Những dấu hiệu sụp đổ của các triều đại phong kiến Việt Nam
Hoa Anh Đào Nhìn vào xuyên suốt lịch sử nước ta, các triều đại phong kiến thay nhau cầm quyền, thịnh suy mỗi thời mỗi khác tuy nhiên một đặc điểm chung là không một bộ máy cầm quyền nào của chế độ phong kiến có thể duy trì sự thống trị của mình mãi mãi được, dù đã tìm đủ mọi phương ...
Hoa Anh Đào
Nhìn vào xuyên suốt lịch sử nước ta, các triều đại phong kiến thay nhau cầm quyền, thịnh suy mỗi thời mỗi khác tuy nhiên một đặc điểm chung là không một bộ máy cầm quyền nào của chế độ phong kiến có thể duy trì sự thống trị của mình mãi mãi được, dù đã tìm đủ mọi phương cách và thủ đoạn để duy trì quyền lực tối cao của dòng họ mình. Bởi sau quá trình phát triển đến đỉnh cao, nước nhà thịnh vượng thì các triều đại phong kiến ấy nhanh chóng thoái trào và đi đến con đường sụp đổ.
Chế độ phong kiến du nhập trong quá trình cai trị của các triều đại phong kiến Trung Quốc trên đất nước ta hơn một ngàn năm. Việt Nam vốn là một nước nhỏ. Cái mạnh của văn hoá Việt Nam không phải ở chỗ đã khởi xướng, phát minh mà là ở khả năng thích ứng và biến hoá. Chế độ phong kiến Việt Nam với thiết chế quân chủ tập quyền là một mô hình ngoại nhập từ Trung Hoa, với nền văn hoá Đông Á, dưới hình thức cưỡng bức và tự nguyện. Mặt khác, chế độ đó đã được chỉnh sửa, đẽo gọt, thu nhỏ kích cỡ cho phù hợp với những điều kiện cụ thể, đặc thù của lịch sử, xã hội Việt Nam, vốn có một cơ tầng văn hoá Đông Nam Á. Đó là một hạt giống ngoại sinh, được gieo trồng và đơm hoa kết trái trên một mảnh đất và trong một khí hậu nội sinh.
Đến khi Khúc Thừa Dụ giành được quyền tự chủ vào năm 905 thì chế độ phong kiến vẫn tiếp tục tồn tại trong cơ chế ở cả thượng tầng kiến trúc và hạ tầng cơ sơ. Đến thời Lý, Trần chế độ phong kiến đã về cơ bản đã hình thành. Qua thời Lê sơ, nó được xác lập chủ đạo trong toàn bộ đời sống kinh tế và tiếp tục phát triển ở các giai đoạn sau.
Về cơ bản, nhà nước phong kiến bảo vệ cho chế độ của mình thông qua việc bảo vệ quyền lợi cho sự phát triển của ruộng đất tư. Xã hội loài người vốn dĩ đi theo quy luật của nó và không ai có thể đảo lộn những quy luật này được, quy luật về ruộng đất cũng vậy, đi từ công hữu đến tư hữu. Hay nói cách khác, ruộng đất ở nước ta từ sở hữu công thông qua sự quản lý của bộ máy làng xã dần dần đến sở hữu tư của giai cấp địa chủ. Cùng với bộ máy chính quyền phong kiến dần dần được hoàn thiện, thì chính trong sự thay đổi về cơ cấu ruộng đất ấy, chế độ phong kiến dần dần được hình thành và xác lập ở nước ta. Bộ máy nhà nước của chế độ phong kiến bảo vệ quyền lợi của giai cấp địa chủ. Ruộng đất tư không bị đánh thuế và số lượng nó ngày càng được mở rộng. Chỉ trừ một trường hợp đặc biệt dưới thời chúa Trịnh Tạc đã ban hành chính sách đánh thuế vào ruộng đất tư. Tuy nhiên đây không phải là một sự cải cách được vạch sẳn mà là do tình cảnh túng thiếu về mặt ngân sách, chúa Trịnh phải ban hành chính sách trên. Giai cấp địa chủ là đại diện cho tầng lớp thống trị lúc bấy giờ được nhà nước thông qua pháp luật bảo vệ quyền lợi cho họ. Ông vua trong chế độ phong kiến được xem là đại địa chủ lớn nhất trong cả nước. Vua là người có quyền lực tối cao, ban hành luật pháp và cũng là người xét xử các vụ án. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, nhà vua là người nắm trong tay ba quyền cơ bản là hành pháp, tư pháp và lập pháp. Đây là mầm mống cho sự bất ổn của xã hội về sau. Vì trong cơ chế đó, rất dễ dàng nảy sinh tình trạng quan liêu, tham nhũng, độc quyền và độc đoán, trong bối cảnh bộ máy nhà nước trung ương suy yếu không đủ sức trấn áp các thế lực ở địa phương. Hoặc như, các quan lại nịnh thần kết bè kết phái mặc sức thao tục quyền lực. Bộ máy ấy bị thối rửa từ trung ương cho đến địa phương. Và hậu quả của nó là nền kinh tế bị điều hành yếu kém, năng suất lao động không cao, mất mùa đói kém. Bên cạnh đó các loại thuế phí ngày một tăng cao, đời sống nhân dân rơi vào cơ cực lầm than.
Như vậy, sự sụp đổ của các triều đại phong kiến tuân theo quy luật lịch sử của nó. Nhưng trước khi triều đại này thay triều đại khác thường có những dấu hiện chung nhất cho thấy nó đang “hấp hối” đang bên bờ vực suy vong. Vậy những dấu hiệu đó như thế nào? Được biểu hiện ra sao? Trong bài viết lần này, chúng tôi xin được đóng góp một vài suy nghĩ của mình để chỉ ra quy luật trên. Về không gian và thời gian làm đối tượng nghiên cứu của bài viết, chúng tôi tập trung nghiên cứu về chế độ phong kiến Lê – Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Bởi đây là giai đoạn đặc rất đặc biệt trong lịch sử dân tộc. Hai chính quyền song song tồn tại trên đất nước khi chế độ phong kiến tiếp tục phát triển đến đỉnh cao. Dù có sự chia cắt về mặt lãnh thổ, chiến tranh triền miền. Đó chỉ là sự khủng hoảng ở thượng tầng kiến trúc của nhà nước phong kiến. Về hạ tầng cơ sở, chế độ phong kiến vẫn tồn tại và phát triển. Vì vậy, khi nghiên cứu về những dấu hiệu của sự sụp đổ. Chúng tôi chọn chế độ phong kiến Lê Trịnh và Chúa Nguyễn để làm không gian nghiên cứu trong bài viết của mình. Dù có sự khác nhau giữa Đàng Trong và Đàng Ngoài trong thể chế. Nhưng nó không thể hiện cho sự phân quyền của chế độ phong kiến, quyền lực tập trung vào phủ chúa Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Về hình thức đó là chế độ quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Nó khác với sự phân quyền ở châu Âu thời trung đại, khi các lãnh chúa đứng đầu lãnh địa manh mún, có quân đội, pháp luật, tiền tệ riêng. Đàng Ngoài – Đàng Trong là một hệ quả tất yếu của tình trạng mâu thuẫn và tranh giành quyền lực giữa những tập đoàn phong kiến vốn đã muốn bức phá khỏi thế ràng buộc và khuôn khổ chật hẹp của chế độ Nho giáo đã định sẵn những nền nếp và kỷ cương theo chuẩn mực của Thánh hiền. Chính con đường cát cứ của Đàng Trong thế kỷ XVII, trong khi đối phó với chiến tranh ở Đàng Ngoài đã buộc phải mở mang và xây dựng những vùng đất mới thành nơi đứng chân và dấy nghiệp.
Nhìn chung Đàng Trong dưới sự lãnh đạo của các chúa Nguyễn chỉ hơn 100 năm (từ nửa cuối thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XVIII) đã mô phỏng lối tổ chức đời sống kinh tế – xã hội phong kiến cổ truyền ở Đàng Ngoài, để nhanh chóng xây dựng nên một xã hội phong kiến mới hoàn chỉnh cả về kiến trúc thượng tầng lẫn cơ sở hạ tầng.
Dù thời gian ra đời khác nhau, nhưng cả hai vương triều Trịnh, Nguyễn đều có sự sụp đổ khá gần nhau và đều bị quân Tây Sơn tiêu diệt. Nhà Nguyễn mất Phú Xuân vào năm 1775 sau đó bị tiêu diệt gần hết ở Gia Định, chỉ duy nhất Nguyễn Ánh may mắn sống sót. Họ Trịnh mất quyền uy không lâu sau đó. Năm 1786, Tây Sơn đánh ra Bắc, họ Trịnh nhanh chóng bị tiêu diệt. Trả lại quyền lực cho nhà Lê sau gần 3 thế kỷ tiếm quyền.
Sau khi nghiên cứu về những đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội nước ta ở trong hai thế kỷ XVII và XVIII chúng tôi thấy được những dấu hiệu sụp đổ của hai dòng họ này. Đó cũng là dấu hiệu chung trước khi một chế độ phong kiến trước đó sụp đổ. Những dấu hiệu đó là:
- Sự thoái hóa của giai cấp thống trị
Mâu thuẫn giai cấp dưới chế độ xã hội phong kiến được thể hiện thành mâu thuẫn giữa dòng họ cầm quyền với nhân dân. Sở dĩ như vậy vì chế độ xã hội phong kiến thực hiện cơ chế quyền lực theo công thức cha truyền, con nối. Tổng kết dân gian Việt nam đã thể hiện cơ chế này trong câu ca dao “con vua thì lại làm vua, con sãi ở chùa lại quét lá đa”. Do đó, việc khắc phục mâu thuẫn giai cấp dưới chế độ xã hội phong kiến được thực hiện theo xu thế thay thế dòng họ trị vì đã bị quyền lực làm thoái hóa bởi dòng họ mới tôn trọng quyền lợi của dân tộc.
Đàng Ngoài
Trong lúc đó, bộ máy quan liêu từ trung ương đến địa phương ngày càng hủ hóa, đồi trụy. Ở triều đình và phủ chúa, quan lại các cấp kết thành bè đảng, mưu lợi riêng, điển hình là hoạn quan Hoàng Công Phụ và phe cánh. Bọn này “chuyên chính lộng quyền, trong triều ai cũng nơm nớp lo sợ khó tự bảo toàn thân mình”. Phần lớn quan lại thời bấy giờ đều xuất thân từ chế độ mua quan bán tước. Trong khoảng thời gian 1736 – 1740, Trịnh Giang 4 lần quy định thể lệ bán quan tước, cho phép quan lại được nộp tiền để thăng chức và nhà giàu được nộp tiền để bổ làm quan. Năm 1750, họ Trịnh đặt “tiền thông kinh”, hễ nộp 3 quan tiền thì được miễn khảo hạch và coi như trúng sinh đồ. Bấy giờ nhân dân mỉa mai gọi bọn này là “sinh đồ ba quan”. Quan trường trở thành nơi vơ vét làm giàu, làm quan thành một nghề kinh doanh bóc lột. Nhà nước còn phân biệt khả năng bóc lột làm giàu ở từng loại địa phương mà quy định giá tiền mua quan bán tước khác nhau. Chức quan ở những địa phương dễ làm giàu thì gọi là “phì quan”. Tệ nạn tham ô hối lộ trở thành công khai và được nhà nước thừa nhận.
Đàng Trong
Một khi địa vị thống trị – đã được củng cố, giai cấp thống trị ở Đàng Trong ngày càng sống xa hoa trụy lạc do của cải tích lũy được rất nhiều trong quá trình bóc lột nông dân. Xu hướng sa đọa đã thể hiện rõ ngay từ đầu thế kỷ XVIII và đến đời Nguyễn Phúc Khoát (1738 – 1765) thì sự trụy lạc của quý tộc họ Nguyễn đã lên đến cực độ. Ở Phú Xuân, “cung điện nguy nga rực rỡ…”, dinh thự quý tộc “la liệt hai bên bờ thượng lưu sông Phú Xuân và con sông nhỏ ở Phủ Cam”. Trong những lâu đài, dinh thự cực kỳ tráng lệ đó, tầng lớp thống trị đua nhau ăn chơi trụy lạc, yến tiệc, ca hát liên miên.
Chế độ chính trị thối nát của họ Nguyễn cùng với bộ máy quan liêu phình ra một cách khủng khiếp từ những năm 60 của thế kỷ XVIII làm cho sức sản xuất xã hội bị kìm hãm, đời sống nhân dân lầm than cơ cực, thêm vào đó là nạn mất mùa, đói kém diễn ra liên tiếp. Mùa đông năm 1774, vùng Thuận Hóa lâm vào một nạn đói lớn, người chết đói đầy đường. Vùng Gia Định là vựa thóc của Đàng Trong, từ năm 1768 trở đi giá thóc cũng cao vọt.
Từ nữa sau thế kỷ XVIII, những mâu thuẫn chất chứa trong xã hội Đàng Trong ngày một gay gắt và bùng nổ thành những cuộc nổi dậy. Bên cạnh mâu thuẫn chủ yếu giữa nông dân với địa chủ, các tầng lớp thương nhân, thợ thủ công và các dân tộc thiểu số cũng bất bình sâu sắc với chính quyền họ Nguyễn.
Chúa Nguyễn cuối cùng ở Đàng Trong là Nguyễn Phúc Thuần lên ngôi mới 12 tuổi, quyền hành thực tế bị Trương Phúc Loan thâu tóm hết. Trong nửa thế kỷ XVIII, hệ thống quan liêu cồng kềnh của họ Nguyễn trở thành bộ máy ăn bám thối nát đè nặng lên cuộc sống của tầng lớp bị trị. Chúng sống cuộc đời cực kỳ xa hoa, “từ quan to đến quan nhỏ nhà cửa chạm trổ, trướng vóc màn the, đồ dùng toàn bằng đồng, bằng sứ, bàn ghế bằng gỗ đàn, gỗ trắc, yên ngựa dây cương đều nạm vàng ngọc, áo quần là lượt, mền hoa chiếu mây, lấy sự phú quý phong lưu để khoa trương lẫn nhau. Họ coi vàng bạc như cát, thóc gạo như bùn, hoang phí vô cùng”. Tiêu biểu cho đời sống xa hoa vô độ của quý tộc, quan lại là quyền thần Trương Phúc Loan. Loan nắm mọi quyền hành, tự xưng Quốc phó, hàng năm thu lợi 4 – 5 vạn quan tiền, nổi tiếng về tham ô, ăn của đút và mua quỵt hàng của thương nhân nước ngoài, “vàng bạc, châu báu, gấm vóc chứa đầy nhà, nô bộc trâu ngựa không biết bao nhiêu mà kể”. Mỗi lần bị lụt, Loan đem vàng bạc bày lên chiếu mây để phơi nắng “sáng chói cả một góc sân”, các tầng lớp nhân dân ở Đàng Trong vô cùng căm giận, cho nên, đến năm 1775, khi Loan bị bắt nộp cho quân Trịnh thì “quân và dân Thuận Hóa vui mừng kéo đến cướp phá nhà hắn và chửi rủa thậm tệ”.
Chế độ chính trị thối nát của họ Nguyễn cùng với bộ máy quan liêu phình ra một cách khủng khiếp từ những năm 60 của thế kỷ XVIII làm cho sức sản xuất xã hội bị kìm hãm, đời sống nhân dân lầm than cơ cực, thêm vào đó là nạn mất mùa, đói kém diễn ra liên tiếp.
- Đời sống nhân dân cơ cực, các loại thuế phí tăng cao.
Thuế ra đời – phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà nước. Thuế là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại và phát triển của Nhà nước. Hệ thống và chính sách thuế của Nhà nước được xây dựng trên cơ sở những điều kiện kinh tế- chính trị- xã hội cụ thể trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Ngay từ khi Nhà nước ra đời thì thuế cũng xuất hiện, thuế là sản phẩm tất yếu từ sự xuất hiện hệ thống bộ máy Nhà nước, ngược lại thuế là công cụ đảm bảo cung cấp phương tiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại và hoạt động của hệ thống bộ máy Nhà nước.
Nhìn lại chế độ thuế khoá Việt nam đến giữa thế kỷ thứ XIX; qua nhiều triều đại phong kiến, có thể thấy nổi lên một số vấn đề chủ yếu sau đây:
Nguồn thu của các triều đại phong kiến Việt nam rất phong phú, đa dạng nhưng sự phân phối địa tô phong kiến, gắn với chế độ chiếm hữu ruộng đất luôn chiếm vai trò quan trọng.
Đàng Ngoài
Chế độ tô thuế là một phần gánh nặng trong đời sống người nông dân Đàng Ngoài. Những người được ghi vào sổ đinh phải gánh vác mọi nghĩa vụ, sưu dịch đối với nhà nước.
Theo quy định năm 1625, trừ những quan lại, học sinh Quốc Tử Giám, lão nhiêu, đàn bà góa, còn thì phải nộp thuế thân.
Năm 1664, theo phép bình lệ thì thuế thân như sau: dân đinh các xã 1 quan 8 tiền, dân đinh các trang trại 1 quan, dân đinh các sở 1 quan 2 tiền. Ngoài ra, dân đinh phải chung nhau nộp một số tiền lễ cho nhà nước (7 lễ: thượng tiến, cung tiến, thường tân, tiết liệu, kỵ thời, sinh nhật, chính đàn), quy định mỗi dân đinh phải nộp 2 tiền và 4 cáp rưỡi gạo.
Về thuế ruộng đất, sau nhiều lần thay đổi, năm 1722, tô ruộng được quy định rõ: Ruộng công làng xã 1 vụ hay 2 vụ đều nộp 8 tiền/mẫu, ruộng tư 1 vụ hay 2 vụ đều nộp 2-3 tiền/mẫu. Đến năm 1728, quy định lại: Ruộng công, tư đều chia thành 3 loại để nộp thuế. Ruộng công hạng nhất 1 quan/ mẫu; hạng nhì 8 tiền; hạng ba 6 tiền. Ruộng tư hạng nhất 3 tiền, hạng hai 2 tiền, hạng ba 1 tiền/ mẫu.
Ngoài ra các loại ruộng núi, ruộng bãi, ruộng cói, ruộng nhà chùa…đều phải nộp thuế nhiều hay ít khác nhau.
Thiên tai, đói kém liên miên – Nạn lưu vong phổ biến
Sang thế kỷ XVIII, chính quyền họ Trịnh tỏ ra hoàn toàn bất lực trong việc xây dựng và quản lí các công trình thủy lợi – một chức năng quan trọng của nhà nước quân chủ tập quyền. Các chức quan hà đê, quan khuyến nông tuy vẫn tồn tại, nhưng bọn này lợi dụng việc đắp đê , sửa đường để tham ô vơ vét hơn là bảo vệ và tu bổ đê điều. Trong thế kỷ XVIII, nạn đê vỡ, hạn hán, lũ lụt xảy ra thường xuyên, uy hiếp nền sản xuất nông nghiệp.
Thực ra tình trạng thiên tai mất mùa, đói kém đã xảy ra khá phổ biến từ cuối thế kỷ XVIII. Các năm 1679, 1681, 1684, 1687, 1695…là những năm hạn lụt, mất mùa lớn. Sang thế kỷ XVIII, thiên tai cơ cận càng xảy ra triền miên và trầm trọng hơn. Năm 1702, đê sông Mã, sông Chu ở Thanh Hóa bị vỡ, mùa màng mất sạch, nhân dân bị đói lớn. Sang năm 1703, nạn đói lan ra cả 4 nội trấn ở đồng bằng và khu vực kinh thành, làm cho giá lúa tăng cao, một tiền chỉ đong được 4 bát thóc. Những năm 1712, 1713 một trận đói lớn lan tràn khắp Đàng Ngoài, các đê sông lớn bị vỡ nhiều nơi, bấy giờ “nhân gian phải ăn vỏ cây, rau cỏ, thây chết đói đầy đường, thôn xóm tiêu điều…”. Năm 1726, 1727 nhân dân Thanh Nghệ bị đói lớn. Trận đói kéo dài đến năm 1728 và lan ra bốn trấn đồng bằng.
Đặc biệt nghiêm trọng là nạn đói năm 1741, bắt đầu ở trấn Hải Dương rồi lan dần khắp Đàng Ngoài. Sử cũ chép: “Dân bỏ cả cày cấy, thóc lúa giành dụm trong xóm làng đều hết sạch, duy có Sơn Nam còn hơi khá. Dân lưu vong bồng bế dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, 100 đồng tiền không đổi được một bữa ăn. Dân phần nhiều sống nhờ rau cỏ, đến nỗi ăn cả chuột rắn. Người chết đói ngổn ngang, người sống sót không còn được 1 phần 10. Làng nào có tiếng là trù mật cũng chỉ còn độ năm ba hộ mà thôi”. Riêng ở Sơn Nam, Nghệ An tuy “hơi được mùa” nhưng họ Trịnh trưng mua, vơ vét lúa gạo nên nhân dân cũng đói khổ. Thóc gạo khan hiếm đến nỗi có nơi bán một mẫu ruộng chỉ đủ mua một cái bánh nướng, có người tiền của đầy nhà cũng phải chết đói. Ở vùng Hải Dương “ruộng đất đã hóa thành ra rừng rậm, những giống gấu, chó, lợn lòi sinh từ ngoài đồng. Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột đồng mà ăn”
Hàng vạn nông dân đã chết qua những nạn đói kéo dài và khủng khiếp ấy. Năm 1737, trấn Sơn Tây bị đói và dịch, số người sống sót chỉ còn lại 1đến 2 phần 10. Riêng ở khu kinh thành số người chết đói bị chôn vùi hai bên đường quá nhiều. Trịnh Cương phải sai lấy đất công lập hai khu mộ địa, một khu rộng hơn 17 mẫu ở xã Dịch Vọng và một khu rộng hơn 14 mẫu ở xã Hoàng Mai để chôn những người chết đói, chết dịch ở kinh thành.
Những người sống sót qua các nạn đói, nạn dịch cũng không còn điều kiện sinh sống, phải bỏ xóm làng đồng ruộng đi kiếm ăn khắp nơi tạo thành một tầng lớp nhân dân lưu vong đông đảo và cứ tăng thêm sau mỗi trận đói mới. Năm 1730, có đến 527 hương bị phân tán gần hết. Năm ấy nhà nước phái một lúc 12 viên đại thần về các địa phương chiêu tập dân lưu vong trở về làm ăn nhưng không có kết quả. Năm 1741, nhà nước lại phái quan đi chiêu tập dân lưu vong về khai khẩn ruộng đất bỏ hoang nhưng kết quả cũng không sáng sủa hơn. bấy giờ những làng xã bị phân tán đã lên đến con số 3.691, trong đó có 1.730 làng xã đặc biệt điêu tàn, hoang vắng. Vào khoảng nửa sau thế kỉ XVIII, theo bản điều trần của Ngô Thì Sĩ gửi lên chúa Trịnh thì 4 trấn đồng bằng (thuộc Bắc Bộ ngày nay) có 1076 xã phiêu tán trong số 9668 xã thôn.
Hiện tượng nông dân lưu vong phổ biến là kết quả sự phá sản của kinh tế nông nghiệp nói chung, của nền kinh tế tiểu nông nói riêng, chứng tỏ sức sản xuất nông nghiệp đã bị phá hoại nghiêm trọng. Tình hình đó càng làm cho mâu thuẩn xã hội trở nên gay gắt. Người nông dân chỉ còn một con đường thoát duy nhất là nổi dậy chống lại nhà nước quân chủ chuyên chế mà đại biểu là triều đình Lê – Trịnh và bộ máy quan liêu tham nhũng, mục nát.
Đàng Trong
Chế độ thuế khóa của họ Nguyễn vốn đã rất phức tạp và nặng nề. Trong thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn lại tăng thêm thuế để thỏa mãn nhu cầu xa xỉ của quý tộc và bộ máy quan liêu to lớn, “hàng năm có trăm thứ thuế mà trưng thu thì phiền phức gian lận, nhân dân thống khổ về nỗi một cổ hai tròng”, hoặc “thuế khóa ở Thuận Hóa, pháp lệnh rất phiền, nhân viên trưng thu đốc thúc rất nhiều nên dân nghèo thường khổ về nỗi phải đóng góp gấp bội…”. Những người có chút ít ruộng đất tư thì ngoài tô thuế nặng nề còn phải đóng rất nhiều khoản tiền khác (tiền cung đốn, tiền nộp thóc vào kho, tiền phên tre, khoán khố, dầu đèn, bao mây…).
Thuế thổ sản thì “có đến hàng trăm hàng ngàn thứ” và “lấy cả đến những sản phẩm vụn vặt”. Mỗi lần xây dựng cung điện, lâu đài nhân dân phải nộp thổ sản của địa phương, coi như một loại thuế, lại còn phải lao dịch, đài tải vật liệu rất khốn đốn.
Thuế khóa phức tạp đòi hỏi chúa Nguyễn phải đặt ra một hệ thống quan thu thuế cồng kềnh, gọi là “bản đường quan”. Năm 1751, tuần phủ Quảng Ngãi Nguyễn Cư Trinh xin bãi bỏ “bản đường quan” để đỡ cho nhân dân cái cảnh “mười con dê mà có đến chín kẻ chăn”.
- Sự lấn lướt của cương hào, ác bá ở địa phương
Khi chính quyền trung ương suy yếu không đủ sức quản lý ở những khu vực xa xôi thì ở địa phương tệ nạn tham nhũng còn trầm trọng hơn nhiều. Ở đây bọn cường hào địa chủ mặc sức đục khoét, hà hiếp nhân dân. Chúng ỷ quyền thế, tự do vu oan giáo họa làm cho đời sống người dân nghèo thường xuyên bị đe dọa. Tình hình này được phản ánh rõ nét trong tờ thông sức của Ngự sử đài năm 1719: “Bọn hương đảng cường hào gian xảo nhiều kế, biến trá trăm đường, lấy vũ đoán làm kế hay, lấy thôn tính làm giàu mình, đè nén người bần cố, khinh miệt kẻ ngu hèn. Lại có bọn điêu toa làm điên đảo phải trái, thay đổi trắng đen, lấy người kiện làm món hàng, lấy đơn kiện làm kế sinh nhai”.
Trong khi quan lại và cường hào địa chủ gây bao tai họa cho nhân dân thì vua chúa trong cung đình quanh năm ăn chơi sa đọa, nay xây dựng chùa chiền, mai sửa sang cung điện, chi phí những món tiền khổng lồ, bắt nhân dân chịu thêm những gánh nặng thuế khóa và lao dịch. Có hàng loạt sự kiện tố cáo đời sống xa hoa quá mức của các chúa Trịnh, đặc biệt là Trịnh Cương và Trịnh Giang.
- Mất lòng tin và sự bất mãn của nhân dân
Đàng Ngoài
Từ cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII, nhiều cuộc nổi dậy lẻ tẻ của nông dân đã nổ ra nhiều nơi ở miền xuôi cũng như miền núi. Năm 1681, đại hạn kéo dài rồi tiếp đến nạn đói, nhân dân huyện Thanh Lâm (trấn Hải Dương) nổi dậy đánh phá các nhà giàu. Thủ lĩnh nghĩa quân tự xưng là Bắc Vương. Năm 1683, nhân dân Lập Thạch (trấn Sơn Tây) nỗi dậy chống quân lính đồn trú.
Trong khoảng vài chục năm đầu thé kỉ XVIII, các cuộc nỗi dậy đã lan rộng và diễn ra liên tiếp. Đáng chú ý là những cuộc nổi dậy ở Hưng Hóa, Tuyên Quang năm 1712, ở Sơn Tây, Kinh Bắc năm 1715, ở Lai châu, Hòa Bình năm 1721.
Từ năm 1737, những cuộc đấu tranh của nông dân đã phát triển thành một phong trào rầm rộ ở hầu khắp Đàng Ngoài. Theo sử cũ, bấy giờ “ trộm cướp nổi lên như ong” đến nổi các địa phương “địch báo không kịp”. Họ Trịnh ra lệnh cho lập đồn hỏa tiêu trên núi, đêm ngày canh gác để kịp thời báo hiệu cho nhau. Mặt khác nhà nước tăng cường lực lượng phòng thủ, thường xuyên cho quân tuần hành những nơi hiểm yếu và tuyển thêm binh lính các trấn để bổ sung vào bộ máy đàn áp. Nhưng tất cả những biện pháp đối phó của họ Trịnh không ngăn chặn nổi phong trào khởi nghĩa của nông dân đang cuồn cuộn dâng lên như nước vỡ bờ.
Trong buổi đầu của phong trào, nổi bật lên hai cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng và của Lê Duy Mật. Năm 1737, nhà sư Nguyễn Dương Hưng tụ tập nghĩa quân đến vài ngàn người, phần lớn là dân lưu vong, nổi dậy ở Sơn Tây rồi lấy núi Tam Đảo (nay thuộc Vĩnh Phú) làm căn cứ. Cuối năm đó cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Dương Hưng bị đàn áp, nhưng sang đầu năn sau (1738) một cuộc nổi dậy to lớn hơn lại bùng lên ở Thanh Hóa do Lê Duy Mật cầm đầu, thu hút đông đảo dân nghèo, kết thành một lực lượng hùng mạnh, buộc họ Trịnh phải đối phó lâu dài.
Từ cuối năm 1739, phong trào nông dân khởi nghĩa ở Đàng Ngoài bước vào giai đoạn cao trào. Hàng loạt cuộc khởi nghĩa lớn bùng lên ở nhiều nơi, tập trung nhất ở vùng Hải Dương, Sơn Nam (Hải Dương, Nam Hà, Ninh Bình, ngày nay) là những trấn bị nạn đói tàn phá dữ dội nhất. Bấy giờ nông dân nghèo đói, lưu vong “ người đeo búa, kẻ vác gậy đi theo, chỗ nhiều có đến hơn vạn, chỗ ít cũng có đến hàng trăm, họ quấy rối làng xóm, vây đánh các ấp, các thành, triều đình không thể nào ngăn cấm được”.
Trên địa bàn Hải Dương, anh em Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ và Vũ Trác Oánh khởi nghĩa ở Ninh Xá, Mộ Trạch. Nguyễn Tuyển vốn là một viên quan nhỏ ở kinh thành, bị ức hiếp và chán ghét cảnh đổ nát, Nguyễn Tuyển từ quan bỏ về quê kêu gọi nhân dân nổi dậy. Nguyễn Tuyển tự xưng là minh chủ, phối hợp với Vũ Trác Oanh (tự xưng là Minh công), nêu khẩu hiệu “phù Lê diệt Trịnh”, cầm đầu phong trào đấu tranh của nông dân vùng Đông Bắc, thanh thế rất mạnh, chấn động cả một phương.
Từ căn cứ Ninh Xá, nghĩa quân Nguyễn Tuyển tiến sang huyện Gia Bình (Kinh Bắc), đánh tan quân Trịnh ở đó, các tướng của triều đình phải bỏ chạy hoặc bị giết tại trận. Nhân đà thắng lợi, Nguyễn Tuyển kéo quân xuống các huyện Thượng Phúc, Phú Xuyên (Hà Tây), nhưng gặp sức chống cự của thủy quân họ Trịnh nên rút về chia đóng ở một số căn cứ trên vùng Hải Dương. Nguyễn Tuyển đóng quân ở Phao Sơn và Ninh Xá (thuộc huyện Chí Linh), Nguyễn Cừ đóng quân ở Đỗ Lâm (thuộc huyên Gia Phúc), “đồn lũy liên tiếp nhau, mỗi người đều có hàng vạn quân”. Thế lực nghĩa quân ngày càng hùng mạnh, lại nhân họ Trịnh tập trung lực lượng đối phó với nghĩa quân Ngân Già (do Vũ Đình Dung cầm đầu), Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ liền kéo quân về uy hiếp thành Thăng Long, sau đó lại rút về các căn cứ cũ, kéo dài cuộc chiến đấu thêm một thời gian nữa.
Đồng thời với hoạt động của nghĩa quân Ninh Xá, ở vùng Sơn Nam cũng xuất hiện nhiều cuộc khởi nghĩa lớn, tiêu biểu là hai cuộc khởi nghĩa của Hoàng Công Chất và Vũ Đình Dung.
Nghĩa quân Hoàng Công Chất có nhiều chiến thuyền, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn ở vùng hạ lưu sông Hồng và nhiều lần đánh lui những cuộc tấn công của quân Trịnh. Sau đó, Hoàng Công Chất chuyển lực lượng lên vùng Tây Bắc, lập căn cứ mới ở Mường Thanh (Điện Biên), chống nhau với họ Trịnh trong một thời gian dài.
Vũ Đình Dung liên kết với các thủ lĩnh Đoàn Văn Chấn và Tú Cao, lập căn cứ ở Ngân Già (Làng Cả), tấn công huyện Chơn Định (Trực Ninh, Nam Hà ngày nay). Quân Trịnh thua to, hàng loạt viên tướng bị nghĩa quân giết chết.
Ở mạn Tây Bắc, nghĩa quân Lê Duy Mật từ căn cứ ở Thanh Hóa phát triển hoạt động ra các huyện thuộc trấn Hưng Hóa và trấn Sơn Tây.
Ở Sơn Tây, hai thủ lĩnh Tế và Bồng cầm đầu một cuộc khởi nghĩa khá lớn. Năm 1740, khởi nghĩa của Tế, Bồng bị thất bại nhưng một tướng của Tế vẫn tiếp tục chiến đấu, phát triển thành một cuộc khởi nghĩa lớn ở vùng Sơn Tây cho đến năm 1751.
Trước sự phát triển mạnh mẽ của phong trào nông dân, họ Trịnh hết sức lúng túng, một mặt gấp rút tăng cường quân lính, mặt khác bàn cách đối phó với từng cuộc khởi nghĩa. Khi phong trào mới bùng lên, Trịnh Giang tổ chức thêm ngạch “mộ binh”, năm 1739 lại đặt thêm ngạch “hương binh”, định dùng lực lượng thanh niên trong xóm chống lại nghĩa quân. Nhưng nông dân đã lợi dụng danh nghĩa “hương binh”, lấy vũ khí của họ Trịnh đánh lại họ Trịnh, buộc Trịnh Giang phải ra lệnh bãi bỏ ngạch “hương binh” và tịch thu hết vũ khí trong dân gian. Năm 1740, Trịnh Doanh lại giải tán nốt ngạch “mộ binh”, chỉ tăng thêm lính thường trực, lập thêm đồn ải ở các nơi hiểm yếu, đặc biệt là tuyển thêm “ưu binh”.
Với lực lượng quân đội được củng cố, Trịnh Doanh mở những cuộc đàn áp đẫm máu, tập trung lực lượng tiêu diệt từng cuộc khởi nghĩa theo kiểu “bẻ đũa từng chiếc”. Trong cao trào năm 1740, các cuộc khởi nghĩa của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ ở Hải Dương và của Vũ Đình Dung ở Sơn Nam là lớn nhất. Trịnh Doanh biết rằng: “Ninh Xá (Nguyễn Tuyển) chưa thể phá ngay được, bây giờ không gì bằng trước hết đánh tan được giặc Ngân Già (Vũ Đình Dung) để cắt đứt sự cứu viện của đảng giặc”.
Kế hoạch của Trịnh Doanh rõ ràng nhằm đánh tỉa từng lực lượng khởi nghĩa, mà mục tiêu trước hết là cuộc khởi nghĩa của Vũ Đình Dung ở Sơn Nam. Sau khi đàn áp xong khởi nghĩa Vũ Đình Dung, Trịnh Doanh cho quân tấn công quyết liệt vào đồn Phao Sơn của nghĩa quân.
Những căn cứ trung tâm của phong trào nông dân ở Hải Dương bị san phẳng, nhiều thủ lĩnh nông dân bị chết hoặc mất tích, nhưng cuộc đấu tranh của nông dân vẫn được duy trì. Từng nhóm nghĩa quân hàng trăm, hàng ngàn người vẫn hoạt động phân tán khắp nơi, đến năm 1741, trên địa bàn Hải Dương lại xuất hiện một cuộc khởi nghĩa to lớn của Nguyễn Hữu Cầu cầm đầu, trở thành mối đe dọa khủng khiếp đồi với cơ đồ họ Trịnh.
Nhìn chung, từ năm 1741, tuy một số cuộc khởi nghĩa đã bị tan rã nhưng phong trào nông dân vẫn tiếp tục dâng cao với những cuộc khởi nghĩa lớn của Nguyễn Danh Phương, Nguyễn Hữu Cầu, Hoàng Công Chất, Lê Duy Mật. Bên cạnh đó, còn có nhiều cuộc khởi nghiã nhỏ diễn ra ở đồng bằng cũng như miền núi.
Đa số các thủ lĩnh nghĩa quân đều thuộc tầng lớp nho sĩ bất mãn hoặc quan lại lớp dưới bị đè nén. Tình hình này phản ánh một đặc điểm của chế độ quân chủ quan liêu ở thời kì suy thoái. Chế độ khoa cử thối nát đã gạt đông đảo sĩ phu chân chính ra khỏi con đường làm quan. Họ trở thành một lớp người thất cơ lỡ vận, trong đó có nhiều người có chí khí, tâm huyết, ấp ủ mối bất bình lớn đối với chế độ họ Trịnh. Họ đã đứng hẳn về phía nông dân và thường có vai trò trong bộ tham mưu các cuộc khởi nghĩa. Một số quan lại lớp dưới bị áp bức, đè nén hoặc bị gạt ra khỏi quan trường, trở về sống trong nông thôn, đồng cảm với nỗi khổ của nông dân, lại có học thức, uy tín và trở thành thủ lĩnh của nhiều cuộc khởi nghĩa.
Xét về mục tiêu đấu tranh của phong trào, các cuộc khởi nghĩa đều đả kích vào toàn bộ chính quyền Lê- Trịnh, từ bộ máy ở trung ương đến quan lại, địa chủ, cường hào ở địa phương, từ việc vây đánh xã trưởng, nhà giàu đến việc vây đánh phủ thành, trấn thành, thậm chí tiến đánh kinh đô. Phong trào đã nêu những khẩu hiệu đấu tranh trực tiếp chống tô thuế nặng nề (“Đinh suất đại vương”), chống sự bóc lột của giai cấp địa chủ (“lấy của nhà giàu chia cho người nghèo, “ Bảo dân đại tướng quân”). Đã lẻ tẻ xuất hiện yêu cầu ruộng đất, tuy còn mờ nhạt, như trong tờ chiếu giả do nông dân thảo ra: “Cấm bọn giàu có, ruộng không được cày, tiền nợ không được hỏi”.
Xét về mặt phát triển lịch sử, phong trào nông dân khởi nghĩa ở Đàng Ngoài có một vị trí và ý nghĩa hết sức to lớn. Phong trào chưa giành được thắng lợi quyết định nhưng đã làm rung chuyển cả xã hội, làm nghiêng ngả toàn bộ nền thống trị của giai cấp thống trị. Phong trào làm lung lay tận gốc rễ cơ đồ vua Lê chúa Trịnh tồn tại trong mấy thế kỉ tạo những điều kiện chín muồi cho phong trào Tây Sơn sau đó.
Những cuộc đấu tranh không mệt mỏi của nông dân thế kỉ XVIII mà ngày nay chúng ta vẫn quen gọi rất xác đáng là “Thế kỉ của nông dân khởi nghĩa” khác nào một ngọn gió lốc cuốn sạch mọi trật tự cố hữu của chế độ quân chủ, cô lập và đẩy nhanh các tập đoàn thống trị thối nát đến miệng hố diệt vong.
Ý nghĩa quan trọng nhất của phong trào nông dân khởi nghĩa thế kỉ XVIII không chỉ ở tinh thần đấu tranh quyết liệt, trực tiếp và không nhượng của nông dân, tấn công như bão táp vào thành lũy đã mục ruỗng của nhà nước quân chủ chuyên chế, mà còn mang rõ rệt ý nghĩa xây dựng những nhân tố mới. Từ ý nghiã to lớn đó, phong trào nông dân thế kỉ XVIII mang đậm nét nội dung và sứ mạng dân tộc. Đó cũng là lí do giải thích bước phát triển của phong trào Tây Sơn sau đó từ một cuộc khởi nghĩa nổ ra trên một vùng nhỏ hẹp và hẻo lánh đã nhanh chóng chuyển thành một phong trào quy mô của nông dân trong phạm vi toàn quốc, rồi vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chống ngoại xâm bảo vệ độc lập dân tộc ở cuối thế kỉ XVIII.
Đàng Trong
Từ nữa sau thế kỷ XVIII, những mâu thuẫn chất chứa trong xã hội Đàng Trong ngày một gay gắt và bùng nổ thành những cuộc nổi dậy. Bên cạnh mâu thuẫn chủ yếu giữa nông dân với địa chủ, các tầng lớp thương nhân, thợ thủ công và các dân tộc thiểu số cũng bất bình sâu sắc với chính quyền họ Nguyễn.
Năm 1747, đã nổ ra cuộc khởi nghĩa ở Gia Định do một thương nhân cầm đầu. Trước khi nổ ra cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, nhân dân thiểu số ở dọc Trường Sơn và vùng Tây Nguyên, người Chàm, người Khmer đã nhiều lần nổi dậy chống họ Nguyễn. Trong cuộc đấu tranh của nhân dân Đàng Trong, các cuộc nổi dậy của nhân dân thiểu số đã góp phần làm lung lay tận gốc chế độ thối nát họ Nguyễn. Khi cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ, nhân dân thiểu số lại tiếp tục sát cánh với nông dân và các tầng lớp khác ở miền xuôi chống kẻ thù chung.
Riêng ở miền xuôi, từ giữa thế kỷ XVIII nhiều cuộc khởi nghĩa lẻ tẻ cũng đã xuất hiện. Sử triều Nguyễn chép: năm 1769 “trăm họ cơ cận, trộm cướp nổi lên tứ tung, trong cõi từ đó có nhiều việc”.
Trong số những cuộc nổi dậy này, cuộc khởi nghĩa của Lía ở Quy Nhơn có quy mô to lớn hơn cả và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân. Là một nông dân nghèo, bị cường hào địa chủ hành hạ khổ sở, Lía uất ức trốn vào rừng tụ tập dân nghèo nổi dậy, lấy Truông Mây làm căn cứ rồi kéo đi giết bọn cường hào, lấy của cải phân phát cho dân đói.
Những cuộc đấu tranh lẻ tẻ trên của nhân dân Đàng Trong chống họ Nguyễn chỉ mới là phần dạo đầu, mở màn cho một cuộc khởi nghĩa nông dân to lớn và mãnh liệt chưa từng có trong lịch sử nước ta thời quân chủ: khởi nghĩa Tây Sơn.
Phong trào nông dân Tây Sơn đã xóa bỏ nền thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chấm dứt tình trạng cát cứ phong kiến mở đường cho quá trình thống nhất đất nước sau nhiều thời kỳ bị chia cắt, điều này đưa pk nông dân Tây Sơn từ một cuộc khởi nghĩa nông dân giống như bao cuộc khởi nghĩa nông đân khác trở thành một cuộc chiến tranh nông dân lan rộng trên phạm vi toàn bộ lãnh thổ Đàng Trong và Đàng Ngoài. Nếu xét về quy mô, lực lượng tham gia trong lịch sử dân tộc chưa có một cuộc khởi nghĩa nông dân nào có quy mô lớn và lượng người tham gia đông nhu Tây Sơn.
Trong một khoảng thời gian ngắn, anh em Tây Sơn và cả dân tộc đã lập nên 2 chiến thắng hiển hách: chiến thắng Rạch Gầm -Xoài Mút chôn vùi 5 vạn quân Xiêm, chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa trong mùa xuân Kỷ Dậu đã chôn vùi 29 vạn quân Thanh cùng bè lũ Lê Chiêu Thống. Cả hai chiến thắng này có vị trí và ý nghĩa hết sức đặc biệt đối với lịch sử dân tộ, quét sạch ngoại xâm, nội phản, bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền của dân tộc, đưa nghệ thuật quân sự Việt Nam đạt tới đỉnh cao.
- Sự chiếm đoạt ruộng đất
Đàng Ngoài
Từ đầu thế kỷ XVI, ruộng đất công làng xã dần dần bị bọn cường hào địa phương lủng đoạn. Ở nhiều nơi, ruộng thờ các triều vua, các công thần triều đại trước, ruộng công thần nhà Lê bị chấp chiếm và phân tán. Ruộng công làng xã ngày một thu hẹp. Tình hình đó không cho phép chính quyền Lê Trịnh thực hiện chính sách lộc điền, ruộng ban cấp, ruộng phong thưởng cho công thần nhà Lê đều bị rút hết. Số ruộng được cấp thưởng không quá 50 mẫu. Năm 1670, chúa Trịnh hạ lệnh: người được cấp ruộng công chỉ được cấy trồng 10 mẫu ở quê mình, còn lại thì thu tiền thuế chứ không được cày cấy.
Đối với quan lại về hưu, nhà nước đặt ra một quy chế cấp ruộng huệ dưỡng, tùy theo phẩm tước được cấp một số ruộng nhất định.
Đặc điểm của thời Lê Trịnh là trừ các loại ruộng công thần, ruộng sứ thần, ruộng binh lính được miễn thuế, số còn lại phải nộp thuế cho nhà nước.
Như vậy, từ đầu thế kỷ XVI ruộng công làng xã bị thu hẹp rất nhiều và chính sách quân điền của nhà nước Lê sơ bị phá sản, ruộng tư phát triển mạnh mẽ. Sang thế kỷ XVII, ruộng công được phục hồi ít nhiều do hậu quả của chiến tranh. Nhà nước cố gắng thực hiện chính sách quân điền, trừ số ruộng cấp cho binh lính ra, còn thì quân cấp theo chế độ cũ nhà Lê. Theo chính sách quân điền mới, những người có ruộng tư, đã đủ mức đều không được chia ruộng công làng xã, dân đinh đến 18 tuổi được chia, nhưng quá 60 tuổi thì phải trả lại cho xã. Tuy nhiên, do tình trạng ruộng đất công đã bị thu hẹp nghiêm trọng cho nên chính sách quân điền đã hoàn toàn bị phá sản, nhà nước có đặt lại cũng chỉ trên giấy tờ.
Đối với bộ phận ruộng đất tư, cho đến thế kỷ XVII ruộng đất tư hữu đã phát triển mạnh. Việc mua bán, kiện tụng về ruộng đất là đầu mối những câu chuyện rắc rối ở làng xã, tình trạng chiếm công vi tư đã phổ biến. Năm 1668, chúa Trịnh Căn phải hạ lệnh: ruộng đất “ẩn lậu” chưa ghi vào sổ điền đều được gia ân miễn thuế, cấm dân xã không được tố cáo, quan lại không được khám xét, bới móc sách nhiễu. Nạn chấp chiếm ruộng đất, biến công vi tư càng tăng lên mạnh hơn trước, đe dọa đời sống của nông dân và thuế khóa của nhà nước. Đến thế kỷ XVII và đầu thế kỷ XVIII ở Đàng Ngoài đã hình thành hàng loạt địa chủ có trên 100 mẫu ruộng, nhiều người có trên 1000 mẫu, hình thành một số trang trại của các nhà quyền thế, hào phú và trở thành nơi trốn thuế, trốn sưu dịch của nông dân nghèo đói. Năm 1711, Trịnh Cương phải hạ lệnh triệt hạ những trang trại cũ và nghiêm cấm lập trang trại mới. Trong thời gian 3 tháng, trang trại nào còn chống lại đều bị khép vào tội nặng. Trang trại là cơ sở lấn chiếm ruộng đất tư của dân cũng giống như ruộng đất công của nhà nước.
Bên cạnh đó, số lưu dân mất đất phải đi kiếm ăn ở xa quê hương họp nhau khai hoang, tạo nên những vùng ruộng đất mới. Tạm thời trong một thời gian số ruộng này chưa bị biến thanh ruộng công và chưa bị đánh thuế nhưng trong quá trình phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất, không ít số ruộng đất này bị bọn địa chủ chấp chiếm.
Một nét đặc sắc trong tình hình ruộng đất Đàng Ngoài thời kỳ này là sự phát triển của chế độ sở hữu ruộng đất làng xã. Hầu như làng xã nào cũng có ít nhiều ruộng “hậu thần”, “hậu phật”. Số làng xã sở hữu số ruộng đất này trên 30 -40 mẫu là phổ biến.
Sự phát triển của chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất đã dẫn đến sự thay đổi chế độ thuế. Năm 1719, chúa Trịnh Cương đã ban hành chế độ thuế ruộng tư, theo thể lệ thuế mới, tất cả các loại ruộng đất tư, công làng xã đều phải chịu thuế. Quan lại tùy theo phẩm hàm được miễn một diện tích nhất định.
Nạn kiêm tính ruộng đất của giai cấp địa chủ đã làm cho mâu thuẫn đối kháng của xã hội trở nên quyết liệt. Vì vậy, năm 1740, Trịnh Doanh phải đề ra biện pháp giải quyết vấn đề ruộng đất, có ý muốn phỏng theo phép “tỉnh điền” đời Chu (Trung Quốc) để “quân bình giàu nghèo”, “chia đều thuế dịch”, nghĩa là công hữu hóa tất cả ruộng đất rồi phân chia cho dân cày nộp tô thuế cho nhà nước. Đương nhiên biện pháp này không thực tế và không thể thực hiện được, nhưng chứng tỏ tính chất nghiêm trọng của vấn đề ruộng đất và sự bế tắc, bất lực của nhà nước Lê – Trịnh trong việc giải quyết vấn đề.
Quá trình tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ luôn diễn biến song song với quá trình bần cùng và phá sản của nông dân. Nông dân mất ruộng đất ngày càng bị địa chủ bóc lột nặng nề, nền kinh tế tiểu nông càng bị phá hoại. Đó là một nguyên nhân trọng yếu của sự khủng hoảng của chế độ quân chủ tập quyền ở Đàng Ngoài trong thế kỉ XVIII.
Đàng Trong
Nạn chiếm đọat và tập trung ruộng đất của giai cấp địa chủ ở Đàng Trong diễn ra khá mạnh, ngay từ thế kỷ XVII. Năm 1613, chúa Nguyễn Phúc Nguyên đã nhận thấy “ruộng đất bị bọn hào phú trong làng xóm thường xâm chiếm làm tư lợi”. Sang thế kỷ XVIII tình trạng này ngày một nghiêm trọng hơn. Quan lại địa chủ đua nhau tranh đoạt những thành quả khẩn hoang của nông dân hoặc dùng uy thế chiếm ruộng tư của họ và lấn chiếm cả ruộng công làng xã. Bọn cường hào thường lấy cớ dân làng xã phải bù tô thuế cho nhà nước rồi đem ruộng công của xã bán cho nhau, nhân đó chiếm làm ruộng tư. Người nông dân chỉ còn con đường bỏ làng mạc, lưu vong phiêu tán. Theo một bài sớ của nguyễn Cư Trinh, “dân lậu có hai hạng, có kẻ trốn thuế mà lánh mặt, có kẻ đói rét mà phải phiêu lưu”. Địa chủ quan lại, một lần nữa, lợi dụng tình trạng này, “chiêu mộ” dân lưu vong vào khai khẩn những vùng đất mới ở phía Nam.
Ở Gia Định, đồng bằng rộng mênh mông, đất đai chưa khai khẩn mấy nên vấn đề ruộng đất không đặt ra gay gắt, không đến nỗi “không có ruộng làm nghề sinh sống” như ở Thuận Hóa. Tuy nhiên, những nông dân được “chiêu mộ” vào khai khẩn ở Gia Định bị chế độ tô thuế nặng nề của tầng lớp đại địa chủ và cùng chịu tình trạng bóc lột không kém nông dân vùng Thuận – Quảng. Mâu thuẫn xã hội ở Gia Định do đó cũng ngày càng sâu sắc.
Thay cho lời kết:
Không có một loại quyền lực trên đời này có thể duy trì mãi mãi được, khi một chính quyền mới được lập nên, nó luôn muốn duy trì quyền lực và sự thống trị của mình trường tồn với thời gian. Tuy nhiên, trải qua những biến thiên của lịch sử, dài hay ngắn khác nhau, lần lượt các chính quyền đó bị sụp đổ, khi chính quyền không còn thuận với lòng dân thì bùng nổ các cuộc khủng hoảng, xuất hiện sự tranh đoạt quyền lực giữa các phe phái, cá nhân dẫn đến sự sụp đổ của một dòng họ, chính quyền hay cá nhân nào đó. Chế độ phong kiến duy trì quyền lực của một dòng họ. Nó đặt lợi ích cá nhân, tổ chức lên trên lợi ích của dân tộc. Quyền lực không thuộc về nhân dân nên chắc chắn phải bị sụp đổ và xóa bỏ. Ngoài những dấu hiệu mà trong bài viết chúng tôi đã chỉ ra, còn có những điểm chung như sau:
Đó là, mỗi khi chế độ bị đe dọa, giai cấp cầm quyền sẽ thắt chặt, quân sự hóa chính quyền để dễ dàng cơ động trong việc đàn áp phong trào của nhân dân. Dưới triều Nguyễn, do cá hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra. Trong giai đoạn bất ổn đó, vị quan đứng đầu tỉnh thường là người nắm quyền về quân sự, an ninh trước đó. Bộ máy chính quyền được quân sự hóa ở mức cao nhất để bảo vệ thể chế nhà nước đang thoái hóa những không chịu buông bỏ quyền lực. Bên cạnh đó, do việc sa đà vào việc ăn chơi vô độ, tham nhũng tràn lan, ruộng đất thì bỏ hoang, mất mùa đói kém. Mặc dù đã tăng các loại phí, tạo thêm áp lực đời sống cho nhân dân nhưng nhà nước phong kiến vẫn túng thiếu về ngân sách do phải bội chi quá nhiều vào những việc không cần thiết. Một bộ máy cồng kềnh, làm việc không hiệu quả lại không bị đào thải mà liên tục tìm cách đục khoét ngân sách từ nguồn thuế của nhân dân, tài nguyên của quốc gia. Bộ máy ấy là thứ ung nhọt cần phải bị đào thải nếu không muốn bị diệt vong và chôn vùi. Về phía xã hội, do hệ quy chiếu về đạo đức bị băng hoại nghiêm trong nên trong đời sống tư tưởng của con người lúc bấy giờ không còn hệ quy chiếu chung nhất. Những giá trị cao đẹp bị đồng tiền giày xéo. Con người trở nên trợ trụi và lạc lõng. Hệ quả là các tệ nạn xã hội cứ tiếp tục gia tăng như nạn trộm cướp, rượu chè, mê tín…
Trong một xã hội mà tinh thần pháp luật không được thượng tôn. Mọi người không còn bình đẳng như ở dưới chế độ phong kiến. Những người giàu có quyền lực và đứng trên pháp luật thì cái đó phải bị diệt vong.
Qua bài viết lần này, chắc chắn sẽ còn nhiều thiếu sót trong việc chỉ ra những dấu hiệu trước sự sụp đổ của chế độ phong kiến ở Việt Nam. Bởi đây là vấn đề rộng lớn lại mang tính quy luật nhưng cách nhìn của chúng tôi còn nhiều hạn chế. Mong bạn đọc lượng tình suy xét!
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Đào Duy Anh (2010), Đất nước Việt Nam qua các đời, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
- Huỳnh Công Bá (2008), Cở sở văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế.
- Huỳnh Công Bá (2011), Lịch sử Việt Nam cổ trung đại, Nxb Thuận Hóa, Huế.
- Chritophoro Borri (1998), Xứ Đàng Trong năm 1621, Nxb T.p Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Phan Huy Chú (bản dịch) (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, Nxb Sử học, Hà Nội.
- Quỳnh Cư, Đỗ Đức Hùng (2007), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Khắc Đạm (1981). Về vấn đề ruộng công và ruộng tư trong lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu lịch sử, số 4.
- Lê Quý Đôn (1977) (bản dịch), Toàn Tập, (Phủ Biên tạp lục), Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
- Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam (2008), Kỉ yếu Hội thảo khoa học chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XIX, Nxb Thế giới, Hà Nội
- Hội đồng Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2005), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Hội đồng Khoa học xã hội thành phố Hồ Chí Minh (2005), Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Trần Trọng Kim (2006), Việt Nam sử lược, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
- Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong 1558 – 1777, Nxb Văn hoc, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, bản dịch, Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
- Li Tana (Nguyễn Nghị dịch) (1999), Xứ Đàng Trong, lịch sử kinh tế-xã hội Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Nxb Trẻ, TPHCM.
- Li tana (Lê Quỳnh dịch) (2000), Một Việt Nam khác? Vương quốc họ Nguyễn ở thế kỷ 17 và 18, Nxb Trẻ, TPHCM.
- Thi Long (2003), Nhà Nguyễn 9 chúa 13 vua, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.
- Phan Huy Lê (Chủ biên) (1990), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tập 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Phan Huy Lê, Trần Quốc Vượng, Hà Văn Tấn, Lương Ninh (1983), Lịch Sử Việt Nam, Tập I, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
- Trần Thị Thu Lương (2006), Chế độ sở hữu đất ở Nam Bộ từ thế kỷ XVII đến nửa đầu thế kỷ XIX, Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ, tập 9, số 3, thành phố Hồ Chí Minh.
- Nguyễn Cảnh Minh, Đào Tố Uyên (2009), Một số chuyên đề lịch sử cổ trung đại Việt Nam. Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
- Nguyễn Đức Nghinh (1981), Về vấn đề ruộng đất và phong trào nông dân ở thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX. Nghiên cứu Lịch sử, số
- Vũ Huy Phúc (1979), Tìm hiểu chế độ sở hữu ruộng đất Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX, Nxb KHXH, Hà Nội.
- Trương Hữu Quýnh (chủ biên) (2008), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập I, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
- Trương Hữu Quýnh (2009). Chế độ ruộng đất và một số vấn đề lịch sử Việt Nam. NXB Thế giới, Hà Nội.
- Trần Xuân Thắng, Phạm Thị Tuyết Hằng (2001). Thuế Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
- Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam (1971), Lịch sử Việt Nam, tập I – II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
- Phạm Văn Sơn (1959), Việt sử tân biên, quyển 3 (Nam Bắc phân tranh), Sài Gòn.
- Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam, tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn hóa dân tộc và Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.