sử thi Beowulf
I- Trong huyền thoại Chúng ta đều biết đến Beowulf qua bài sử thi cùng tên, được sáng tác vào khoảng thời gian giữa thế kỷ VII đến cuối thế kỷ X sau công nguyên. Bài thơ của chúng ta được viết bằng tiếng Anh, nhưng nó miêu tả các sự kiện ở vùng Scandinavia. Hiện nay, bản sao chép còn nguyên ...
I- Trong huyền thoại
Chúng ta đều biết đến Beowulf qua bài sử thi cùng tên, được sáng tác vào khoảng thời gian giữa thế kỷ VII đến cuối thế kỷ X sau công nguyên. Bài thơ của chúng ta được viết bằng tiếng Anh, nhưng nó miêu tả các sự kiện ở vùng Scandinavia. Hiện nay, bản sao chép còn nguyên vẹn được đặt ở Viện Bảo Tàng Anh. Beowulf là sử thi lâu đời nhất được viết bằng tiếng Anh nói riêng, và trong cả nhóm ngôn ngữ Teutonic (1) nói chung.
Beowulf là một tác phẩm văn học, được nhiều thế hệ học giả nghiên cứu nhằm khảo sát ngôn ngữ và phong cách tác phẩm. Tuy nhiên, câu chuyện nguyên thủy có thể đã được kể lại từ trí nhớ của một thi sĩ hay nhà thơ nào đó. Chắc chắn rằng bài thơ có nguồn gốc từ quê hương của Saxon trước khi được lưu truyền đến nước Anh.
Beowulf bắt đầu bằng việc kể lại lịch sử cơ bản (và hư cấu) của người Danes (2), bắt đầu người sáng lập vĩ đại của họ, Scyld Scefing. Hành trình của vị vua vĩ đại này đến Đan Mạch là một điều bí ẩn. Qua thời gian, ông ngày càng trở nên hùng mạnh, danh tiếng của ông vang dội khắp các bộ tộc German. Khi Scyld qua đời, gia đình ông được đảm bảo thừa kế ngai vàng, và di thể của ông được trả về với biển cả – vì ông đến đây từ biển cả.
Chắt của Scyld là Hrothgar. Ông là một chiến binh và người chinh phục vĩ đại, luôn đạ được sự vinh quang trên chiến trường. Tiếng tăm của Hrothgar lớn đến nỗi các quý tộc lần lượt xin gia nhập đội quân cá nhân của ông. Để biểu dương cho sức mạnh của mình, Hrothgar ra lệnh xây dựng một hội trường tiệc tùng to lớn, nơi sẽ hoạt động như phòng hội đồng, phòng họp, và là biểu tượng cho sức mạnh chính trị của ông. Hội trường được xây lên rất nhanh, được trang trí huy hoàng, và trong buổi tiệc đầu tiên được tổ chức, Hrothgar tuyên bố rằng hội trường này – với các cột chống có hình gạc nai – từ nay sẽ được gọi là Heorot (The Hart, nghĩa là Hươu Đực). Lòng tự hào dâng trào trong trái tim Hrothgar, và trong trái tim của đội quân của ông, khi tất cả đều nhìn thấy sự hùng vị của hội trường.
Ngày qua ngày, các buổi tiệc vẫn tiếp tục, tiếng ồn ngày càng lớn vang vọng đến hang động đầm lầy đáng sợ của một kẻ thù câm lặng. Grendel “quái vật đầm lầy ghê tởm”, sống ở vùng đầm lầy gần Heorot, chuyên ăn xác của những người đi ngang qua mà nó bắt được. Grendel có hình dáng lẫn sức mạnh khổng lồ, là kẻ thù vô cùng hung hãn. Làn da màu xanh, bao bọc bởi vẩy cá nên kiếm không thể đâm thủng qua được. Cũng giống như các yêu tinh, người khổng lồ, yêu quái và quái vật biển, Grendel là hậu duệ của Cain, đều có cuộc sống đơn độc và bị ruồng bỏ. Nhưng bây giờ, khi tiếng ồn ào vui vẻ bên trong Heorot khuấy động đến nó, nó quyết định đặt dấu chấm hết cho niềm vui này.
Vào nửa đêm, khi mọi người trong Heorot đã ngủ sau khi uống say rượu mật ong, Grendel tấn công. Grendel xong vào hội trường, kéo đi ba mươi cận vệ (3) kiêu hãnh trong đội hộ vệ của Hrothgar, để lại đằng sau là vết tích tàn phá khi các chiến binh còn lại chỉ biết đứng nhìn một cách vô vọng. Sự sợ hãi của Hrothgar cũng to lớn không kém gì niềm vui của ông trước đó. Nhuệ khí của ông càng giảm xuống khi Grendel trở lại hội trường vào các buổi tối sau đó và tàn sát nhiều người hơn. Bản thân Hrothgar đã quá lớn tuổi để có thể đối mặt với Grendel, ông bèn giao phó cho các nhà vô địch vĩ đại nhất của ông chiến đấu với Grendel. Nhưng tất cả đều chịu chung số phận như những người trong hội trường buổi tối. Tất cả những gì còn sót lại của họ chỉ là những vết đường máu dẫn đến khu đầm lầy hoang tàn.
Cuối cùng, không còn ai dám đối mặt với Grendel nữa, và Heorot cũng rơi vào im lặng về đêm. Điều này kéo dài trong suốt 12 năm, nhưng mỗi đêm Grendel đều trở lại với hy vọng tìm kiếm thịt tươi có hình dạng là hộ vệ của Hrothgar. Câu chuyện lan rộng khắp vùng đất và vượt qua cả biên giới Đan Mạch. Nhiều con thuyền đã cập bến và thể hiện lòng dũng cảm, nhưng vẫn chưa có chiến binh nào gặt hái được thành công. Dần dần, ngay cả nhựng chiến binh dũng cảm nhất cũng từ chối đến đây. Hrothgar và người Danes đành sống một cuộc sống im lặng và sợ hãi về đêm.
Trong khi câu chuyện buồn về Heorot tiếp diễn, một cậu bé đã trưởng thành và trở thành một chiến binh của vùng Geats. Vùng Geats được trị vì bởi Vua Hygelac, một nhà cai trị hùng mạnh đã chinh phục được nhiều quốc gia gia lân cận. Người em gái duy nhất của ông là con gái của vị vua quá cố Hrethel, và cậu bé được cho là con trai bà – Beowulf – bắt đầu lớn lên trong triều đình Hygelac từ năm bảy tuổi. Dù có vóc dáng cao lớn, Beowulf đã khiến ông ngoại là vua Hrethel rất thất vọng bởi tính tình chuộng hòa bình và lười biếng. Lúc nhỏ, chàng bị anh em và người lớn ghét bỏ bởi sự chậm chạp và không hiếu chiến. Nhưng những người khôn ngoan thì nhìn thấy những điểm khác bên trong Beowulf – có lẽ là sức mạnh khi chàng kìm chặt, cơn giận của ông khi bùng nổ hay cá tính được thể hiện trong đôi mắt màu xanh dương. Beowulf cũng thể hiện bản thân khi thách đấu thi bơi với Breca – nhà vô địch bơi lội của vùng Geats. Và Beowulf đã chiến thắng. Người ta nói rằng, khi đôi tay Beowulf kìm chặt sẽ có sức mạnh của ba mươi người đàn ông. Chàng trở thành người hùng khi tin tức về vùng đất đáng sợ đang bị ngự trị bởi Grendel truyền đến vùng Geats.
Với sự cho phép và chúc phúc của vua Hygelac, Belwulf chọn ra mười bốn bạn đồng hành trung thành và can đảm nhất để cùng chàng đi đến vương quốc Đan Mạch. Sau khi giã từ gia đình và người thân, mười lăm người Geats đã bắt đầu cuộc hành trình tìm kiếm sự nổi tiếng và giàu có khi chống lại Grendel.
Người canh gác bờ biển Đan Mạch quan sát từ các vách đá trắng nhìn thấy một chiếc thuyền chiến của nước khác đang cập bến. Người canh gác không biết về ngọn cờ của chiếc thuyền, và những người lạ mặt trên tàu được tra bị đầy đủ vũ khí. Khi lên bờ, họ có vẻ đang chuẩn bị hành quân vào sâu đất liền. Mặc dù người canh gác chỉ có một mình và biết rằng có mười lăm người lạ mặt, ông vẫn ngăn họ lại và yêu cầu:
“ Các chiến binh! Các người là ai, trong áo giáp của các người,
ai đã lái chiếc thuyền cao to này trên biển
đến bờ biển này? Ta là người canh gác bờ biển ở đây
trong suốt nhiều năm, vẫn tiếp tục canh gác bờ biển,
để không có kẻ thù nào có thể xâm lấn
đến vùng đất Đan Mạch nào và hãm hại chúng tôi”
Người canh gác không biết rõ mục đích của họ, ông nhìn về phía Beowulf – rõ ràng là thủ lĩnh của nhóm bởi dáng vóc và điệu bộ của ông. Beowulf trả lời người canh gác:
“ Chúng ta là những chiến binh của vùng Geats, thành viên trong đội hộ vệ của vua Hygelac. Cha ta, một trong những người nổi tiếng khôn ngoan, tên là Ecgtheow, một vị cố vấn khôn ngoan đã qua đời nhiều năm và nổi tiếng bởi tài trí của mình, để lại những ký ức tốt đẹp trong nhiều người”.
Người canh gác đánh giá từ lời nói của Beowulf và cho rằng họ sẽ không hãm hại vua Đan Mạch. Ông đích thân dẫn họ đến gặp vua Hrothgar. Sau khi bố trí người canh gác chiếc thuyền của Beowulf, người canh gác bắt đầu leo lênh vách đá đi đến hội trường Heorot. Những người Geats theo sau ông, chói lọi trong bộ giáp sáng loáng, mũ sắt hình heo rừng (4), giáo, khiên và các lưỡi kiếm óng ánh trong tay. Dần dần, Heorot hiện ra trong tầm nhìn, huy hoàng trong ánh nắng – nhưng nhóm người Geats cũng cảm nhận được chút ít nỗi sợ hãi đang chờ đợi họ vào ban đêm, theo như các câu chuyện về Grendel được lưu truyền lan rộng.
Heorot huy hoàng sáng chói dưới ánh nắng mặt trời khi nhóm người Geats tới nơi. Người canh gác quay qua những người đã đi bộ theo sau con ngựa của ông từ bờ biển, hướng dẫn họ con đường tiến vào hội trường, rồi ông trở lại với công việc canh gác bờ biển. Nhóm người Geats tiến vào hội trường hoàng gia Đan Mạch, để lại những cái khiên ở bên cửa vào để chứng tỏ rằng họ không hề có ác ý. Khi họ đi vào hội trường và được chào đón, Beowulf nói với mọi người:
“Chúng ta là những người bạn đồng hạnh được chọn của Hygelac, và ta là Beowulf. Thưa Đức Vua Hrothgar, Người trị vì, ta sẽ kể với Người mục đích của ta,”
Ấn tượng mạnh bởi lời nói của Beowulf, người của Hrothgar tháp tùng Beowulf theo suốt hội trường, đi đến chỗ ngồi cao, nơi Hrothgar đang coi giữa các hộ vệ. Beowulf kính cẩn cúi chào và tự giới thiệu mình là Beowulf, người đến từ hải ngoại và sẽ phục vụ cho vua Đan Mạch. Vị vua già nói rằng ông đã biết Beowulf khi còn là đứa trẻ – con trai của Ecgtheow, người đã cưới con gái của vua Hrethel. Hrothgar tuyên bố:
“Tiếng tăm của chàng đã vang dội đến đây trước khi chàng đến; những người đi biển đã kể với ta rằng chàng có sức mạnh vĩ đại của ba mươi người đàn ông khi kìm chặt đôi tay. Thật vui mừng xiết bao khi biết tin chàng đã đến, vì chàng sẽ là vị cứu tinh giúp chúng ta thoát khỏi sự kinh hoàng về Grendel”.
Hình dáng nổi bật, trong áo giáp sáng loáng, tay cầm chặt thanh kiếm lớn, đó chính là Beowulf. Có lẽ, người Danes cũng cảm thấy lời nói của vua Hrothgar là đúng, nhưng đã có quá nhiều nhà vô địch của họ đã chết trong tay của Grendel. Beowulf giải thích với đám đông rằng chàng đã nghe nói đến những cái chết kinh hoàng do Grendel gây ra, và toan tính tiêu diệt Heorot, hội trường của Hrothgar. Không chỉ vậy, chàng còn định đối mặt với Grendel sau khi bỏ lại thanh kiếm và cái khiên để chiến đấu với con quái vật đầm lầy ấy chỉ bằng tay không. Beowulf giải thích điều này là bởi vì Grendel cũng không sử dụng vũ khí, và lòng tự hào và danh dự của Beowulf không cho phép chàng chiến đấu với một lợi thế bất công như vậy.
Vua Hrothgar chăm chú lắng nghe khi Beowulf nói, và ông nói:
“Chàng có nhớ mối liên minh ngày xưa giữa Ecgtheow, cha chàng, và chính ta, khi ta đã bảo vệ ông ấy, một người chạy trốn khỏi sự phẫn nộ của bộ tộc Sói (5), đã trả tiền bồi thường (6) cho bọn chúng để chuộc tội cho ông, và ông đã lập lời thề trung thành với ta… [nhưng] nhiều người anh hùng đã đến đây, với lòng dũng cảm vĩ đại họ đã chiến đấu với con quái vật này. Họ chờ đợi con quái vật trong hội trường này, và sáng hôm sau không còn thấy dấu tích của những người anh hùng này ngoại trừ những vết máu đen ở các bàn ghế”.
(trong đoạn này, Hrothgar nhắc đến cha của Beowulf, vì ông cho rằng Beowulf đến đây để thay cha trả ơn năm xưa – người dịch).
Người ta sắp xếp lại bàn ghế dành cho Beowulf và những người bạn đồng hành của chàng. Buổi tiệc tùng được tổ chức. Beowulf, với vị trí danh dự, ngồi đối diện với nhà vua. Nhóm người Geats được phục vụ bằng rất nhiều bia rượu và thức ăn. Khi họ ngồi, các ca sĩ hát lại những bản anh hùng ca của tổ tiên xứ Đan Mạch. Khi trời tối dần, Hrothgar và người của ông rời khỏi hội trường Heorot để ngủ ở những nơi xa hơn và an toàn hơn. Người của Beowulf thì chuẩn bị đối mặt với sự nguy hiểm đang đón chờ họ. Mười bốn người Geats trở nên buồn ngủ. Họ nằm xuống trong khi vẫn mặc áo giáp và để giáo và kiếm ngay bên cạnh. Beowulf thì cởi áo giáp và đưa thanh kiếm của mình cho người khác giữ. Chàng quyết thực hiện đúng như lời tuyên bố ban đầu là chiến đấu tay không với Grendel – chàng định vật lộn với con quái vật và hạ nó bằng cách này. Họ ngủ – có thể là sơ ý – nhưng một điều chắc chắn là họ đều dũng cảm, khi họ đã đánh đổi cuộc sống ở quê hương để chiến đấu với một kẻ thù phi nhân loại.
Trong đêm khuya khoắt, Grendel đến. Từ khu đầm lầy rộng lớn, dọc theo dải đất lầy lội, đi qua làn sương mù dày đặc và ẩm ướt, con quái vật gớm ghiếc đi đến tòa nhà nó căm ghét nhất. Grendel xông vào cánh cửa của Heorot, những ổ khóa và then cửa không cản trở được nó. Đôi mắt phát ra màu xanh nguy hiểm của nó đang nhìn những người Geats đang nằm ngủ. Nó nhanh chóng tóm lấy một người, xé toạc từ chi này đến chi khác của người chiến binh trước khi mọi người kịp phản ứng. Nó uống máu và ngấu nghiến miếng thịt tươi mới săn được. Nó bỗng ngạc nhiên khi nhận ra có một sức mạnh khủng khếp đang nắm chặt cánh tay của nó – một cái nắm có sức mạnh to lớn nhất từ trước đến giờ. Beowulf đã bật ra khỏi ghế và bắt đầu vật lộn với con quái vật đầm lầy trong hội trường đen tối. Nhóm người Geats nắm lấy vũ khí, nhưng không dám xông lên bừa vì quá tối, chưa nhận rõ vị trí kẻ địch. Thỉnh thoảng, họ nhìn thấy ánh sáng phát ra từ đôi mắt của Grendel, và thừa cơ tấn công ngay khi nhìn thấy con quái vật – nhưng vũ khí của họ đều không có tác dụng với làn da vẩy cá của Grendel. Do bị số đông tấn công và bị thương khi vật lộn với Beowulf, nó cố chạy ra khỏi hội trường, nhưng Beowulf nhanh tay kìm chặt lấy nó. Cuối cùng, Grendel cố gắng trong sự vô vọng, giải thoát được cho bản thân, nhưng đã bị mất một cánh tay do bị Beowulf xé toạc. Grendel la hét chạy ra ngoài cửa, để lại cánh tay cho kẻ chiến thắng.
Beowulf nằm xuống đất, thở gấp và thở mạnh, cố gắng tin rằng mình đã chiến thắng. Người của chàng đi tới, đem theo ngọn đuốc sáng. Dưới ánh sáng trắng của ngọn lửa, nhóm người Geats nhìn vào cánh tay màu xanh của Grendel. Nó giữ nguyên vẻ đáng sợ ngay cả khi đã bị xé toạc ra khỏi cơ thể mạnh mẽ của kẻ thù. Tin rằng Grendel sẽ chết khi bị thương nặng như vậy, nhóm người Geats hét lên vui vẻ mừng cho chiến thắng và người hùng của họ. Chiến lợi phẩm được buộc lên mái nhà Heorot.
Sáng hôm sau, nhiều chiến binh đi đến Heorot và tò mò không biết cảnh tượng đang chờ đón họ sẽ thế nào. Rất ít người tin rằng nhóm người Geats vẫn còn sống, và càng ít người tin rằng sẽ trông thấy cánh tay kinh tởm của kẻ thua trận Grendel đang bị treo trên hội trường. Nhiều người vui mừng đi theo dấu máu Grendel để lại, sâu trong tận đầm lầy (an toàn vào buổi sáng). Dấu máu vẫn đến một hồ nước đen thẳm, và mọi người đều yên tâm rằng đây là nơi yên nghĩ cuối cùng của con quái vật.
Hrothgar nói với đám đông:
“ Cảm tạ Đấng Thánh Thần (7) đã ban cho cảnh tượng đáng mừng này. Quá nhiều nỗi đau ta phải chịu đựng dưới bàn tay của Grendel, quá nhiều chiến binh ta đã mất, quá nhiều năm không đếm được ta đã sống trong sự khổ sở, nhưng nay tất cả nỗi thống khổ đã chấm dứt!… Ta luôn ban thưởng cho người có công những phần thưởng xứng đáng hơn cả chiến công anh hùng của họ, và với họ ta không từ chối bất cứ điều gì.”
Beowulf trả lời rằng chàng chỉ hành động vì niềm kiêu hãnh của mình, nhưng vẫn chưa thật sự thành công, vì Grendel đã chạy thoát. Nhưng điều này không cản trở việc tổ chức một buổi tiệc lớn nhất từ trước đến nay; các ca sĩ hát lại chiến công của người xưa – cuộc chiến ở Finnsburg, chiến công của Hnaef và Finn, và của Nữ Hoàng Hildeburh (8). Hrothgar thể hiện sự hào phóng và lòng biết ơn lớn lao bằng các phần thưởng. Beowulf được ban cho lá cờ thêu bằng chỉ vàng, một thanh gươm quý báu, một chiếc mũ và bộ áo giáp dài, một chiếc cốc bằng vàng, và tám con ngựa chạy nhanh nhất. Người của chàng đều được ban thưởng hậu hĩnh như nhau, phù hợp với địa vị của họ, và cả nhóm người Geats được đưa đến nghỉ ngơi ở một chỗ khác, trong khi người ta dọn sạch những tàn tích để lại sau cuộc chiến giữa Beowulf và Grendel.
Trong đêm khuya, một sự trả thù ghê gớm đã tìm đến hội trường – cũng với sự yên lặng và nhanh chóng như Grendel đã từng làm. Grendel thật sự đã chết, ở nhà của nó, và mẹ nó đến trả thù cho con trai của mụ. Những người ngủ trong hội trường kinh sợ tột độ khi thấy mụ đi vào, và những chiến binh can đảm chạy đi tất cả các hướng trong nỗ lực phản công và tìm cách chạy trốn. Không vũ khí nào có tác dụng đối với làn da vẩy cá của mụ, và mụ quái vật này đã tóm lấy người cận vệ và cố vấn đáng tin cậy nhất, Aschere. Mẹ của Grendel đem theo Aschere rời khỏi hội trường, bỏ lại đằng sau cảnh tượng lộn xộn và ai oán, nơi mà trước đó vài giờ còn tràn đầy tiếng cười.
Hrothgar triệu tập Beowulf, bảo chàng hãy tìm mẹ Grendel để báo thù, nhằm xoa dịu nỗi đau vì đã mất đi một người cố vấn khôn ngoan nhất và người bạn chân thành nhất. Hrothgar bảo Beowulf hãy đi tìm thi thể của Aschere, và giết chết mẹ Grendel. Người của Hrothgar lục soát khắp khu đầm lầy, và tìm thấy nơi ở của mẹ Grendel. Hrothgar lên ngựa, cùng với sự tham gia của tùy tùng và nhóm người Geats, tiến về cái hồ nước đáng sợ đi đến cái hang được xác định là nơi ở của mẹ Grendel. Khi họ đến, đầu của Aschere được tìm thấy trên bờ hồ.
Dòng nước đang sôi sục với màu, toàn là máu;
Các chiến binh lặng thinh. Lúc này tiếng tù và nổi lên
một bài ca chiến đấu. Những người đàn ông dũng cảm đều ngồi xuống
và họ nhìn thấy những con quỷ trong dòng nước,
những con rồng biển kỳ lạ đang bơi dưới hồ,
cùng với những yêu quái biển, đang nằm trên các chỏm đá,
quái vật và quỷ đều cùng một loại
Beowulf quan sát những sinh vật này từ bờ hồ, giương cung và bất ngờ bắn ngay tim của một con vật. Những con khác bỏ chạy trong khi người nhóm người Danes kéo cái xác nạn nhân Beowulf đang nổi trên mặt nước vào bờ. Và họ quan sát nó một cách ngạc nhiên. Trong khi đó, Beowulf đã sẵn sàng để trả thù cho cái chết của Aschere.
Beowulf chuẩn bị vũ khí kỹ lưỡng rồi lặn xuống hồ, bơi suốt một ngày và chiến đấu với các sinh vật biển, xuống đến tận đáy hồ sâu đen thẳm. Khi đặt chân vào hang, chàng bị một bàn tay vẩy cá và mạnh mẽ tóm lấy. Móng cuốt sắc nhọn và hung tợn của mẹ Grendel định đâm xuyên vào áo giáp của chàng, nhưng không thành. Một trận đấu giữa mẹ Grendel và kẻ thù giết con của mụ đã bắt đầu; mụ quái vật biển ném Beowulf lên và đâm một nhát dao vào lưng chàng – một lần nữa bộ áo giáp đã cứu mạng người anh hùng này. Bằng sức mạnh to lớn của mình, chàng vật được mụ ngã xuống dưới chân chàng. Hrunting (9) chớp lên trong nước, nhưng vô hiệu đối với làn da vẩy cá của mẹ Grendel. Chàng tức giận ném đi thanh kiếm của mình, bởi nó đã trở nên vô dụng trong trận đấu này. Một lần nữa chàng chiến đấu với quái vật đầm lầy chỉ với hai bàn tay không. Đứa con rõ ràng là không mạnh bằng mẹ, và cái kìm tay của Beowulf không phát huy tác dụng như khi hạ Grendel. Chàng cần một thứ vũ khí khác. Nhìn quanh cái hang, trong số những chiến lợi phẩm mà mẹ con mụ đã cướp đi ở hội trường trước đó, chàng nhìn thấy một thanh kiếm lấp lánh. Chàng nắm lấy thanh kiếm khổng lồ này, một thanh kiếm to đến nỗi con người bình thường không thể rèn được. Chàng vung kiếm về phía mẹ Grendel, một phát kiếm mạnh mẽ đâm vào cổ mụ quái vật, làm gẫy xương và cái cơ thể vô hồn ngã trên nền đất. Dù đã kiệt sức, chàng vẫn nhìn quanh hang, và nhìn thấy xác của Grendel đang nằm trên giường. Khi chàng chặt đầu nó, dòng máu độc của Grendel làm nung chảy cái lưỡi sắc bén của thanh kiếm mới. Beowulf bơi lên mặt đất, mang theo đầu của Grendel và thanh kiếm vĩ đại của chàng.
Trong khi đó, những người Danes và Geats đã hăm hở chờ đợi trên mặt đất; và khi đêm xuống, người Danes đã bỏ đi vì tin rằng Beowulf sẽ không bao giờ trở lại nữa – nhưng nhóm người Geats vẫn ở lại, như những đồng đội đáng tin cậy nhất phải làm, chờ đợi chàng trở về. Họ vui mừng xiết bao khi thấy Beowulf bơi lên mặt nước. Họ tự hào đi theo Beowulf về hội trường Heorot, khiến đám đông phía trước giật mình, khi Beowulf buông đầu Grendel xuống dưới chân Hrothgar. Vừa tạ ơn Thánh Thần đã giúp chàng chiến thắng những kẻ thù hung tợn, Beowulf nói rằng chàng dâng đầu Grendel đến nhà vua – và thật sự, Hrothgar chưa bao giờ vui mừng hơn lúc này khi ông nhìn vào đầu của kẻ thù và nhà vô địch cùng những người bạn đã trở về. Bây giờ, Beowulf mới cảm thấy chàng đã thật sự thực hiện được lời tuyên bố ban đầu, khi chàng đã chứng minh được Grendel đã chết.
Một lần nữa, Hrothgar lại cảm tạ nhóm người Geats bằng những phần thưởng lớn, và thành lập mối liên minh giữa người Danes và vua Hygelac xứ Geats. Nhóm người Geats đã hoàn thành sứ mạng của mình và trở về chiếc thuyền của họ, nơi mà người canh gác bờ biển đang cần cù thực thi nhiệm vụ. Sau khi đem lên thuyền rất nhiều món quà từ người Danes, họ lại giương buồm hướng về đất Geats.
Vách đá nơi quê hương đang dần hiện ra, và họ nhanh chóng cập bến. Khi họ trở về, một buổi tiệc huy hoàng khác được tổ chức. Beowulf được gọi đến để kể lại những thảm cảnh và nguy hiểm mà chàng đã đối mặt, và lòng biết ơn cùng sự hào hóng của vua Hrothgar dành cho chàng. Beowulf cho mọi người thấy những của báu đã được ban tặng cho chàng và mười bốn người bạn đồng hành, chàng phân chia chúng cho những người thân thiết. Hoàng hậu Hygd nhận một chiếc vòng châu báu, và vua Hygelac nhận con chiến mã của Beowulf. Nhờ lòng dũng cảm, tài chiến đấu và sự hào phóng, chàng trở thành chiến binh vô địch của nhà vua, và được lòng dân chúng.
Beowulf trở về nhà và cuối cùng trở thành vua người dân nước mình. Một ngày, năm mươi năm sau trận chiến của Beowulf với mẹ của Grendel, một nô lệ đánh cắp một tách vàng từ hang ổ của một con rồng chưa được đặt tên tại Earnaness. Khi con rồng thấy cốc đã bị đánh cắp, nó rời khỏi hang động của nó trong cơn giận dữ, đốt cháy tất cả mọi thứ trong tầm nhìn. Beowulf và các chiến binh của ông đến chiến đấu với con rồng, nhưng Beowulf nói với quân lính của mình rằng ông sẽ chiến đấu với con rồng một mình và rằng họ nên chờ đợi tại nơi ân nấp. Beowulf đi xuống hang để chiến đấu với con rồng, nhưng rồi lại bị con rồng áp đảo. Khi quân người lính nhìn thấy diễn tiến như vậy đã lo sợ cho cuộc sống của họ nên đã bỏ chạy vào rừng. Tuy nhiên, một người lính trung thành tên là Wiglaf, người không màn đến hoàn cảnh nguy hiểm của Beowulf, đã xông vào giúp sức cho Beowulf. Cả hai giết chết con rồng, nhưng Beowulf cũng bị những vết thương chí mạng.
Beowulf được chôn cất tại Geatland trên một vách đá nhìn ra biển, nơi các thủy thủ có thể đến xem phần mộ của ông. Kho báu của con rồng được chôn với cùng với ông theo mong muốn của Beowulf, chứ không phân phát cho người dân vì đó là một lời nguyền liên quan đến kho báu để đảm bảo rằng mong muốn của Beowulf được lưu giữ. ( phần kết này do nghiencuulichsu bổ sung cho bài dịch ở trên)
các vương quốc Bắc âu cổ được nhắc đến trong sử thi Beowulf
nguồn bài viết HEEN blog
Chú thích:
(1) Nhóm ngôn ngữ Teutonic: còn gọi là nhóm ngôn ngữ German, là một nhóm ngôn ngữ thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu. Nhóm này bao gồm các tiếng của các tộc người German sử dụng (các dân tộc này sống ở vùng biên giới đông bắc Đế quốc La Mã xưa).
(2) Danes: hay Danish People, tức người Đan Mạch.
(3) Cận vệ: nguyên bản là thane, còn được viết là thegn, hay thayn theo Shakespears, có nghĩa là người hầu, tùy tùng. Từ này thường được dùng để nói về tùy tùng thuộc tầng lớp quý tộc của nhà vua, hay quý tộc của Anglo Saxon. Trong bài này, người dịch xin dịch chữ “thane” là cận vệ cho phù hợp với ngữ cảnh.
(4) Mũ sắt hình heo rừng: nguyên bản là boar-crested helmet, còn có tên khác là Benty Grange helmet. Nó được nhà khảo cổ học Thomas Bateman khai quật được vào năm 1848 từ một ngôi mộ Anglo Saxon nằm trong trang trại Benty Grange, thuộc hạt Derbyshire, nước Anh. Đó là chiếc mũ trên đỉnh có đúc hình heo rừng, với cặp mắt bằng đồng thiếc, đặt phía trên miếng hợp kim – đồng hình bán nguyệt.
(5) Bộ tộc Sói: nguyên bản: the Wulfings, hay còn được viết là Wylfings or Ylfings, là một bộ tộc hùng mạnh trong Beowulf, Widsith, và các câu chuyện thần thoại Bắc Âu. Bản trường ca Beowulf chưa bao giờ nhắc đến vị trí của bộ tộc này, nhưng theo các nguồn Scandinavia thì nó là bộ tộc cai trị ở phía đông vùng Geats.
(6) Tiền bồi thường: nguyên bản là wergild, hay còn được viết là weregild, wergeld, weregeld. Theo luật Salic (được ban hành vào đầu thế kỷ IX trong thời cai trị của vua Clovis I), khi tài sản bị trộm cướp, hay ai đó bị giết hay làm bị thương, phạm nhân sẽ phải bồi thường những giá trị tương ứng cho gia đình nạn nhân hay chủ tài sản.
(7) Đấng Thánh Thần: nguyên bản là All-father. Đây là một trong nhiều tên gọi của thần Odin, vị thần đứng đầu trong thế giới thần thoại Bắc Âu và cũng là vua của “thị tộc” thần thánh Aesir. Ông là vị thần chiến tranh, có khả năng quyết định chiến thắng trong những trận chiến và cũng là thần của sự khôn ngoan.
(8) – Cuộc chiến ở Finnsburg là cuộc chiến giữa người Frisia và người Danes. Có hai phiên bản về cuộc chiến này. Theo câu chuyện Finnesburg Fragment (cũng là sử thi cổ tiếng Anh giống Beowulf, nhưng người ta chỉ tìm thấy được một phần khoảng 50 dòng), hoàng tử Đan Mạch Hnaef cùng sáu mươi tùy tùng viếng thăm và trải qua mùa đông ở Finnsburg, thành trì của người em rể Finn. Mâu thuẫn xảy ra giữa người Frisia và người Danes dẫn đến một cuộc chiến kéo dài trong ba ngày. Vì người ta chỉ còn tìm được một phần nhỏ của bài, không ai biết được nguyên nhân cuộc chiến và kết quả thế nào.
Trong Beowulf thì cuộc chiến này được kể lại dành cho những người đã biết câu chuyện, hơn với khoảng 90 dòng thơ. Chuyện kể về buổi sáng của Hildeburh sau khi người Frisia mở cuộc tấn công bất ngờ người Danes. Hildeburh, em gái của Hnaef và vợ của Finn, thủ lĩnh của người Frisia. Nguyên nhân của cuộc hôn nhân này là nhằm thiết lập mối quan hệ hòa bình giữa hai bộ tộc và nỗ lực này đã thất bại. Nàng đau thương vì đã mất anh Hnaef trong cuộc chiến. Và trong giàn thiêu hỏa táng Hnaef, có cả thi thể của con trai nàng. Sau cuộc chiến, Finn và Hengest – thủ lĩnh những chiến binh còn sống sót của Hnaef, lập lời thề trung thành. Hoàn cảnh khá mơ hồ, nhưng người của Hnaef phải ở lại Finnsburg, ít nhất là đến hết mùa đông, và người Frisia cũng không chê cười họ vì đã đi theo kẻ thù giết chủ. Cuối cùng, Hengest đã trả thù và giết chết Finn trong hội trường của ông. Sau đó, chàng đưa Hildebrh trở về với người dân của nàng.
(9) Hrunting: thanh kiếm do Unferth – tùy tùng của Hrothgar, tặng cho Beowulf.