chí, cùng với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp làm cho sản xuất trì trệ, đời sống nhân dân không được cải thiện. Thêm vào đó, sự thiếu dân chủ và công bằng đã làm tăng thêm sự bất mãn trong quần chúng. Hai là, không bắt kịp bước phát triển của khoa học – kĩ thuật tiên tiến, dẫn đến tình trạng trì trệ, khủng hảng về kinh tế, xã hội. Ba là, khi tiến hành cải tổ lại phạm phải sai lầm trên nhiều mặt, làm cho khủng hoảng thêm trầm trọng. Bốn là, sự chống phá của các thế lực thù địch ở trong và ngoài nước.

Câu 2: Nêu những thành tựu chính của Liên Xô trong công cuộc khôi phục kinh tế sau chiến tranh

Trả lời:

Với tinh thần tự lực tự cường, nhân dân Liên Xô đã hoàn thành thắng lợi kế hoạch 5 năm khôi phục kinh tế (1946 – 1950) trong vòng 4 năm 3 tháng.

Công nghiệp được phục hồi vào năm 1947. Đến năm 1950, tổng sản lượng công nghiệp tăng 73% so với mức trước chiến tranh (kế hoạch dự kiến là 48%) hơn 6200 xí nghiệp được phục hồi hoặc xây dựng mới đi vào hoạt động.

Sản xuất nông nghiệp năm 1950 đã đạt mức trước chiến tranh.

Khoa học – kĩ thuật phát triển nhanh chóng. Năm 1949, Liên Xô đã chế tạo thành công bom nguyên tử, phá thế độc quyền vũ khí nguyên tử của Mĩ.

Câu 3: Những thành tựu trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu là gì?

Trả lời:

Trong những năm 1950 – 1975, các nước Đông Âu đã thực hiện nhiều kế hoạch 5 năm nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội trong tình hình khó khăn phức tạp. Các nước này đều xuất phát từ trình độ phát triển thấp (trừ Tiệp Khắc, Cộng hòa dân chủ Đức), lại bị các nước đế quốc bao vây về kinh tế và các thế lực phản động trong nước ra sức chống phá. Với sự giúp đỡ có hiệu quả của Liên Xô và sự nỗ lực vươn lên của nhân dân, các nước Đông Âu đã giành được nhiều thành tựu to lớn.

Các nước Đông Âu đã tiến hành xây dựng nền công nghiệp, điện khí hóa toàn quốc, nâng sản lượng công nghiệp lên gấp hàng chục lần. Nông nghiệp phát triển nhanh chóng,đáp ứng nhu cầu lương thực và thực phẩm của nhân dân. Trình độ khoa hoc – kĩ thuật được nâng lên rõ rệt. Từ những nước nghèo, các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã trở thành các quốc gia – nông nghiệp.

Câu 4: Trình bày sự ra đời và vai trò của Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) đến đầu những năm 70 của thế kỉ XX

Trả lời:

Ngày 8 – 1 – 1949, Hội đồng tương trợ kinh tế (thường gọi tắt là SEV) được thành lập với sự tham gia của cac nước xã hội chủ nghĩa ở châu Âu là : Liên Xô, Anbani, Ba Lan, Bungari, Hungari, Tiệp Khắc, Rumani; năm 1950, kết nạp thêm Cộng hòa dân chủ Đức. Mục tiêu của SEV là tăng cường sự hợp tác  giữa các nước xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy sự tiến bộ về kinh tế và kĩ thuật, thu hẹp dần sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các nước thành viên, không ngừng nâng cao mức sống của nhân dân

Từ năm 1951 đến năm 1973, tốc độ tăng trưởng sản xuất công nghiệp bình quân hằng năm của các nước trong khối SEV là khoảng 10%, tổng sản phẩm trong nước (GDP) của các nước thành viên năm 1973 tăng 5,7 lần so với năm 1950. Liên Xô giữ vai trò quyết định trong khối SEV. Từ năm 1949 đến năm 1970, Liên Xô đã viện trợ không hoàn lại cho các nước thành viên tới 20 tỉ rúp.

Những chuyên mục hay của Lịch sử lớp 12:

  • Giải bài tập Sách giáo khoa môn Lịch sử lớp 12
  • Câu hỏi ôn tập môn Lịch sử lớp 12
  • Đáp án môn Lịch sử lớp 12
  • Đề thi học sinh giỏi môn Lịch sử lớp 12

Trên đây, chúng tôi đã trình bày những nét khái quát về tình hình chính trị, quân sự, xã hội ở Liên Xô và Tây Âu qua hai giai đoạn phát triển (1945-1975), những năm 70 đến 1991. Chúc các bạn ôn thi đạt hiệu quả cao!

0