Thờ Mẫu của người Việt- Tôn giáo hay Tín ngưỡng
Đạo Mẫu trong tranh Hàng Trống Huỳnh Thiệu Phong (1) . Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Sự đa dạng này không những không tạo ra bất kỳ sự xung đột nào trong cộng đồng các tộc người ở nước ta mà trái lại, càng góp phần làm cho văn hóa dân tộc thêm phần đa dạng trong ...
Huỳnh Thiệu Phong
(1) . Việt Nam là quốc gia đa tôn giáo, tín ngưỡng. Sự đa dạng này không những không tạo ra bất kỳ sự xung đột nào trong cộng đồng các tộc người ở nước ta mà trái lại, càng góp phần làm cho văn hóa dân tộc thêm phần đa dạng trong thống nhất. Văn hóa vốn dĩ là một khái niệm rất rộng. Tùy vào những góc độ tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu lại đưa ra những định nghĩa khác nhau về nội hàm định nghĩa “văn hóa”. Tuy nhiên, có một sự thật ta phải nhìn nhận rằng, sự cấu thành nên văn hóa gồm hai thành tố nhỏ hơn: Văn hóa vật chất – văn hóa tinh thần; trong đó văn hóa vật chất bao gồm những hoạt động liên quan đến ăn (ẩm thực), mặc (trang phục), ở (kiến trúc nhà), đi lại (phương tiện di chuyển)… văn hóa tinh thần bao gồm những hoạt động liên quan đến đời sống tâm linh (tín ngưỡng, tôn giáo), nghệ thuật (điêu khắc, kiến trúc, diễn xướng, văn học), lễ hội, …
Tất cả chúng là những mảnh ghép để thiết lập nên một bức tranh văn hóa tổng thể của một dân tộc. Các tôn giáo, tín ngưỡng không đơn thuần là những quan niệm triết học mà nó còn là tấm gương phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan thông qua hệ thống kinh kệ, cơ sở thờ tự, các hình tượng thờ cúng, kết cấu tổ chức trong đạo, thông qua đó đã có những tác động đến đời sống văn hóa (tinh thần) – xã hội của cộng đồng cư dân. Tất cả những điều đó đều hướng con người đến hệ giá trị CHÂN-THIỆN-MỸ. Đó chính là giá trị cao nhất mà tôn giáo, tín ngưỡng hướng con người đến. Khi đề cập đến đời sống tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam, không thể không kể đến thờ Mẫu. Đây là một dạng tôn giáo, tín ngưỡng[1] rất đặc biệt vì hai lý do sau: (1) Thờ Mẫu thể hiện rõ nét những đặc trưng của văn hóa Việt Nam truyền thống – (2) Nên xem thờ Mẫu là một tôn giáo hay một tín ngưỡng? Bài viết này sẽ tập trung làm rõ lý do thứ hai, tức góp phần nêu quan điểm trong việc xếp thờ Mẫu vào nhóm tôn giáo hay nhóm tín ngưỡng dân gian.
(2) Để làm rõ vấn đề trên, tác giả tập trung giới thuyết lại một số vấn đề liên quan đến sự hình thành của dạng thức thờ Mẫu ở Việt Nam, đồng thời hệ thống lại quan niệm về tôn giáo-tín ngưỡng để trên cơ sở đó, phân tích và lý giải việc xếp thờ Mẫu vào nhóm tôn giáo hay tín ngưỡng.
“Mẫu”(母) là một từ Hán Việt, có nghĩa là “mẹ”. Tín ngưỡng thờ Mẫu có nghĩa là tín ngưỡng thờ người mẹ, ý chỉ người phụ nữ đã sinh ra một người nào đó, là tiếng xưng hô của con đối với người sinh ra mình. Vậy thì do đâu mà hình thành nên tục thờ Mẹ? Trước hết, bản chất của văn hóa nước ta là văn hóa gốc nông nghiệp, do vậy mà chất âm tính trong văn hóa và vai trò của người phụ nữ trong đời sống sinh hoạt thường ngày là rất quan trọng. Vai trò người phụ nữ được đề cao đã dẫn đến một thực trạng là các nữ thần luôn chiếm ưu thế. “Người xưa cũng đã từng tập hợp các vị tiên có nguồn gốc thuần Việt, trong tổng số 27 vị thì đã có 14 vị là Tiên Nữ” [6,tr24-25]. Ngoài ra, theo thống kê của tập sách “Di tích lịch sử văn hóa Việt Nam” của Viện Hán Nôm thì trong tổng số 1000 di tích văn hóa thì đã có tới 250 di tích thờ cúng các vị thần hay danh nhân là nữ [7,tr6]. Một lý do khác hình thành nên tâm thức thờ Mẹ đó là do những tư duy, quan niệm lúc ban đầu vô cùng đơn giản của người dân gốc nông nghiệp. Vai trò của người mẹ đã được giáo sư Vũ Ngọc Khánh đề cập trong công trình “Tục thờ Thánh – Mẫu ở Việt Nam”: “Mẹ sáng tạo ra con, chăm sóc con từ ngày con ở trong nôi cho đến lúc mẹ từ giã cõi đời. Những ngày đầu tiên của lịch sử nhân loại, con người chỉ biết có mẹ, không biết có cha. Xã hội hình thành cũng phải trải qua chặng đường đầu tiên là thời kỳ mẫu hệ. Do đó trong quan niệm của loài người, không thể thiếu hình ảnh người mẹ” [2,tr11]. Về sau, quan niệm ấy dần được mở rộng hơn về phạm vi. Con người ai cũng có mẹ, vậy thì ông Trời mặc dù là đấng tối cao, nhưng cũng phải có mẹ; rồi vạn vật trên trái đất này đều có mẹ, tất cả đều phải tuân theo quy luật đó. Và từ những quan niệm đó thì những yếu tố và hiện tượng tự nhiên như: Mây, mưa, nước, núi, đất cũng đã “có” mẹ. Và đó cũng chính là nguyên nhân lý giải cho sự ra đời của “nguyên lý Mẹ”[2].
Như vậy, việc tôn thờ phụ nữ nói chung, người mẹ nói riêng trong tâm thức của người Việt đã phát triển trên nền tảng văn hóa nông nghiệp lúa nước. Vị thế và vai trò của người phụ nữ được thể hiện rõ nét trong sinh hoạt đời sống hằng ngày và từ tư duy đơn sơ lúc đầu, người ta đã nâng tầm vị thế của người phụ nữ lên, thần thánh hóa trở thành các nữ thần, và cao hơn nữa là thánh Mẫu. Do vậy, có thể xem thờ Mẫu chính là một hình thức trong tín ngưỡng sùng bái tự nhiên (tức tôn thờ các vị nhiên thần) và thờ Mẫu cũng đồng thời là một biểu hiện của dạng thức thờ nữ thần nói chung.
(3) Sự hình thành tâm thức tôn thờ người mẹ đã được làm rõ ở trên, như vậy vấn đề đặt ra tiếp theo như đã đề cập chính là nên xem hiện tượng thờ Mẫu là một tôn giáo hay tín ngưỡng?
Tín ngưỡng và tôn giáo là phạm trù rộng, rất phức tạp cả trên phương diện lý luận lẫn thực tiễn. Tương tự như khái niệm “văn hóa”, từ nhiều góc độ tiếp cận khác nhau mà nội hàm khái niệm “tôn giáo” – “tín ngưỡng” được định nghĩa khác nhau.
+ Về tín ngưỡng, theo Đặng Nghiêm Vạn, ông cho rằng thuật ngữ “tín ngưỡng” có thể đồng nhất với cụm từ “niềm tin tôn giáo” [10]. Ở Việt Nam, thuật ngữ “tín ngưỡng” có hai nghĩa. Khi ta nói tự do tín ngưỡng, người ngoại quốc có thể hiểu đó là niềm tin nói chung hay niềm tin tôn giáo. Do vậy, nếu hiểu tín ngưỡng là niềm tin thì có một phần ở ngoài tôn giáo; còn nếu hiểu nghĩa tín ngưỡng trong tôn giáo thì khi đó, tín ngưỡng chỉ là một bộ phận cấu thành của tôn giáo. Xét dưới góc độ ngữ nghĩa, “tín” có nghĩa là lòng tin, “ngưỡng” là sự ngưỡng mộ, ngưỡng vọng vào một cái gì đó [48,tr12]. Như vậy, “tín ngưỡng” có nghĩa là lòng tin, sự ngưỡng vọng của con người vào một lực lượng siêu nhiên, thần bí nào đó. Lực lượng đó tác động đến đời sống nội tâm của con người, được người ta tin là có thật, sùng bái và tôn thờ. Một cách hiểu khác có thể dẫn ra, “Có khi, tín ngưỡng được quan niệm là những hình thức tôn giáo dân gian, chưa có hệ thống giáo lý, giáo luật, tổ chức giáo hội… như các tôn giáo (…). Như vậy, theo nghĩa này tín ngưỡng được hiểu như là những hiện tượng có tính tôn giáo nhưng chưa phải là tôn giáo theo nghĩa hẹp nói trên” [1, tr12-13]. Tác giả đồng ý với quan điểm này của Nguyễn Minh Khải khi xem tín ngưỡng là hiện tượng có tính tôn giáo, mang tính cá nhân và là cơ sở dẫn đến những hiện tượng mê tín dị đoan.
+ Về tôn giáo,đây là một khái niệm cũng phức tạp không kém. Tôn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, được hình thành từ cuối công xã nguyên thủy dưới hình thức sơ khai. Tôn giáo bao gồm toàn bộ quan niệm, ý thức, tình cảm, hành vi, hoạt động và tổ chức tôn giáo đó. Phát xuất chủ yếu từ nhu cầu đối sáng hai khái niệm “tôn giáo” và “tín ngưỡng”, tác giả không thực hiện thao tác nêu các quan điểm trong việc định nghĩa khái niệm “tôn giáo” mà chỉ tập trung khẳng định những đặc điểm để nhận dạng một tôn giáo. Theo đó, điều 16-chương 3 trong Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo (2004) đã có quy định: “a) Là tổ chức của những người có cùng tín ngưỡng, có giáo lý, giáo luật, lễ nghi không trái với thuần phong, mỹ tục, lợi ích của dân tộc;(b) Có hiến chương, điều lệ thể hiện tôn chỉ, mục đích, đường hướng hành đạo gắn bó với dân tộc và không trái với quy định của pháp luật; (c) Có đăng ký hoạt động tôn giáo và hoạt động tôn giáo ổn định;d) Có trụ sở, tổ chức và người đại diện hợp pháp;đ) Có tên gọi không trùng với tên gọi của tổ chức tôn giáo đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận” [3].
Tóm lại, để có cái nhìn cụ thể lẫn khái quát trong việc đối sánh hai khái niệm “tôn giáo – tín ngưỡng”, tác giả thiết lập bảng bên dưới để phân biệt hai khái niệm tôn giáo và tín ngưỡng:
Bảng 1: Phân biệt khái niệm tôn giáo – tín ngưỡng
Tôn giáo (Religion) | Tín ngưỡng (Belief) |
– Phải có 4 yếu tố cấu thành: Giáo chủ – giáo lý – giáo luật – tín đồ. | – Không có những yếu tố cấu thành như tôn giáo. |
– Mỗi người chỉ có thể chọn cho mình một tôn giáo. | – Được quyền chọn cho mình nhiều hình thức tín ngưỡng. |
– Có hệ thống giáo lý hẳn hoi, đầy đủ, đồ sộ. | – Chỉ là các bài văn tế hoặc các bài khấn. |
– Các tôn giáo đều có những người hành đạo chuyên nghiệp và theo đạo suốt đời. | – Không ai đứng ra làm một cách chuyên nghiệp. |
– Nơi thờ cúng và nghi lễ còn phân tán và chưa được quy ước chặt chẽ. | – Có nơi thờ cúng riêng, nghi lễ được thiết lập (chùa, nhà thờ, thánh đường). |
[Nguồn: Huỳnh Thiệu Phong]
- Thờ Mẫu là một dạng thức tôn giáo, tín ngưỡng được hình thành ở miền Bắc nước ta. Theo dòng lịch sử, thờ Mẫu đã cùng với những người lưu dân từ vùng ngoài vào phương Nam theo quá trình mở rộng bờ cõi. Chính trong sự di chuyển đó đã tạo điều kiện cho tục thờ Mẫu của những lưu dân Việt giao lưu và tiếp biến văn hóa với tục thờ Mẫu của người Chăm và người Khmer. Đây là cơ sở cho sự hình thành các hình tượng Mẫu mới trong đời sống tâm linh của cư dân đất Nam Bộ. Nếu ở Nam Bộ, cơ sở thờ phụng các Mẫu thường được gọi bằng nhiều tên gọi khác nhau như: Chùa, Miếu, thì ở Bắc Bộ lại có sự khác biệt. Ở miền Bắc, những nơi thờ tự của tín ngưỡng thờ Mẫu đều theo công thức: “Phủ + địa danh”[3], chẳng hạn như Phủ Giày có nghĩa là “… địa điểm có tên là Giày, là nơi thờ các vị Thánh mẫu của bốn phủ, bốn cõi…” [2,tr17] hay như Phủ Nấp, Phủ Tây Hồ, Phủ Sòng…
Thứ hai, hệ thống điện thờ của thờ Mẫu ở Bắc Bộ vốn dĩ đã được định hình:
Ngọc Hoàng
↓
Phật Bà quan âm
↓
Thánh Mẫu (Tam tòa Thánh Mẫu) (Thiên, Địa, Thoải, Nhạc)
↓
Quan (Ngũ Vị Quan Lớn) (Từ 5 – 10 vị quan)
↓
Chầu (Tứ vị Chầu bà) (Từ 4 – 6 – 12 chầu Bà)
↓
Ông Hoàng (Từ 5 – 10 Ông Hoàng)
↓
Cô (12 Cô)
↓
Cậu (Cậu quận) (10 Cậu)
↓
Ngủ Hổ
↓
Ông Lốt (rắn)
Sơ đồ 2: Hệ thống điện thần tín ngưỡng Thờ Mẫu theo thứ bậc
(Nguồn: [7, tr49])
Do đó, với sự bài bản trong hệ thống cơ sở thờ tự và điện thờ như vậy, việc xem thờ Mẫu như một tôn giáo sơ khai của một số nhà nghiên cứu nhận định là có cơ sở. Tuy nhiên, đó là tình hình ở Bắc Bộ, còn ở Nam Bộ mọi thứ lại không giống như vậy. Ở mỗi địa phương khác nhau đều có những vị Mẫu thần khác nhau mà tiêu biểu và nổi bật hơn cả chính là 3 vị Thánh Mẫu: Chúa Xứ Thánh Mẫu – Linh Sơn Thánh Mẫu – Thiên Hậu Thánh Mẫu (của người Hoa). Mỗi vị Mẫu kể trên chính là sản phẩm của sự giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa các tộc người Việt-Chăm-Khmer-Hoa. Những hình tượng Mẫu này vốn dĩ không còn mang tính bản địa như các vị Mẫu Liễu, Mẫu Địa, Mẫu Thoãi như ở Bắc Bộ nữa.
Với thực trạng như trên, thay cho lời kết, tác giả muốn rút ra một vài nhận định về việc nên xem thờ Mẫu là tôn giáo hay tín ngưỡng:
- Thứ nhất, nhiều người đồng nhất chữ “đạo” có nghĩa là “tôn giáo”. Điều này là sai lẩm, bởi lẽ chữ “đạo” ở đây có nghĩa là “con đường”, “phương hướng” (giống như “địa đạo” = con đường dưới lòng đất; “đạo đức” = phương hướng sống chuẩn mực trong đời sống và tâm hồn). Đạo Mẫu mà nhiều người vẫn dịch với nghĩa “tôn giáo Mẫu” thực chất có nghĩa là “con đường, cách thức đến với các Mẫu”. Con đường đến với Mẫu mang ý nghĩa con người tìm đến Mẫu để cầu tiền, tài quan lộc, sức khỏe.
- Thứ hai,đối chiếu thờ Mẫu với những tiêu chí để được công nhân là một tôn giáo, ta thấy rất rõ ngoài việc có hệ thống điện thờ tương đối rõ nét (ở Bắc Bộ), các tiêu chí còn lại thờ Mẫu không hề đáp ứng bất kỳ tiêu chí nào để có thể xem là một tôn giáo.
- Thứ ba, sự lan tỏa trên không gian rộng lớn (trải dài khắp ba miền Bắc-Trung-Nam) của tục thờ Mẫu đã làm cho nó mang nhiều sắc thái văn hóa vùng miền khác nhau. Việc xem thờ Mẫu là một tôn giáo sơ khai ở Bắc Bộ là hợp lý, song ở vùng Trung Bộ và Nam Bộ lại không hợp lý, bởi lẽ trên con đường lan tỏa đó, việc giao lưu và tiếp biến văn hóa đã làm cho các hình tượng Mẫu không còn một hệ thống thống nhất về phương diện điện thờ. Các Mẫu có thể được phối thờ với nhiều vị thần, Phật khác nhau.
Vì lẽ đó, tôi cho rằng với tục thờ Mẫu của người Việt, ta chỉ xem nó là một hình thức tín ngưỡng dân gian sẽ hợp lý hơn là xem nó với tư cách một tôn giáo ở Việt Nam./.