Các vua Hùng dựng nước Văn Lang
Van Lang 500 BCE – wikipedia Cung Đình Thanh Đã từ lâu, tôi có ý định viết về đề tài “Các Vua Hùng dựng nước”. Nhưng mỗi lần cầm bút lại một lần gác bút dù đã trải qua nhiều ngày đêm đắn đo, suy nghĩ: Huyền thoại Lạc Long Âu Cơ. (Bấm vào đây để đọc Truyện Hồng-Bàng ) ...
Cung Đình Thanh
Đã từ lâu, tôi có ý định viết về đề tài “Các Vua Hùng dựng nước”. Nhưng mỗi lần cầm bút lại một lần gác bút dù đã trải qua nhiều ngày đêm đắn đo, suy nghĩ: Huyền thoại Lạc Long Âu Cơ. (Bấm vào đây để đọc Truyện Hồng-Bàng) sinh bọc trăm trứng, tuy có nhiều tình tiết huyền bí, hư ảo, có vẻ phi khoa học, nhưng nó lóng lánh phiêu bồng như mang nhiều ký gởi của tổ tiên về cội nguồn dân tộc. Câu chuyện đã có nhiều ý nghĩa thâm thúy, lại đẹp như chuyện thần tiên, dễ thấm lòng người để lưu truyền vạn thế! Cũng còn một lý do nữa khiến tôi chần chừ là khoa học ngày nay tiến bộ nhanh quá và hiện cò đang có những khám phá mới vô cùng ngoạn mục. ĺt năm gần đây, những tiến bộ của địa chất học, khảo cổ học, dân tộc học, ngữ học, di truyền học,… mới phát hiện được đã chứng minh những tài liệu cũ ít nhiều đều không còn đúng nữa. Một điều lạ là những sử liệu xưa kia coi là nhiều giá trị nhất, khả tín nhất thì lại có vẻ trái ngược sự thực mới được mới được khoa học phơi bày nhất, trong khi những truyến thuyết mà học giới thời thuộc Pháp hay xa hơn nữa, thời chịu ảnh hưởng văn hóa Trung Hoa vẫn cho là mê tín, hoang đường xem ra lại gần sự thật hơn! Chính vì nỗi e ngại đó nên tôi đã chần chừ, muốn đợi cho vấn đề thêm sáng tỏ. Tháng tư năm 2000, nhân số kỷ niệm Giỗ Tổ Hùng Vương, tôi đã đăng bài Nguồn Gốc Dân Tộc Việt Nam căn cứ vào khám phá mới phát hiện của nhà bác học J.Y. Chu về nguồn gốc con người ở Đông Á theo di truyền học DNA thay cho bài định viết về Vua Hùng Dựng Nước này.
Thấm thoát một năm đã trôi qua. Nay lại đến ngày Giỗ Tổ. Viết hay không viết về đề tài vua Hùng dựng nước? Câu hỏi lại đến một cách dai dẳng đòi hỏi một sự trả lời dứt khoát.
Viết thì có cái lợi là đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu cội nguồn của lớp người trẻ hiện tại và tương lai, đã thấm nhuần tinh thần khoa học, không tin vào những gì chưa được khoa học xác minh là có thực. Nó còn đánh tan ngụy thuyết cố tình xuyên tạc lịch sử lập quốc lâu dài của dân, cho những truyền thuyết chỉ là chuyện hoang đường, che dấu một dĩ vãng mà họ cho là man di không có gì đáng hãnh diện. Tuy nhiên, nếu viết không đạt, thì lợi bất cập hại: nó làm hư cái vẻ đẹp lung linh huyền sử mang nhiều ý nghĩa cao viễn mà bất cứ ai còn tự cho mình là người Việt, đọc lên cũng không khỏi không bồi hồi về công đức của tổ tiên và thấm thía cái nghĩa đồng bào, trăm con cùng một mẹ. Nhưng rồi đến lúc cũng phải có một số quyết định. Chúng ta đang sống trong thời đại tin học. Những người trẻ Việt sẽ đọc được, không ở chỗ nầy thì ở chỗ khác, những tài liệu khoa học về nguồn gốc dân tộc minh. Tuy khoa học chỉ có một, nhưng cách nhìn khoa học thì có nhiều, có thể nhìn từ phía bạn hay phía… không phải là bạn. Thôi thì người Việt đọc nguồn gốc dân tộc mình dưới ánh sáng của khoa học, bằng cách nhìn do con cháu của tổ tiên mình viết vẫn hơn. Do đó, bài viết này đã đến tay quí vị. Đây chỉ là công việc tổng kết một cách sơ bộ những tài liệu khoa học liên hệ dến vấn đề thành lập nước Văn Lang. Kính mong được quí vị góp ý và cung cấp thêm những tài liệu mới để người viết, nếu có dịp, sẽ đúc kết lại thành một tham luận hoàn chỉnh hơn.
***
Để vào đề một bài học không thể không nhắc đến: bài học Nhật Bản. Người Nhật cho nguồn gốc dân tộc họ là Thái Dương Thần Nữ xem ra cũng chẳng đúng tinh thần khoa học gì. Vậy mà họ có đặt vấn đề tìm hiểu tại sao nguồn gốc dân tộc và sự hình thành quốc gia cho đúng tinh thần khoa học bao giờ đâu? Trong khi Việt Nam ta có nguồn gốc con Rồng cháu Tiên, có lịch sử hơn 4000 năm văn hiến, tuy không hẳn đã đúng với tinh thần khoa học, nhưng có khác gì Nhật Bản, hà cớ phải tính đến chuyện tìm ra nguồn gốc dân tộc? Hà cớ phải bàn đến chuyện Vua Hùng dựng nước làm gì? Chỉ sinh chuyện rối rắm, có khi còn làm hại đến tinh thần dân tộc? Lý thì như vậy đấy, nhưng xin thưa: hoàn cảnh Việt Nam không giống như Nhật Bản:
– Từ khi lập quốc, Nhật Bản chưa hề bị ngoại nhân đô hộ: dân tộc họ không bị bôi xấu là dân man di, mọi rợ, quốc gia họ không ở cảnh, cho đến những ngày gần đây, còn bị coi là một nước bán khai. Ngược lại, họ vốn là một cường quốc, nay lại là quốc gia đứng hàng thứ nhì về kinh tế trên thế giới. (Cho đến khi bài tham luận này được đăng, kinh tế Nhật Bản đã xuống hàng thứ ba trên thế giới sau Hoa Kỳ và Trung Quốc ). Có ai dám coi thường chứ đừng nói khinh rẽ họ? Lịch sử của họ đã tự nói lên sự oai hùng, làm gì phải tính đến sự viết đi viết lại?
– Còn chúng ta thì khác: Từ ngày lập quốc, chúng ta đã mấy phen bị ngoại bang đô hộ. Kẻ thù đã dùng mọi cách man trá làm sai lạc về nguồn gốc cũng như về lịch sử lập quốc của chúng ta. Mọi sách sử bị đánh tráo, bị đảo lộn rối beng. Ngay những người trí thức lương thiện nhất, nhiều khi cũng không biết rõ nguồn gốc dân tộc mình ra sao, lịch sử dựng nước thế nào. Bên cạnh những văn bản nói về cái hay của lịch sử dân tộc thì lập tức có văn bản phủ nhận, bác khước, làm cho có sự hoài nghi ở khắp mọi nơi. Cho đến tận hôm nay còn bị lăng nhục bằng đủ mọi hình thức kiểu “Tổ quốc ăn năn”: lãnh tụ chỉ là bọn trộm cướp, trí thức chỉ là lũ hèn mọn, văn hóa chỉ là trò vay mượn… Nếu không nhờ người ta khai hóa, dậy dỗ, người ta nắm đầu chỉ bảo cho thì chắc chì còn có nước đi ăn mày!
– Cũng may chúng ta còn có những truyền thuyết, trước sau thống nhất về một nguồn gốc dân tộc đáng yêu, một lịch sử đáng quý, và còn có lòng tin son sắt trước sau như một của những người bình dân sống xa thành thị đối với tổ tông nên đất nước còn tồn tại được đến ngày hôm nay.
Trong trường hợp như vậy, không thể không làm cho nguồn gốc dân tộc được minh bạch, không thể không tìm hiểu lịch sử lập quốc cho thực rõ ràng. Vì một khi sự việc chưa được minh bạch, sự nửa tin nửa ngờ sẽ không bao giờ dứt hẳn và sự đánh phá vào mặt trận dân tộc của các thế lực thù nghịch cũng không bao giờ ngừng nghỉ, mà có thể mỗi ngày còn một gia tăng. Tuy nhiên, muốn cho sự việc được minh bạch trong thời buổi khoa học ngày nay, chúng ta không thể không chứng minh sự việc bằng những bằng chứng khoa học không ai có thể bác khước.
– Gia dĩ chúng ta lại có một nguồn gốc hiển hách, một lịch sử khởi đầu bằng những năm tháng vinh quang, một quốc gia từ khởi thủy đã là cái nôi của nhân loại văn minh, đã có những phát minh đem lại ơn ích cho cả loài người. Sự làm cho minh bạch nguồn gốc dân tộc và lịch sử lập quốc như vậy chỉ có lợi là đánh tan những luận điệu thù nghịch trước kia cũng như ngày nay muốn bôi nhọ đất nước và dân tộc ta với mưu đồ đen tối mà không có cái hại gì. Vì cái hại nhất cho lịch sử do thế lực thù nghịch tạo ra cho đất nước ta đã có và đang có sẵn rồi.
Vấn đề sẽ được nhìn dưới ba khía cạnh:
– Khía cạnh truyền thuyết hay huyền học.
– Khía cạnh lịch sử theo văn bản của các sách sử có được cho đến ngày nay.
– Khía cạnh khoa học theo năm khảo hướng chính: khảo cổ học, ngôn ngữ học, địa chất học, thảo mộc học – ở đây là sự thuần hóa cây lúa nước – và di truyền học.
I- Nguồn gốc dân tộc theo huyền học
Về phương diện này, không ai hơn triết gia Lương Kim Định. Với phương pháp dựa vào truyền thuyết, vào huyền học, và với một khối lượng đồ sộ hơn 40 tác phẩm, Kim Định đã dắt ta đi sâu vào những ngõ ngách thâm u của thời tiền sử – thời chưa có chữ viết – của nguồn gốc dân tộc và tư tưởng tổ tiên tộc Việt. Cũng trong chiều hướng đó, cũng bằng phương pháp huyền học, một tác giả khác có lẽ cũng đã ở lứa tuổi cụ Kim Định – cụ Huy Việt, năm nay 93 tuổi – sống dưới sự kiểm soát khắt khe của chế độ cộng sản, nhưng vẫn sinh hoạt văn hóa, vẫn âm thầm sáng tác, vừa gửi ra ngoài sơ thảo cuốn “Nguồn Gốc Dân Tộc Việt” của cụ. Lạ một điều là dù tác phẩm của cụ không dẫn chứng theo khoa học, cũng không nói rõ nguồn gốc tư liệu, về tiểu tiết, so với khoa học hiện đại có nhiều điều không sát, có khi ngược hẳn, nhưng về đại thể thì có nhiều điểm tương đồng, nhất là kết luận thì mường tượng như nó có cùng một chủ đích mà phương pháp khoa học đang dẫn dắt chúng ta đi tới. Điều này xin quý vị so sánh với phần III trong bài tham luận này sẽ thấy rõ. Ở đây xin mời quý vị hãy đi theo câu chuyện tác giả kể.
– Rằng: Khoảng 80.000 năm trước Kỷ Nguyên (TKN), tại trung tâm Á Châu, nay đã biến thành ra sa mạc Gobi, có một biển lớn ăn thông đến Bắc Cực. Giữa biển có một hòn đảo mang tên Bạch Đảo, là nơi cư ngụ cua các bậc tu sĩ thông tuệ khác thường, được dân tôn là những bậc Tiên, Thánh. Năm đó có nạn hồng thủy, những người sống sót ở khắp nơi trên mặt địa cầu, thuộc các sắc dân da vàng, da trắng, da đen, đều qui tụ về ven biển Bạch Đảo tìm đường sống. Tại đây, họ đã được các bậc tu sĩ Bạch Đảo thu xếp cho nơi ăn chốn ở, dạy họ về triết học, về kỹ thuật (kể cả kỹ thuật kim loại), về tổ chức và quản trị quốc gia… Đến năm 45.000 năm TKN, dân đã trở thành văn minh và cũng đã quá đông nên được khuyên nên di cư đi tìm đất mới mà sinh sống. Nói riêng về chủng da vàng, một nửa ở lại Bạch Đảo, một nửa đi về phía Đông Nam lập ra nước Môn và nước Nam Dương, lúc đó chưa cách ly với đại lục Châu Á. Đến năm 9504 TKN, nhân loại lại bị một trận hồng thủy khác tàn phá khắp mặt địa cầu. Nước Nam Dương bị nước biển tràn ngập, biến thành những hải đảo như ta thấy ngày nay. Những người sống sót trôi dạt đi khắp nơi, trong đó có một phần dạt vào phía Nam bán đảo Đông Dương ngày nay, lập nên nước Phù Nam, là chủ nhân của nền văn minh mà di tích còn lại là Đế Thiên, Đế Thích.
– Nay nói đến một nửa dân da vàng còn lại ở Bạch Đảo. Trước nạn hồng thủy năm 9504 TKN, do lời khuyên của các bậc Tiên Thánh ở Bạch Đảo, lớp dân này đã đi lên các cao nguyên tỵ nạn trước: phần lớn, mà tác giả gọi là chủng Thái, thì lên tỵ nạn ở cao nguyên Pamir; phần nhỏ thuộc tộc Miêu lên tỵ nạn ở cao nguyên Tây Tạng thuộc dãy Hi Mã Lạp Sơn. Khi nước rút hết, họ không thể trở về Bạch Đảo vì nơi này đã biến thành sa mạc Gobi, nên phải tìm đất mới sinh sống. Không kể hai nhóm, một là dân Miêu, lên định cư ở Cam Túc, hai là những thổ dân đi về Tây Vực, ba nhóm khác thuộc dân da vàng xuôi theo ba dòng sông chính ra biển:
1.- Nhóm theo sông Mékong lập ra hai nước Lào và Thái Lan.
2.- Nhóm theo sông Hồng lập ra nước Cổ Việt.
3.- Nhóm theo sông Dương Tử lập ra nước Ba Thục ở Tứ Xuyên, là chủ nhân của nền văn minh Thục Sơn. Theo tác giả, đây chính là tổ tiên của người Việt ngày nay. Gạt đi những chi tiết hoang đường hay không cần thiết, câu chuyện nguồn gốc dân tộc Việt đến đây có nhiều chỗ rất thú vị, lại giải thích được những nan đề của lịch sử cho đến nay người ta vẫn chưa giải đáp được.
– Nhà nước Ba Thục xây dựng kinh tế trên nông nghiệp, xã hội trên làng xã, mỗi ngày một giàu có và văn minh. Tuy có vua, nhưng trị nước theo lối dân chủ, lấy xã thôn tự trị làm gốc. Vua được chọn theo lối truyền hiền (truyền cho người có đức có tài) chứ không phải truyền tử (truyền cho con). Đến năm 4600 năm TKN, nước chọn được vua Phục Hy, dòng họ Khương cai trị. Vua dạy dân phép sống để thành một người văn minh, không phải chỉ văn minh vật chất mà là văn minh tâm linh, dựa vào thuyết Tam Tài (Thiên = Địa = Nhân), lấy con người làm trọng: do đó có đạo vợ chồng, đạo thờ tổ tiên, nhân phẩm đạo đức được đề cao; con người được đánh giá bằng đạo đức hơn là bằng tài ba giàu có; nhân, hiền, tiết, nghĩa được đề cao; cha mẹ được gọi là Song Thân chứ không phải là Nghiêm Đường; tình được trọng hơn lý. Chính Phục Hy là tác giả của các sách Cửu Khâu, Tam Phần, Ngũ Điển, lập ra các qui tắc cho Kinh Dịch, Lịch số… Công đức của ông rất lớn nên khi chết được tặng danh hiệu là Nhân Hoàng.
– Dòng họ Khương của Phục Hy truyền được 1000 năm thì nhường cho dòng họ Mễ cai trị Thục Sơn. Đó là năm 3600 năm TKN. Ông vua này là ông tổ của nghề nông, nghề y nên khi chết được tặng hiệu là Thần Nông hay Địa Hoàng. Dòng họ Mễ cai trị Ba Thục cho đến năm 315 TKN mới bị Tần diệt và sát nhập vào Trung Hoa.
Như chúng ta đã biết, theo khoa học Trung Hoa chỉ được các nhà sử học ngày nay công nhận được thành lập từ đời nhà Thương, khoảng 1600 năm TKN. Trước đó chỉ là huyền sử.
Bây giờ hãy cùng tác giả theo chân đoàn di dân Ba Thục đi tìm đất mới. Đã có nhiều cuộc di dân tìm đất mới để sinh sống từ thời dòng họ Phục Hy cai trị. Ở đây xin chỉ kể đến hai cuộc di dân từ đời Thần Nông thứ 7:
Cuộc di dân thứ nhất:
Do hoàng tử họ Mễ cầm đầu, xuôi thuyền theo sông Dương Tử, khi đến vùng Hồ, Quảng, vùng hồ Động Đình, thấy phong cảnh hữu tình, đất đai mầu mỡ nên quyết định dừng chân lập nghiệp ở đó. Khi sắp mất, vị hoàng tử này lập con trưởng cai trị quốc gia tân lập này: đó là vua Đế Minh. Vua Đế Minh lên ngôi năm 2950 TKN, có người con cả với bà vợ Thục tên Nghi và người con thứ với bà vợ thứ hai, con Động Đình Quân, là bà Vụ Tiên, tên Lộc Tục. Khi chết ông truyền ngôi con trưởng làm vua đất Hồ Quảng, Hà Nam tức vua Đế Nghi nước Sở, và con thứ là Lộc Tục làm vua từ đất Kinh Châu và đất phía nam sông Dương Tử trở về Nam. Khi lên ngôi vua, ngài lấy hiệu là Kinh Dương Vương, đặt tên nước là Xích Quỷ hay là Việt. Chữ Việt nói lên cương vực của nước Xích Quỷ. Vua Đế Nghi và vua Kinh Dương Dương đều lên làm vua năm 2879 TKN. Sự thành lập nước Việt sẽ được tóm lược ở phần II dưới đây.
Cuộc di dân thứ hai:
Cùng với cuộc di dân thứ nhất, vua Ba Thục còn tổ chức một cuộc di dân thứ hai mà người cầm đầu là công tử con vua triều cũ họ Khương. Đoàn thuyền cũng xuôi theo dòng Dương Tử, nhưng không dừng chân ở vùng hồ Động Đình (đã có đoàn thứ nhất định cư), mà tiếp tục đi theo sông Dương Tử đến vùng hạ lưu gần biển Đông. Vì vậy, sau này lịch sử Hoa Hán gọi hậu duệ của đoàn này một cách khinh miệt là bọn Đông Di để phân biệt với bọn Tây Di là những người thuộc tộc Miêu đi về hướng Tây từ trước, tiền nhân của các ông Nghiêu, Thuấn, Vũ… sau này (Ghi chú của tác giả bài này: Trung Dung câu 30 cũng đã viết: “Trọng Ni tổ thuật Nghiêu Thuấn, hiến chương Văn, Võ; thượng thuật thiên thi, hạ tập thủy thổ – Trọng Ni, tên Đức Khổng Tử, một mặt thuật lại Đạo của ông tổ mình là Nghiêu, Thuấn, mặt khác xiển dương đường lối của các vua Văn, vua Võ, trên đề cao Đạo Trời, dưới theo tục lệ từng địa phương“. Câu Nghiêu, Thuấn, Vũ là hậu duệ của các người Tây di là ý kiến của nhiều học giả Tây Phương như James Legg viết theo chính sử sách của nhà Chu để lại).
Ở bờ biển phía Đông, họ lập nên các nước Tề, Yên, Lỗ (tổ quốc của Khổng Tử), Trần, Sái. (Ghi chú của tác giả bài này: Về phương diện khảo cổ, những nước này đều thuộc văn minh Long Sơn rồi Chieng Lien K’ang chứ không thuộc văn minh Ngưỡng Thiều của nòi Hoa Hán. Người lãnh đạo những nước này theo lịch sử cũng như truyện cổ của Tàu, sau này thường vẫn còn giữ họ Khương).
***
Câu chuyện tác giả kể còn nhiều điều thú vị như chuyện Thục Phán, vốn là cháu của vua Thục cuối cùng. Khi nước sắp bị mất về tay nhà Tần, 315 TKN, vua ủy cho tướng Cao Lỗ đem hoàng tử, con thứ phi, về Nam lánh nạn, tá túc tại nước Tây Ân. Vị hoàng tử Thục này lấy em gái vua Tây Ân đẻ ra Thục Phán. Khi vua Hùng thứ 18 mất không có con trai, muốn truyền ngôi cho con rể là Sơn Tinh, nhưng ông này đã tu tiên nên không nhận; vua mới truyền ngôi cho Thục Phán, vốn là con của ngành trưởng họ Mễ, đã từng tá túc ăn học trong triều đại vua Hùng.
Tôi nghĩ đã đến lúc nên chuyển sang phần II của bài này. Phần viết trên tóm lược ý chính của tác phẩm chưa xuất bản mang tên Nguồn Gốc Dân Tộc Việt. Khi kể chuyện, tác giả không ghi sự kiện trích dẫn ở đâu, cũng không ghi niên đại trích dẫn do đâu mà có. Như trên đã nói, về tiểu tiết tuy nhiều điều không đúng với khoa học mà tôi sẽ nói rõ ở phần III, nhưng về đại thể thì có nhiều nét tương đồng. Nhất là chuyện kể rất có ý nghĩa. Và tấm lòng của tác giả thực đáng trân trọng, đáng kính phục.Tất nhiên, tôi không phản bác ý kiến cho rằng sử thì phải lấy sự thực làm mục tiêu tối hậu, mục tiêu cao nhất, và ngày nay phài là sự thực được chứng minh bằng những dữ kiện khoa học. Tôi kể lại câu chuyện trên để quý vị tiện việc so sánh với phần II và III, nhất là để xin thỉnh ý quý vị. Rất mong nhận được ý kiến và các tài liệu quý vị bổ túc cho để chúng ta có thể hoàn chỉnh phần quan trọng này của lịch sử nước nhà.
II- Nguồn gốc dân tộc theo văn bản
Có nhiều phương pháp để tìm giải đáp cho vấn đề các vua Hùng dựng nước Văn Lang. Phương pháp giản dị và hữu hiệu nhất có lẽ là phương pháp “W” mà David N. Keightley đã áp dụng trong việc tìm hiểu nguồn gốc nhà nước Trung Hoa.
Như vậy phải thứ tự trả lời cho thực rạch ròi bốn câu hỏi thứ tự như sau:
1.- Cương vực của nước Văn Lang ra sao? (Where).
2.- Các vua Hùng dựng nước Văn Lang lúc nào? (When).
3.- Lý do nào đã đưa đến việc thành lập nhà nước Văn Lang? (Why).
4- Việc tổ chức điều hành nhà nước đó cơ bản như thế nào? (What).
Trong phạm vi của phần này, việc trả lời những câu hỏi trên sẽ căn cứ vào sách sử hiện có. Xin nói ngay, trong phạm vi giới hạn của một bài báo, chúng tôi chỉ xin lược kể những sử sách chính gần đây mà bỏ qua những tác phẩm nổi tiếng cổ điển vẫn được coi như khuôn vàng thước ngọc. Lý do đơn giản là những sách cổ đó viết bởi người Hán, người Pháp hay những học giả người Việt viết theo sách Hán, sách Pháp hầu hết ngày nay đã được khoa học chứng minh không cón thích hợp, chưa kể nhiều sách còn có dụng ý xuyên tạc sự thực, mục đích để phục vụ cho mục tiêu của kẻ thống trị. Nói như vậy không có nghĩa là chúng ta vơ đũa cả nắm mà không biết cũng còn có những học giả chân chính, những tác phẩm trung thực. Nhưng điều đó xin được bàn đến trong một dịp khác.
1.- Cương vực của nước Văn Lang
Cương vực của nước Văn Lang theo truyền thuyết, thường được các sách sử viết lại là truyện Lạc Long – Âu Cơ sẽ được phân tích trong các phần dưới đây, nhất là phần kết luận.
– Căn cứ vào truyền thuyết, tác tác giả sách Thời Đại Hùng Vương cho rằng cương vực nước Văn Lang có thể hiểu theo ba cách:
* Hẹp nhất là bằng bờ cõi bộ Văn Lang, nghĩa là gồm đất đai các tỉnh Vĩnh Phú, Hà Tây, một phần tỉnh Tuyên Quang, Hà Bắc và Hà Nội ngày nay.
* Thứ nhì là ranh giới của cả 15 bộ cộng lại tương đương Bắc phần, phía Bắc Trung phần và một phần phía Nam các tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây ngày nay.
* Thứ ba, bờ cõi Văn Lang rộng nhất, đúng như văn bản đã ghi, căn cứ vào truyền thuyết là “Đông giáp Nam Hải, Tây tới Ba Thục, Bắc tới Động Đình Hồ và Nam giáp với Hồ Tôn (Chiêm Thành)”.
Các tác giả sách này đã thiên về giả thiết thứ hai, chủ trương bờ cõi nước Văn Lang là vùng đất gồm một phần phía Nam hai tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây (Trung Hoa), miền Bắc phần và Bắc Trung phần ngày nay (Thời Đại Hùng Vương, nxb Khoa Học Xã Hội Hà Nội, 1972).
– Thuyết này hình như cũng là thuyết các sử gia hàng đầu của Việt Nam ngày nay chủ trương. “‘Căn cứ theo 15 bộ của nước Văn Lang và nhất là căn cứ vào quá trình chuyển hóa lịch sử từ nước Văn Lang đời Hùng Vương đến nước Âu Lạc đời An Dương Vương, rồi đến hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân thời thuộc Triệu và thuộc Hán, có thể xác định: địa bàn của nước Văn Lang tương ứng với vùng Bắc bộ, Bắc Trung bộ nước ta ngày nay và một phần phía Nam Quảng Đông, Quảng Tây của Trung Quốc“. (Lịch Sử Việt Nam, Tập I, nxb Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1985, trang 62).
Nhưng hình như cũng có những bộ sử chỉ nói chung chung, tránh né vấn đề cương vực liên hệ đến đất đai Trung Hoa ngày nay như: “Nước Văn Lang xuất hiện với một tổ chức chánh trị xã hội đã phát triển, với một nền văn hóa tương đối cao, là kết quả phát triển lâu dài hàng ngàn năm trước đó của nền văn minh sông Hồng… Thủ lãnh bộ lạc Văn Lang đã đóng vai trò lịch sử là người đứng ra thống nhất các bộ lạc Lạc Việt, dựng nên nước Văn Lang. Ông xưng vua, sử gọi là Hùng Vương và con cháu ông vẫn đời đời mang danh hiệu đó. Lãnh thổ sinh trưởng đầu tiên của tổ tiên là miền Bắc Việt Nam“. (Lịch Sử Việt Nam, nxb Khoa Học Xã Hội, 1971, trang 45 – Bộ sử này của Ủy Ban Khoa Học Xã Hội khác bộ sử của Đại Học Tổng Hợp Hà Nội ở trên).
– Riêng Trần Trọng Kim, trong Việt Nam Sử Lược (nxb Tân Việt, 1958, trang 23), đã phân biệt cương vực nước Xích Quỷ của vua Kinh Dương Vương và vua Lạc Long Quân “Bắc giáp Hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn, Tây giáp Ba Thục, Đông giáp Nam Hải“, khác với cương vực nước Văn Lang của các vua Hùng (Vua Hùng là con trưởng của Lạc Long Quân và cháu Kinh Dương Vương). Theo Việt Nam Sử Lược, 15 bộ của nước Văn Lang chỉ từ Quảng Bình trở ra Bắc đến Lạng Sơn, Cao Bằng, không bao gồm phần đất nay thuộc Trung Hoa. [Ghi chú: Theo Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim, 15 bộ đó tương ứng với địa dư ngày nay như sau: 1- Văn Lang (Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên); 2- Châu Diên (Sơn Tây); 3- Phúc Lộc (Sơn Tây); 4- Tân Hưng (Hưng Hóa, Tuyên Quang); 5- Vũ Ninh (Bắc Ninh); 6- Lục Hải (Lạng sơn); 7- Ninh Hải (Quảng Yên); 8- Dương Tuyền (Hải Dương); 9- Giao Chỉ (Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình); 10- Cửu Chân (Thanh Hóa); 11- Hoài Hoan (Nghệ An); 12 Cửu Đức (Hà Tỉnh); 13- Việt Thường (Quảng Bình, Quảng Trị); 14- Bình Văn (?); 15- Vũ Định (?)]. Phải chăng như vậy là mặc nhiên công nhận nước Văn Lang chỉ được thành lập từ vua Hùng là con trưởng đời thứ ba kể từ Kinh Dương Vương và cương vực nước Văn Lang nhỏ hơn nhiều so với cương vực nước Xích Quỷ của Lạc Long quân và Kinh Dương Vương? Nếu đúng như vậy thì giả thiết này là hợp với khoa học nhất như sẽ được chứng minh ở phần sau. Hai câu hỏi nữa cần được đặt ra là:
1.- Phần đất còn lại của nước Xích Quỷ do ai cai trị?
2.- Và 18 đời vua Hùng là tính từ Kinh Dương Vương hay từ vua Hùng con trưởng của Lạc Long Quân?
Đây là điều sách sử hiện tại còn mâu thuẫn, cần có câu giải đáp.
2.- Vua Hùng dựng nước Văn Lang vào lúc nào?
Niên đại thường được mọi người nói đến là năm Nhâm Tuất 2879 TKN và kết thúc vào năm Thục Phán diệt nước Văn Lang lập nên nước Âu Lạc năm Quý Mão 258 TKN. Bỏ ra ngoài những ý kiến của những người chỉ lợi dụng sử học để mưu đồ chuyện khác, ở đây chỉ xin kể ý kiến của giới sử học chính thống bàn về vấn đề niên đại này:
– Có người cho rằng “giới hạn niên đại cuối cùng ở trên có thể còn chấp nhận được vì còn có những sử liệu thành văn để nghiên cứu” (ý nói sử của Trung Hoa!), nhưng “giới hạn niên đại trên cùng thì chưa có gì làm bằng“… vì “con số 2879 là một con số tùy tiện thêm vào sử, bắt đầu có từ thời Lê sơ” (ý nói do Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, phần Ngoại Kỷ Thời Đại Vua Hùng, sđd, trang 53). Viết như vậy e mang tiếng có tinh thần vọng ngoại, vì sử Tàu hay sử ta thì đều là sử viết sau này, kể chuyện về thời Tiền Sử – thời chưa có chữ viết – nghĩa là đều phải phỏng đoán chứ không phải nhìn thấy tận mắt. Vấn đề tưởng không phải là tìm một con số chính xác. Vấn đề là xem con số tượng trưng đó so với những phát minh của khoa học ngày nay có sát sự thực không? Đó là điều chúng ta sẽ bàn tới sau.
– Có người còn so đo “xét từ đời Kinh Dương Vương đến đời Hùng Vương thứ 18, cả thẩy 20 ông vua, mà tính từ năm Nhâm Tuất (2879 TKN) đến năm Quý Mão (258 TKN) thì vừa được 2622 năm. Cứ tính hơn bù kém, mỗi ông vua trị vì được non 150 năm! Dẫu là người đời Thượng Cổ nữa, thì cũng khó lòng mà có nhiều người sống lấu được như vậy – xem thế thì đủ biết chuyện Hồng Bàng không chắc là chuyện xác thực“‘ (Trần Trọng Kim – Việt Nam Sử Lược, nxb Tân Việt, 1958, trang 25), Cụ Trần viết như vậy thì rõ như 2 với 2 là 4 rồi. Có điều chỉ một con toán đơn giản như vậy mà suốt hơn 2000 năm, một nước được tiếng là “văn hiến chi bang” như nước ta, không thiếu gì những bậc tài danh, trí tuệ làm gì mà không nghĩ ra? Phải chăng người ta đã hiểu câu chuyện này còn có những uẩn áo uyên thâm? Con số 18 đời vua Hùng còn có những ý nghĩa nào khác? Phân tích một đoạn tiền sử mang tính tượng trưng bằng con mắt tỉnh táo, chỉ dựa vào mấy con số chứ không dựa vào bằng chứng khoa học e cũng có hơi dung tục. Đó là phần ta sẽ bàn kỷ ở đoạn sau.
– Có người lại chủ trương “Việc xác định thời điểm khai sinh cụ thể cho nhà nước đầu tiên trong lịch sử Việt Nam còn là vấn đề đang đặt ra cho sử học và những ngành khoa học xã hội có liên quan. Với những kết quả nghiên cứu hiện nay có thể tạm thời nhìn nhận sự ra đời của nhà nước đầu tiên đó, nhà nước Văn Lang đời Hùng Vương và nhà nước Âu Lạc đời An Dương Vương, vào giai đoạn văn hóa Đông Sơn trong thiên niên kỷ thứ I trước Công Nguyên. Như vậy, nhà nước chưa thể ra đời vào giai đoạn Phùng Nguyên cách đây 4000 năm, và thời kỳ Phùng Nguyên đến Đông Sơn tương ứng với thời kỳ Hùng Vương. An Dương Vương trong quan niệm truyền thống 4000 năm dựng nước và giữ nước cần được hiểu là một quá trình lịch sử lâu dài bao gồm giai đoạn tan rã của chế độ công xã nguyên thủy, chuẩn bị các điều kiện cho sự hình thành nhà nước (Phùng Nguyên – Gò Mun) và giai đoạn xuất hiện nhà nước đầu tiên (Đông Sơn)”. (Lịch Sử Việt Nam, Tập I, nxb Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp Hà Nội, 1995, trang 164).
3.- và 4.- Những lý do nào đã đưa đến việc thành lập nhà nước Văn Lang và đại cương việc tổ chức, điều hành nhà nước này như thế nào?
Nhà nước hay quốc gia là một phạm trù lịch sử và triết học đã được nhiều học giả trên khắp thế giới nghiền cứu và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau. Nhưng cho đến nay, ý kiến vẫn chưa thống nhất và cũng chưa có định nghĩa nào được mọi người cùng chấp thuận. Xin đơn cử ba định nghĩa có thể lấy làm tiêu biểu:
Định nghĩa 1:
Quốc gia là một chủ thể của luật pháp quốc tế có bốn đặc tính như sau: một quốc dân thống nhất, một lãnh thổ xác định, một chính quyền độc lập và một khả năng có thể bang giao tự do với các quốc gia khác.Đây là định nghĩa trong điều 1 Định Ước Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ ký với các quốc gia Châu Mỹ La Tinh năm 1933 về Quyền Hành và Bổn Phận, thường được coi là tiêu chuẩn cho định nghĩa về quốc gia ngày nay.
Định nghĩa 2:
Quốc gia, về phương diện địa dư, là một miền đất có cương vực rõ ràng, về nhân sự, là một khối dân có đoàn kết và về pháp luật, khối dân ấy phục tùng một chủ quyền duy nhất. Đây là định nghĩa được David N. Keightley, dựa vào để viết về nguồn gốc nước Trung Hoa “‘The Late Shang State: When, Where and What”‘. (Tham luận được đọc tại Đại Học Berkeley 1978, in trong The Origins of Chinese Civilization, 1980).
Định nghĩa 3:
Nhà nước là một sản phẩm của xã hội đã phát triển tới một giai đoạn nhất định…
– để bảo vệ những ích lợi chung (như đắp đê, tưới nước…)
– để chống kẻ thù bên ngoài
– và để duy trì bằng bạo lực sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp thống trị đối với giai cấp bị trị.
(Theo Enghen – Chống Đuyrinh).
Tùy theo mỗi nơi và cũng tùy từng thời, người ta có thể chú trọng đến điều kiện này mà lơ là điều kiện khác về sự định nghĩa thế nào là một quốc gia. Trong những loại định nghĩa ấy, thì nhà nước Văn Lang của các vua Hùng thuộc vào định nghĩa quốc gia nào? Hay chẳng thuộc một trong những định nghĩa trên?
Để trả lời câu hỏi trên, chúng ta hãy thử duyệt lại văn bản của một số bộ sử chính của nước nhà:
– Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng Kim ghi: “Hùng Vương đóng đô ở Phong Châu (bây giờ ở vào huyện Bạch Hạc, tỉnh Vĩnh Yên), đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng, con trai vua gọi là Quang Lang, con gái vua gọi là Mị Nương, các quan nhỏ gọi là Bố Chính. Quyền cai trị thì cứ cha truyền con nối gọi là phụ đạo.“
– Trong tài liệu 40 năm nước CHXHCN Việt Nam (nxb Sự Thật, 1985) ghi: ” Quá trình phát triển của những thế hệ Việt Cổ mà truyền thuyết đã đặt dưới danh hiệu họ Hồng Bàng – từ Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân đến 18 đời Hùng Vương – là quá trình tiến triển từ chế độ quân chủ bộ lạc đến chế độ quân chủ dân tộc sơ kỳ” và “Theo sử cũ thì đến khoảng thế kỷ thứ VII trước Công Nguyên, 15 vùng Việt Cổ đã chịu thừa nhận quyền lực chung của người thủ lãnh bộ Văn Lang, một vùng đồi núi và ruộng nước trung du trải rộng đôi bờ sông Thao, từ chân núi Ba Vì đến chân núi Tam Đảo. Người thủ lãnh ấy đã xưng vua, sử gọi là vua Hùng“. (Pò Khun = thủ lãnh tối cao).
– Theo bộ Lịch Sử Việt Nam (Tập I, nxb Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, 1985) thì “Hùng Vương còn mang hình ảnh tù trưởng hay thủ lĩnh liên minh bộ lạc, nhưng đã có quyền thế tập nhiều đời và tập trung trong tay một số quyền lực nều chưa phải là quyền lực nhà nước đầy đủ, thì ít ra, theo cách nói của Enghen, cũng đã tiêu biểu cho những mầm mống của quyền lực nhà nước (Chống Đuyrinh, sđd, trang 304). Hùng Vương đứng đầu nước Văn Lang, đồng thời là người chỉ huy quân sự và chủ trì các nghi lễ tôn giáo“.
– Cuốn Thời Đại Hùng Vương (sđd, trang 155 và kế tiếp) ghi: “Hiện nay vì không có tư liệu nên chúng ta không biết được chi tiết quá trình thai nghén nhà nước này“. Nhưng lại suy đoán “Có thể nó là kết quả của nhiều phen thử thách đẫm máu, hết chinh phục đến ly khai, rồi lại chinh phục giữa các liên minh. Cũng có thể do yêu cầu chống ngoại hoạn liên tục mà nó tiến thẳng bằng hình thức hòa hợp tự nguyện và hòa bình” và “mối quan hệ giữa chính quyền trung ương và công xã thời Hùng Vương, đại khái là: công xã được tự trị nhưng phải thần phục tuyệt đối nhà nước; mọi nhu cầu của nhà nước (kể cả thời bình lẫn thời chiến) và của tầng lớp thống trị đều chia ra cho các công xã gánh vác; nhà nước chỉ biết có tập thể công xã mà không biết có các thành viên“.
* Xem như vậy, những điều viết trong sách sử về thời đại Hùng Vương cho đến nay phần thường cũng chỉ là phỏng đoán. Người ta chưa đủ dữ kiện khoa học để có câu trả lời dứt khoát cho điều ba và bốn này. Ngay cả những dữ kiện đã có hình như cũng chưa khai thác đúng mức.
8 Mục đích của phần III viết sau đây là muốn góp một phần nhỏ trong việc bổ túc những thiếu sót đó.
III.- Nguồn gốc dân tộc theo khoa học hiện đại
Có năm vấn đề cực kỳ trọng đại, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành lập nhà nước Văn Lang của các vua Hùng nói riêng và vai trò của vùng Đông Nam Á, cái nôi của nhân loại toàn câu nói chung, là:
1.- Vấn đề biển tiến (Địa chất học – Geology).
2.- Những phát minh đầu tiên về đồ đá, đồ đồng (Khảo cổ học – Archaeology).
3.- Thuần hóa lúa nước (Domestication of rice).
4.- Khoa di truyền học (Genetics DNA).
Các nhà sử học Việt Nam gần đây đã khai thác được kết quả của khảo cổ học trong việc viết lại lịch sử với những thành quả hết sức ngoạn mục. Tuy nhiên, bốn vấn đề còn lại chưa được khai thác hay đúng ra chưa khai thác đúng mức.
Nay ta hãy thử đối chiếu, một cách tóm lược, các thành quả khoa học này với kiến thức trong truyền thuyết, trong các văn bản sử học kể trên, ta có thể giải mã một phần những bí ẩn trong truyền thuyết, điều chỉnh lại những điều tưởng là vô lý trong các tài liệu lịch sử, như vậy ta có nhiều hy vọng tiếp cận sự thực lịch sử hơn và có thể vẽ lại vào lúc nào và ở nơi đâu tổ tiên ta đã đặt được nền móng cho một dân tộc quật cường, một giang sơn cẩm tú để lại cho chúng ta như ngày hôm nay?
III- Nguồn gốc dân tộc theo khoa học hiện đại
Có năm vấn đề cực kỳ trọng đại, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành lập nhà nước Văn Lang của các Vua Hùng nói riêng và vai trò của vùng Đông Nam Á, cái nôi của nhân loại toàn cầu, nói chung là:
1- Vấn đề biển tiến (Địa chất học – Geology).
2- Những phát minh đầu tiên về đồ đá, đồ đồng (Khảo cổ học – Archaeology).
3- Thuần hóa lúa nước (Domestication of rice).
4- Phân bố tiếng nói (Ngữ học – Linguistics).
Và gần đây nhất:
5- Khoa di truyền học (Genetics DNA).
Các nhà sử học Việt Nam gần đây đã khai thác được kết quả của khảo cổ học trong việc viết lại lịch sử với những thành quả hết sức ngoạn mục. Tuy nhiên, bốn vấn đề còn lại chưa được khai thác hay đúng ra chưa khai thác đúng mức.
Nay ta hãy thử đối chiếu, một cách tóm lược, các thành quả khoa học này với kiến thức trong truyền thuyết, trong các văn bản sử học kể trên. Ta có thể giải mã một phần những bí ẩn trong truyền thuyết, điều chỉnh lại những điều tưởng là vô lý trong các tài liệu lịch sử. Như vậy ta có nhiều hy vọng tiếp cận sự thực lịch sử hơn và có thể vẽ lại, vào lúc nào và ở nơi đâu tổ tiên ta đã đặt được nền móng cho một dân tộc quật cường, một giang sơn cẩm tú để lại cho chúng ta như ngày nay?
1- Vấn đề biển tiến
Vấn đề biển tiến là vấn đề quan trọng bậc nhất trong việc tìm hiểu văn hóa Đông Nam Á nói chung, và tìm hiểu thời đại Vua Hùng nói riêng.
Ta đã biết rằng đợt biển tiến cuối cùng, sau thời kỳ băng hà Wurm tan, khởi đầu vào khoảng 18.000 năm trước ngày nay. Lúc đó nước biển thấp hơn bây giờ là 130m. Chúng ta cũng biết mỗi năm nước biển tiến trung bình 10mm. Đến khoảng gần 8000 năm trước, mức nước biển tương đương với nước biển ngày nay. Nước biển còn tiến thêm 2000 năm nữa mới ngưng và chỉ bắt đầu lui từ 5500 năm cách ngày nay. Nhờ tiến bộ của khoa học, nay ta được biết biển không phải đã tiến đều đặn hàng năm như vậy mà trong khoảng thời gian kể trên đã có ba lần nước biển tiến đột ngột. Việc đó xảy ra vào 14.000 năm, 11.500 năm và 8000 năm cách ngày nay.
Chính đợt biển tiến cuối cùng này, phối hợp với những cơn động đất dữ dội ở vùng Đông Nam Á đã nhận chìm toàn bộ nền văn minh lớn ở Đông Nam Á thuộc hai vùng đất khảo cổ học gọi là SUNDALAND và NANHAILAND xuống đáy biển. Trong huyền học cũng như kinh điển của các tôn giáo, người ta nói đến nạn đại hồng thủy, chắc là nói đến đợt biển tiến đột ngột này. Có nhà khảo cổ cho rằng Sundaland, đồng bằng châu thổ sông Mekong và sông Chao Phraya là trung tâm của văn hóa Đông Nam Á thời đó và cũng là nguồn gốc của văn minh toàn cầu. Đây là đồng bằng rộng nhất thế giới từ trước đến nay, diện tích gần bằng diện tích toàn bộ Bắc Mỹ Châu ngày nay. (Stephen Oppenheimer, Eden in the East, 1999)
Nhưng bằng vào di tích còn sót lại là hai nền văn hóa Hòa Bình và Đông Sơn, tôi cho rằng Nanhailand, đồng bằng châu thổ sông Hồng, nếu không là nền văn minh cao nhất thì cũng là văn minh đồng thời, ngang bằng với văn minh Sundaland. Đợt biển tiến cuối cùng tiêu hủy toàn bộ văn minh Sundaland va Nanhailand. Những người sống sót di tản đi bốn phương tám hướng mà bộ phận quan trọng nhất đã tiến lên phía Bắc và sang phía Tây.
Sự phối hợp những kết quả của khảo cổ học, ngôn ngữ học, di truyền học, thảo mộc học với việc biển tiến sẽ cho ta biết rõ hậu quả của các nền văn minh này bị nhận chìm dưới biển cả, và từ đấy ta có thể suy đóan chính xác hơn về thời kỳ Vua Hùng dựng nước.
2- Vấn đề thuần hóa cây lúa nước
Ta hãy duyệt lại sự tích hạt lúa, là một di vật dễ bị thời gian và môi trường hủy hoại, và sự thuần hóa cây lúa nước, cái xương sống của nền văn minh Châu Á. Chúng ta đã biết từ sau khi thầy trò giáo sư William Solheim II tìm thấy dấu vết của hạt lúa tại vùng Non Nok Tha, phía Bắc Thái Lan, hạt lúa có niên đại cổ hơn giống lúa ở Trung Hoa hay Ấn Độ cả ngàn năm, thì cái tư tưởng cổ điển cho Trung Hoa là quê hương của lúa nước đã bắt đầu lung lay.
Nhiều học giả, trong đó có P. Bellwood, đã cổ vũ cho thuyết quê hương lúa nước phải ở vùng khí hậu nhiệt đới từ Đông Dương xuống Mã Lai, Miến Điện mới là thích hợp. (Peter Bellwood: “The prime “home” the most likely of rice – where climatically, the least manipulation is required to grow it – are in tropical Indo-China, down to the Malay border Burma, Bangladesh and the extreme South Coast of China” – Prehistory of the Indo-Malaysian Archipelago). Nhưng phải đợi đến nhà khảo cổ người Thái, giáo sư Surin Pookajorn, tìm được những hạt lúa có ở hang Sakai-cave, có niên đại C14 đến 9260 – 7620 năm cách ngày nay thì vấn đề mới coi như được giải quyết dứt khoát.
Hạt lúa ở hang Sakai-cave đã nói lên sự thật là cư dân Đông Nam Á đã biết thuần hóa lúa nước từ trước khi có đợt biển tiến thứ ba (8000 năm trước), chứng tỏ ngay từ thời đó, họ đã có một nền văn minh khá cao. Nhưng biển tiến như một nạn hồng thủy đã nhận chìm nền văn minh này, không còn để lại dấu vết. May mà những người sống sót đã mang theo được vào các hang động tạm trú ít thực phẩm nên đến nay ta mới tìm ra được những hạt lúa này. Cùng với những hạt lúa, họ còn mang được những dụng cụ khác và nhất là kiến thức theo mình di tản lên miền Bắc, qua miền Tây xây dựng nên hai nền văn minh lớn của nhân loại Đông Phương là Trung Hoa và Ấn Độ sau này. Giáo sư Oppenheimer trong tác phẩm Eden in the East đã phải viết:”Nay chúng ta có một hình ảnh mới, lạ lùng là: thay vì cái mô thức cho Trung Hoa là nơi phát sinh kỹ thuật trồng lúa nước, ta thấy chính giống người nói tiếng Nam Á ở Đông Dương, thường bị coi là giống Man Di, lại dạy cho người Trung Hoa kỹ thuật thuần hóa lúa nước – Instead of the sinocentric model with the Chinese inventing rice cultivation, we have Austro-Asiatic speaking “Southern Barbarians” from Indo-China teaching the know-how about rice to the Chinese“. (sđd, trang 71-72).
Chính những học giả danh tiếng nhất trên hoàn cầu như W. Solhiem II, Joyce While, Charles Higham, P. Bellwood… đã trả lại vinh dự cho tổ tiên ta và gỡ bỏ được cái nỗi oan khiên mà giới sử học trước kia mê lầm về những sách ngụy tạo của Trung Hoa, đã cho là nhờ Thái Thú Nhâm Diên (khoảng 2000 năm trước) của Tàu sang dạy, dân ta mới biết cày cấy lấy gạo mà ăn! (Việt Nam Sử Lược,Trần Trọng Kim).
Nhưng không phải chỉ có lúa gạo. Bằng chứng về ngôn ngữ học, di truyền và kỹ thuật của người Đông Nam Á, nơi miền đất bị nhận chìm dưới biển cả, mang theo họ khi di tản lên phía Bắc, sang phía Tây còn có nhiều điều quan trọng hơn như được trình bày dưới đây.
3- Vấn đề ngôn ngữ
Từ hơn một thế kỷ trước, nhà bác học Charles Darwin đã nhận thấy sự liên hệ giữa ngôn ngữ và di truyền gắn bó chặt chẽ với nhau như hai mặt của cùng một vấn đề. Trong The Descent of Man ông viết:”Nếu chúng ta có được một bảng phả hệ hoàn chỉnh cho loài người, bảng phả hệ sắp xếp các chủng tộc, thì đó có thể là bảng phân loại tốt nhất cho các ngôn ngữ khác nhau đang được xử dụng trên khắp địa cầu, và nếu mọi ngôn ngữ đã biến mất hay mọi thổ ngữ đang biến đổi một cách chậm chạp cũng được bao gồm trong bảng phân loại này. Một sự sắp xếp như vậy có thể là việc duy nhất có thể thực hiện được”.
Mặt khác như chúng ta đã biết tiếng nói và chữ viết của người Cổ Việt có bốn thứ ngôn ngữ chính được lưu hành ở Đông Nam Á là Nam Đảo (Austronesian), Nam Á (Austro-Asiatic), Tây Thái (Tai-Kadai) và Hán Tạng (Sino-Tibetan). Cả bốn thứ tiếng này ngày nay đều được các cộng đồng dân tộc xử dụng ở Việt Nam tại nhiều vùng khác nhau, mà Nam Á là tiếng chính được dùng nhiều nhất.
Một câu hỏi cần được đặt ra là vậy ngày xưa khi Vua Hùng mới dựng nước, người Việt thời ấy nói tiếng gì? Và tiếng này có nguồn gốc từ đâu lại? Ta đã biết, muốn tìm hiểu nguồn gốc dân tộc và sự tiến triển của nó thì sau di truyền, việc tìm hiểu nguồn gốc ngôn ngữ dân tộc đó xử dụng là điều quan trọng nhất. Như trên đã nói, ngôn ngữ được tổ tiên ta xử dụng và ngày nay chúng ta vẫn còn đang xử dụng, tuy âm tiết, cấu kết đã khác đi nhiều, là tiếng Nam Á. Trước kia, các tác giả ngữ học cổ điển, cũng như nhân chủng học cổ điển, chủ trương các ngôn ngữ Đông Nam Á đều phát xuất ở vùng cao thuộc dẫy Hi Mã Lạp Sơn hay cao nguyên Pamir, ngọn nguồn các con sông lớn Hoàng Hà, Dương Tử, Hồng Hà, Cửu Long, Salween… Dân nói các thứ tiếng đó xuôi theo dòng sông về các hạ lưu, ven biển. Tiếng Nam Á tất nhiên cũng nằm trong thuyết lý này. Nhà ngữ học, giáo sư Robert Blust có thể coi là người đầu tiên đã chủ trương thuyết đó. Người nói tiếng Nam Á xuôi theo các dòng sông Hồng Hà, Mekong về phía Nam. Người nói tiếng Nam Đảo xuôi theo Dương Tử về phía Đông, rồi từ đó qua đảo Đài Loan và lan truyền ra các hải đảo Nam Thái Bình Dương. Thuyết Nam Đảo này một thời đã được các nhà khảo cổ học Peter Bellwood tán thành và xiển dương. Tuy nhiên, những học giả và nhà ngữ học chuyên nghiên cứu về Đông Nam Á khác đã không đồng ý với thuyết này.
– William Meacham cho rằng Nam Á là ngôn ngữ phát xuất từ đâu đó biên giới Nam Trung Hoa và Việt Nam ngày nay và Nam Trung Hoa cũng như Việt Nam là vùng đất nói nhiều thứ tiếng (Polygot): Austro-Asiatic, Tai-Kadai, Hmong,…
– Charles Higham nói rõ hơn tiếng đó bắt đầu từ Văn Hóa Hòa Bình ở Việt Nam khoảng từ 13.000 năm trước phù hợp với hình thể con người Nam Á và được xử dụng liên tục cho đến ngày nay.
– W. Solheim II có một cái nhìn bao quát hơn khi ông chủ trương cả Austro-Asiatic và Austronesian đều xuất phát ở Đông Nam Á từ thời nước biển chưa tiến khi Đông Nam Á còn bao gồm cả miền đồng bằng rộng ngang với toàn thể Bắc Mỹ ngày nay là Sundaland. Hai ngôn ngữ này xưa cùng một gốc, đó là tiếng Austric. Khi biển tiến phân chia Đông Nam Á thành hai vùng riêng biệt, vùng đất liền và vùng hải đảo, thì dân ở hải đảo đa số nói tiếng Nam Đảo (Austronesian) trong khi dân ở đất liền đa số nói tiếng Nam Á (Austro-Asiatic).
– Rõ rệt nhất là nhà ngữ học Johana Nichols, tác giả quyển ngữ học nổi tiếng Linguistic Diversity in Space and Times, chủ trương ngược hẳn với Robert Blust, cho rằng loài người Hiện Đại (Homo Sapiens-Sapiens), từ Đông Phi tiến dần đến Đông Nam Á, đã trải qua một cuộc phân hóa lớn. Từ Đông Nam Á họ đi xâm chiếm các hải đảo Thái Bình Dương và Tân Thế Giới. Ngôn ngữ của họ là tiếng Nam Á cũng phát triển theo các dòng sông lớn, nhưng ngược hẳn lại với quan niệm cổ điển do R. Blust chu trương. Nó từ vùng biển tiến lên phía Hi Mã Lạp Sơn chứ khộng phải từ vùng cao nguyên xuống phía biển. “It still uses the big rivers as language conduct, but the direction of dipersal is the exact reverse of the Himalayan centrifugal radiation hypothesis” – (Eden in the East, sddd, trang 138-139).
Tác giả quyển Địa Đàng Tại Phương Đông thiên về ý kiến của William Solheim II và J. Nichols, cho rằng Đông Nam Á, quê hương của tiếng Nam Á, là vùng đất Sundaland nay đã bị chìm dưới biển cả. Lý do ông chủ trương như vậy căn cứ vào di truyền học (mà ông vốn là một bác sĩ có thẩm quyền) và tiếng Nam Á đã theo con người Sundaland sống sót sau đợt biển tiến năm 8000 di tản theo eo biển Malacca lên vùng thượng nguồn sông Salween và sang Ấn Độ, đến tận vùng Mesopotamia. “A number of other unique genetic markers of the globin genes indicate East-to-Wset flow through India and on to Mesopotamia” và “Austro-Asiatic are spoken by most Vietnameses and Cambodians, Laotians, Mons and a scattered trail of isolated group round Thailand, Burma, Bangladesh, and through to the Mundaic tribes of central and east India. Where, when and how they came to be split up geographically like this are questions that may hold a key to the Southeast Asian farming revolution” (Eden in the East, sđd, trang 130 và trang 478-479).
Tôi đồng ý với Solheim, Nichols, Opperheimer nhưng muốn nhấn mạnh về cội nguồn tiếng Nam Á, cả tiếng Nam Đảo và tiếng Ta-Kadai nữa, gọi chung là tiếng Austric, Tiếng nói của người Hòa Bình, bắt nguồn ở vùng đất nay đã chìm ở dưới biển mà phần còn lại nay là đất Hòa Bình và Bắc phần Việt Nam. Do đó tôi chủ trương trung tâm điểm của văn minh này nên thiên lên phía Bắc vùng lưu vực sông Hồng (cũ) hơn là vùng giữa Việt Nam và các đảo Nam Dương ngày nay – bởi những dấu ấn văn hóa họ còn để lại gần đó (Văn Hóa Hòa Bình), hay hậu duệ của họ đã tạo ra ngay sau ngày nước rút (Văn Hóa Đông Sơn) – và bởi địa bàn rộng lớn của cư dân nói tiếng Nam Á. Tiếp cận vùng này là cả khối dân phía Nam sông Dương Tử và lưu vực sông Tây Giang, sông Hồng. Nhưng bất luận trung tâm của nền văn hóa Đông Nam Á nằm ở đâu, rõ rệt là Vua Hùng và các cư dân Văn Lang đã nói tiếng Nam Á. Vua Hùng chỉ dựng nước Văn Lang sau vụ thiên tai nước biển dâng và động đất khủng khiếp 8000 năm trước sau khi biển bắt đầu rút vào 5500 năm trước ngày nay, khi dân tản mác khắp nơi lại qui tụ về miền quê cũ là đồng bằng sông Hồng. Những cư dân này có những khác biệt về nhiều phương diện vì từ những nơi khác nhau tụ về, nhưng khác biệt có tính cách đại đồng tiểu dị vì dù sao cũng là người cùng một gốc. Chính những khác biệt này và sự cần đối phó với vô vàn những khó khăn trong thời mới dựng nước sau sự tàn phá khủng khiếp của thiên tai đã là nhu cầu và là lý do cho sự thành lập nhà nước Văn Lang vậy.
Có cần nói thêm rằng, ở Á Đông chỉ có một tiếng nói không bắt nguồn từ nền văn minh đã bị nhận chìm ở Đông Nam Á, đó là tiếng Sino-Tibetan mà tuyệt đại đa số người Trung Hoa ngày nay đang nói. Nguồn gốc của tiếng này khởi từ thượng lưu sông Hoàng Hà, lưu hành trong mấy tỉnh sơn Tây, Thiểm Tây. Nhờ áp lực của chính quyền, nó theo sự bành trướng của nhà Tần, nhà Hán lan dần ra khắp cõi Á Đông. Cho đến hiện nay, những dân ở Đài Loan, ở Singapore, Hương Cảng, trong nhà vẫn còn nói với nhau bằng tiếng bản xứ, thường là tiếng Quảng Đông, nhưng ra đường bắt buộc phải nói tiếng Phổ Thông, tức Sino-Tibetan. Nếu vi phạm có thể bị phạt.
4- Vấn đề di truyền học
Ở đoạn trên, chúng ta đã nói đến sự liên hệ khắng khít giữa di truyền và ngôn