18/06/2018, 15:25

Lịch sử đế chế La Mã

biên dịch: eskimot09 Lịch sử La Mã bắt đầu từ 1 ngôi làng nhỏ (có sách nói là gồm 7 ngọn đồi) ở trung tâm Italy, sau đó phát triển thành thủ phủ, xâm chiếm và kiểm soát 1 vùng rộng lớn gồm toàn bộ Italy, Nam Châu Âu, Trung Đông, Ai Cập và trở thành đế chế hùng mạnh nhất trên thế ...

roman-empire

biên dịch: eskimot09 

Lịch sử La Mã bắt đầu từ 1 ngôi làng nhỏ (có sách nói là gồm 7 ngọn đồi) ở trung tâm Italy, sau đó phát triển thành thủ phủ, xâm chiếm và kiểm soát 1 vùng rộng lớn gồm toàn bộ Italy, Nam Châu Âu, Trung Đông, Ai Cập và trở thành đế chế hùng mạnh nhất trên thế giới vào thời điểm bắt đầu công lịch. La Mã kiểm soát cái mà trước đó chưa 1 quốc gia nào từng có, nó cai trị toàn thế giới trong 1 thời gian dài. Đế chế La Mã trải dài từ Vương quốc Anh đến Ai Cập, từ Tây Ban Nha đến Mesopotamia thiết lập 1 thời kỳ hòa bình đáng khen ngợi.

Dù vậy, La Mã là 1 quốc gia quân sự và nó cai trị lãnh thổ mênh mông của mình bằng cách duy trì 1 lực lượng quân sự mạnh trên nhiều nước nó chiếm đóng. Là 1 chủng tộc thông minh, người La Mã dành rất nhiều trí tuệ của họ cho việc xây dựng chiến thuật, công nghệ, tổ chức và luật lệ quân sự, tất cả dành cho việc duy trì cái thế giới rộng lớn họ đã dựng lên.

Nhưng La Mã được biết đến không chỉ vì thiên tài quân sự và tổ chức mà còn vì văn hóa. Quần thể văn hóa La Mã chỉ kém chút ít không đáng kể so với Hy Lạp, nơi đã bắt đầu thể chế nhà nước vài thế kỷ trước Cộng hòa La Mã. Văn hóa La Mã có nhiều cái bắt nguồn từ Hy Lạp: nghệ thuật, kiến trúc, triết học và tôn giáo. Tuy nhiên, người La Mã đã làm biến đổi nhiều thứ văn hóa này bằng việc làm nó trở nên thích nghi với thế giới quan và nhu cầu riêng của họ. Thứ văn hóa biến đổi này sau đó được truyền bá đến các cộng đồng dân cư châu Âu thời cổ đại và phục hưng.

Chúng ta gần như không biết gì về những cư dân đầu tiên của La Mã. Những người đầu tiên là người Cro-Magnons, nhưng đến thời đồ đá mới, họ dường như bị thay thế bởi những người di trú đến từ Châu Phi, Tây Ban Nha, và Pháp. Những người này sau đó lại bị thay thế bởi làn sóng người di trú trong thời kỳ đồ đồng, bắt đầu ở khu vực này khoảng năm 1500 trước công nguyên. Cộng đồng mới này đến từ các vùng đất bên kia dãy Alps và vượt biển Adriatic tới phía Đông của bán đảo Italia. Họ là những người du cư, chăn nuôi gia súc và sở hữu phương tiện sx cao. Họ đúc đồng, cưỡi ngựa và có xe ngựa. Họ là những người thiện chiến và bắt đầu định cư tại các vùng cao trên bán đảo Italia. Ngày nay chúng ta gọi họ là người Italic, gồm nhiều dân tộc khác nhau: người Sabine, người Umbrian, người Latinh và rất nhiều nữa.

Vào khoảng năm 700-800 trước công nguyên, hai nhóm cư dân mới bắt đầu xâm chiếm bán đảo Italia. Không giống những người nhập cư trước đó, những người khai hoang mới này mang tới cùng họ nền văn minh Hy Lạp và Etruscans.

NGƯỜI ETRUSCANS

Các nhà khảo cổ học cho rằng người Etruscans đến từ phía đông Địa Trung Hải, có thể là từ tiểu vùng châu Á. Dù gì đi nữa chúng ta sẽ khôgn bao giờ biết họ thật sự đến từ đâu và tại sao họ chiếm cứ Italy. Nhưng chúng ta biết rõ rằng khi họ đến Italy, họ đã mang theo cùng với họ nền văn minh và đô thị hóa. Họ đặt nền móng xã hội ở Đông Bắc Italy, giữa dãy núi Appenine và biển Tyrrhenian. Nền văn minh Etruscans chạy dài từ sông Arno ở phía bắc đến sông Tiber hướng vào trung tâm bán đảo Italia. Cái làng nhỏ của người Latinh, mà sau này trở thành La Mã nằm bên con sông Tiber này. Như vậy, người La Mã chỉ là những dân làng trong giai đoạn phát triển của nền văn minh Etruscan, đã có quan hệ mật thiết với người Etruscan về ngôn ngữ, tư tưởng, tôn giáo, và xã hội. Nền văn minh Etruscan vì vậy có ảnh hưởng quan trọng nhất trong quá trình chuyển tiếp thành văn minh La Mã.

Người Etruscans sống độc lập, theo thể chế nhà nước và hình thành những liên bang nhỏ. Khi mới bắt đầu, các liên bang này được cai trị bởi cùng 1 quốc vương, nhưng sau đó là một hội đồng được lập nên bằng các cuộc bầu cử chính thức. Cũng giống như những cư dân chung quanh, người Etruscans là tộc người làm nông nghiệp nhưng họ cũng có một đội quân mạnh, và sử dụng đội quân này để thống trị cư dân chung quanh. Những cư dân bị cai trị này trở thành nông dân trong các nông trại của người Etruscans. Như vậy người Etruscans có thời gian để dành cho việc phát triển buôn bán và công nghiệp. Đến thế kỷ 7 & 6 (trước CN), người Etruscans đã chinh phục rất nhiều nơi thuộc Italy bao gồm cả Rome, và các vùng đất ngoài Italy như các đảo của Corsica. Họ sử dụng bảng chữ cái dựa trên bảng chữ cái của người Hy Lạp, họ có 1 nền hội hoạ và điêu khắc phát triển, 1 tôn giáo dựa trên thuyết thượng đế truyền bá từ người Hy Lạp, và rất nhiều những nghi lễ phức tạp sau này được thần thánh hóa và truyền lại cho người La Mã. Không giống như hầu hết các nền văn minh cùng thời, sự bất bình đẳng giới tính của người Etruscans dường như không được nói đến nhiều.

Trong khi người Etruscans đang rất bận rộn với việc xây dựng quyền lực ở các vùng đất ngoài Italy, và với các hoạt động buôn bán tấp nập với phía Đông và với Châu Phi, thì một thành phố ở phía Nam của họ bắt đầu lớn mạnh nhanh chóng. Thành phố này mô phỏng người Etruscans ở rất nhiều mặt. Nó có tên Vương quốc La Mã.

VƯƠNG QUỐC LA MÃ

Theo các nhà khảo cổ, La Mã được thanh lập vào khoảng năm 753 trước công nguyên bởi những người Italic sống ở phía nam sông Tiber. Sự phát triển của xã hội La Mã là sự mô phỏng xã hội láng giềng Etruscans ở phía Nam. Thể chế nhà nước ban đầu của La Mã là thể chế quân chủ được xây dựng trên nền tảng xã hội bộ lạc. Trong xã hội khởi thủy này, người đàn ông có quyền quyết định và là thầy tế trong gia đình. Họ có quyền bán con cái như nô lệ hoặc thậm chí giết chúng. Sự độc đoán này bị hạn chế sau khi thành lập nhà nước. Trước khi bán con hay giết chúng, người đàn ông phải tham vấn gia đình mình và cộng đồng chung quanh. Quyền lực của Quốc vương trong thể chế quân chủ La Mã cũng tương tự như vậy. Nói cách khác, Quốc vương giống như 1 vị tộc trưởng bị ràng buộc bởi mối quan hệ nghĩa vụ và quyền lợi đối với các thành viên trong tộc. Quốc vương có quyền tuyệt đối, là người đặt ra luật pháp, thống lĩnh quân đội, là tòa án và là thầy tế cả.

Tuy nhiên quyền lực của Quốc vương được giới hạn và kiểm soát bởi một hiến pháp mà ông ta không được phép thay đổi. Hiến pháp này do Viện nguyên lão (VNL) và quốc hội lập ra. Viện nguyên lão là hội đồng gồm các trưởng lão, là thủ lĩnh của các thị tộc khác nhau, là 1 hình thức liên minh các thị tộc. VNL có quyền chấp thuận và phủ quyết việc bổ nhiệm quốc vương, có quyền kiểm tra và phán quyết tính hợp hiến và tuân theo truyền thống của các luật lệ và hành động của quốc vương. Về mặt này, VNL La Mã có chức năng gần giống với tòa án tối cao Hoa Kỳ ngày nay. Quốc hội thì bao gồm toàn bộ công dân nam La Mã. Quyền công dân chỉ dành cho những người có cả bố và mẹ là người gốc La Mã. Chức năng của quốc hội là trao cho vị vua được VNL lựa chọn quyền lực tuyệt đối. Quốc hội được tổ chức thành 30 nhóm trên cơ sở mối quan hệ huyết thống, mỗi nhóm có 1 phiếu bầu và đưa ra phiếu của mình trên quyết định đồng thuận của số đông trong nhóm. Như vậy, nếu ai đó có tiếng nói quan trọng trong chính phủ thì ở quốc hội, ảnh hưởng này đã được làm giảm đi rất nhiều với cách thức chia phiếu bầu theo nhóm nói trên.

Sự phát triển sức mạnh và tầm ảnh hưởng của La Mã làm của cải tập trung vào 1 bộ phận nhỏ và khiến xã hội phân chia thanh 2 giai cấp: quý tộc và bình dân. Giới quý tộc kiểm soát hầu hết tài sản, việc buôn bán, quyền lực và quân đội. Và chỉ có họ mới có thể có vị trí trong VNL hay quốc hội. Giới bình dân chiếm phần lớn dân số, hầu hết là nông dân và thợ thủ công làm việc cho giới quý tộc (trừ 1 số ít tự làm trong nông trại nhỏ của mình). Họ không hề có tiếng nói trong chính phủ.

Dưới thời quân chủ, La Mã mở rộng tầm kiểm soát đáng kể đến các địa hạt chung quanh. Thể chế quân chủ bản thân nó được thành lập với mục đích mang đến sự ổn định và an toàn. Việc xâm chiếm các địa giới chung quanh không có nghĩa rằng La Mã thèm muốn đất đai và của cải của những nơi này mà dường như là bởi mối lo đối với sự đe dọa đến từ các cư dân chung quanh. Tuy nhiên, việc mở rộng địa giới của La Mã đã thu hút sự chú ý của người láng giềng Etruscans hùng mạnh ở phía Bắc. Chế độ quân chủ La Mã rơi vào tay người Etruscans vào giữa thế kỷ 6 trước công nguyên. Người La Mã chống lại 1 cách cay đắng. Cuối cùng, khi 1 hoàng tử của Etruscans thuộc gia đình Tarquins đang cai trị La Mã cưỡng bức vợ của 1 quý tộc (sự kiện này có được nhắc đến trong sử liệu của nhà sử học Livy nhưng nhiều người cho rằng đây có lẽ chỉ là 1 câu chuyện hư cấu), dân La Mã đã nổi dậy đánh đổ quyền lực của Tarquins năm 509 trước CN. Nền văn minh Etruscans bắt đầu đi xuống từ đây.

Sau khi giành lại độc lập, với việc xóa bỏ hoàn toàn thể chế quân chủ thay vì thiết lập lại nó, thời đại của nền Cộng hòa La Mã, thời đại chứng kiến sự lớn mạnh vĩ đại của quyền lực La Mã bắt đầu.

NỀN CỘNG HÒA LA MÃ

roman_empire_map

Sau khi Junius Brutus lật đổ vương triều Tarquin năm 509 trước CN, La Mã bước vào kỷ nguyên của nền cộng hòa, thể chế cai trị bởi Viện nguyên lão và quốc hội. Lịch sử của Cộng hòa La Mã là lịch sử của những cuộc chiến tranh. Tất cả các câu chuyện lịch sử người La Mã sẽ dùng như là minh chứng cho các ưu điểm và giá trị La Mã đều bắt đầu từ giai đoạn dữ dội này, giai đoạn của các cuộc xâm lược và bảo vệ đất nước. Trước nay, hiến pháp của La Mã không tồn tại chính thức hay được viết ra thành văn bản mà là một loạt các giá trị và luật bất thành văn. Nó được định ra trên cơ sở của 1 vương triều trong quá khứ, bởi vậy dù không khôi phục nền quân chủ, người La Mã vẫn dành những quyền lực to lớn cho các quan chức.

Ở vị trí cao nhất là hai quan chấp chính, được bầu cử hàng năm trong số những nhà quý tộc. Cũng giống với các quốc vương trong thời quân chủ, 2 quan chấp chính đưa ra luật pháp, nắm giữ tòa án, quân đội và vị trí trưởng tế của quốc gia. Phục sức của họ giống với các vị vua trong quá khứ, áo choàng tía và ngồi trên ghế truyền thống dành riêng cho nhà vua. Tuy nhiên, quyền lực của họ đã bị hạn chế rất nhiều. Thứ nhất, họ tại vị chỉ có 1 năm, sau đó có thể được bầu lại hoặc trở về đời sống riêng. Thứ hai, có 2 quan cùng chấp chính, và vị này có thể ngăn cản có hiệu quả bất cứ quyết định hay hành động nào của vị kia bằng quyền phủ quyết. Thứ ba, các quan chấp chính tiếp tục phải phục vụ ở Viện nguyên lão sau khi nhiệm kỳ chấm dứt, điều này khiến họ chuyên tâm hợp tác với Viện nguyên lão. Kết quả của những việc này là các quan chấp chính không thực sự chủ động và sáng tạo, bởi vậy chính phủ La Mã có khuynh hướng bảo thủ và thận trọng. Đến năm 325 trước CN, vị trí này được đổi thành quan thống đốc, là những quan chấp chính tại vị nhiều nhiệm kỳ do yêu cầu của các chiến dịch quân sự.

Dưới 2 quan chấp chính là 2 quan coi quốc khố và 1 pháp quan. Chức pháp quan lúc đầu thuộc về tòa án, nhưng sau này trở thành 1 chức danh quân sự, các pháp quan là các vị tướng chủ chốt của La Mã. Vị trí pháp quan cũng như quan chấp chính có nhiệm kỳ 1 năm, và cũng có thể kéo dài trong thời gian chiến tranh. Ngoài ra, việc phân loại dân chúng theo tài sản và mức đóng thuế (đáng lẽ là nhiệm vụ của quan chấp chính) là việc của 2 quan chức (tạm) gọi là giám quan. Nhiệm vụ của họ là lên hồ sơ dân chúng và định mức thuế phải nộp. Do đó họ có rất nhiều cơ hội để ăn cắp và tham nhũng. Bởi vậy, vị trí này chỉ được giao cho các nguyên chấp chính quan, những người có đạo đức và liêm khiết nhất. Các giám quan có quyền lực lớn, họ có thể thải hồi các nghị sĩ trong Viện nguyên lão không chỉ vì các vướng mắc tài chính mà có thể vì bất cứ lý do gì. Vào giai đoạn cuối của nền cộng hòa, các giám quan nằm trong số những chính trị gia có quyền lực nhất ở La Mã.

Với việc quyền lực hoàn toàn tập trung trong tay giới quý tộc, thể chế cộng hòa La Mã lúc bắt đầu là 1 hình thức chuyển giao quyền lực từ quốc vương sang tầng lớp giàu có nhất La Mã. Tính chất thống trị của luật pháp, hệ thống tài chính, và chính sách ngoại giao thiết lập bởi giới quý tộc ngay lập tức đưa đến sự oán giận của tầng lớp bình dân. Từ lúc bắt đầu năm 509 trước CN cho đến lúc tan rã trong tay Caesar vào giữa thế kỷ thứ nhất trước CN, lịch sử chính trị của Cộng hòa La Mã là 1 mớ hỗn độn, và thường xuyên xung đột giữa hai tầng lớp dân chúng muốn tranh giành quyền lực chính trị.

Năm 494 trước CN, những người lao động rời khỏi La Mã và chiếm 1 vùng núi thiêng. Tại đây, họ thành lập 1 chính phủ mới, 1 tổ chức có hình thức bộ lạc kiểu cũ, đứng đầu là các quan bảo mẫu (những người lãnh đạo bộ tộc của họ). Họ công khai phủ quyết các quyết định của giới quan chức La Mã và luật pháp của Viện nguyên lão. Chính phủ này do tất cả bầu ra và các quyết định của nó áp dụng cho mọi đối tượng là dân nghèo. Nói cách khác, dân nghèo đã tự giành cho họ quyền viết ra luật pháp cho riêng mình. Năm 450 trước CN, phong trào đấu tranh giai cấp đưa ra bộ luật 12 điểm với việc chính thức hóa luật lệ và hiến pháp La Mã. Người La Mã xem đây là 1 chiến thắng của việc đấu tranh đòi quyền công dân, nó là công cụ giúp họ xác định vị trí của mình trong xã hội pháp quy. Năm 445 trước CN, giới bình dân giành được quyền lập gia đình với người trong giới quý tộc, và đến năm 367 trước CN, 1 người thuộc giới bình dân được bầu làm quan chấp chính. Bộ luật Licinian-Sextian quy định ít nhất 1 trong 2 quan chấp chính phải là người thuộc giới bình dân. Với việc sau khi hoàn thành nhiệm kỳ chấp chính, vị quan này trở thành thành viên của Viện nguyên lão, quyền nắm giữ Viện nguyên lão của giới quý tộc đã bị phá vỡ. Đến năm 300 trước CN, giới bình dân có quyền tham gia ở tất cả mọi cấp của giáo hội, có nghĩa là ngang hàng với giới quý tộc về tín ngưỡng. Và cuối cùng, chiến thắng quyết định về mặt quyền lực và sự ảnh hưởng đến vào năm 287 trước CN, năm mà các quyết định và luật pháp của chính phủ bình dân được áp dụng cho toàn bộ cộng đồng La Mã, bao gồm cả giới quý tộc. La Mã đã đạt được những cải cách này mà không cần bất kỳ 1 cuộc nội chiến hay đổ máu nào. Tất nhiên, cuộc đấu tranh giai cấp vẫn không thể giải quyết nhưng rõ ràng là nội chiến giai cấp đã được ngăn chặn hoàn toàn. Như vậy, người La Mã đã cải cách thể chế của mình như 1 nhu cầu tự phát hơn là vì theo đuổi 1 kế hoạch cụ thể nào.

Cùng thời gian này, và với tính chất tự phát tương tự, họ tiến hành mở rộng lãnh thổ của mình. Thoạt đầu, các cuộc chiến do những người cộng hòa tiến hành chủ yếu có tính chất phòng ngự vì việc lật đổ vương triều Tarquins đã dẫn đến nhiều cuộc tấn công của người Etruscans và các đồng minh nhằm vào La Mã. Nhưng không lâu sau đó, La Mã chuyển sang việc tấn công giành quyền kiểm soát lãnh thổ của những người láng giềng nhằm triệt tiêu hiểm họa bị tấn công. Logic của La Mã là việc kiểm soát các lãnh thổ chung quanh sẽ ngăn ngừa được bất cứ cuộc tấn công nào từ cư dân trên các lãnh thổ này đồng thời tạo ra 1 vùng đệm an toàn cho La Mã với những kẻ tấn công đến từ xa. Chính sách xâm lược của La Mã bởi vậy tiếp tục được duy trì vì lý do an toàn của bản thân họ. Kết quả cuối cùng của quá trình này là việc giành quyền kiểm soát toàn bộ bán đảo Italia năm 265 trước CN, và sau đó là cả thế giới. Có thể nói rằng đế chế La Mã là 1 sự ngẫu nhiên, nó được hình thành trong quá trình theo đuổi 1 chính sách có tên: sự an toàn. Chỉ đến giai đoạn cuối của quá trình này, Đế chế La Mã mới trở thành 1 mục tiêu rõ ràng.

CHINH PHỤC ITALY

Cuộc chinh phục Italy được bắt đầu ngay sau khi người La Mã trục xuất vương triều Tarquins năm 509 trước CN với mục tiêu đầu tiên chính là lãnh thổ của người Etruscans. Liên minh với các tộc Latinh khác và với Hy Lạp, La Mã từng bước vững chắc chinh phục lãnh thổ Etruscans trong suốt 2 thế kỷ 5 và 4 trước CN. Người Etruscans bị đuổi ra khỏi bán đảo Italy. Nền văn minh Etruscans đến đây chấm dứt.

Tuy nhiên, cuộc chinh phục Italy của người La Mã bất ngờ bị gián đoạn bởi cuộc xâm lược của bộ tộc Gaul (phần đất châu âu cổ gồm Pháp, bắc Hà Lan và 1 phần Thụy Sĩ), du cư và thiện chiến đến từ bên kia dãy Alps. Năm 387 trước CN, người Gaul vượt dãy Alps, nhanh chóng đánh bại quân đội và thiêu hủy La Mã. Tuy nhiên, người Gaul không có ý định định cư tại Italy, họ chỉ quan tâm đến của cải của La Mã. Họ cướp phá La Mã, yêu cầu cống nạp, và sau khi đã thu thập đủ thì quay về đất của họ ở trung tâm châu Âu. La Mã lúc này suy kiệt và nhiều cư dân họ đã chinh phục trên bán đảo Italy quay lại tấn công họ. Tuy nhiên, đến năm 350 trước CN, La Mã đã hồi phục mạnh mẽ đủ để lập lại vị thế ở các vùng đất nói trên.

Dù chỉ là 1 thành viên trong liên minh các nước Latinh, La Mã đã áp đặt vị thế bá chủ lên tất cả các nước trong liên minh này. Năm 340, các nước nổi dậy đòi quyền độc lập sau khi La Mã khước từ yêu sách của họ. Tuy nhiên, La Mã chỉ mất có 2 năm để dẹp tan cuộc nổi dậy này và thống nhất khối Latinh năm 338 trước cn. Năm 295 trước cn, La Mã bắt đầu cuộc chiến chống lại sự nổi loạn của những người Latinh Samnites sống trên dãy Appenine, có thêm sự tham gia của những người Etruscans, người Gaul sót lại và 1 vài thành phố Italy khác. Kết quả của cuộc chiến này là đến năm 280 trước cn, La Mã giành quyền kiểm soát toàn bộ trung tâm Italy. Họ chuyển sự quan tâm của mình về phía Nam bán đảo tới các thành phố của Hy Lạp và nhanh chóng khuất phục nốt khu vực này. Vậy là đến giữa thế kỷ 3 trước cn, La Mã đã hoàn toàn làm chủ bán đảo Italia.

Lịch sử cổ đại cho thấy rằng việc giữ các vùng đất chinh phục được là rất khó khăn. Tuy nhiên, La Mã dường như đã tìm ra cách giải quyết vấn đề này với các chính sách vừa tự do vừa quân phiệt. Thứ nhất, Rome không hủy diệt các vùng đất này mà trao cho chúng những quyền lực chắc chắn. Một số nơi được chấp thuận trở thành công dân La Mã đặc biệt là các vùng gần La Mã, một số vùng khác được chấp nhận chỉ phải theo những luật nào đó của La Mã. Một số vùng được cho phép trở thành khu tự trị, một số khác được cho phép trở thành đồng minh. Nhưng tất cả đều phải đóng thuế và cung cấp binh lính cho La Mã. Ngoài ra, La Mã cho quân lính định cư trên các miền đất chiếm đóng như là phần thưởng cho sự phục vụ của họ. Quân lính có đất đai có thể sinh lợi, và La Mã có đội quân cố định trên các miền đất đã chiếm đóng. Để tăng cường sức mạnh cho các đội quân này, La Mã tiến hành các dự án làm đường đầy tham vọng. Họ xd các con đường thẳng tắp vượt qua các ngọn núi cho phép quân đội nhanh chóng vận động tới các vùng có nổi loạn. Sự kết hợp của việc trao quyền hành và quyền công dân với việc đảm bảo những phản ứng nhanh chóng và khắt khe đối với những kẻ nổi loạn đã cho ra đời 1 đế chế hòa bình và bền vững trên bán đảo Italy.

Đến lúc này một kẻ thù mới của La Mã xuất hiện, đó là Carthage, đế chế đã khẳng định vị thế ở phía nam Địa Trung Hải. Thế kỷ sau sẽ chứng kiến sự va chạm của hai quốc gia hùng mạnh này. Kết cuộc của những va chạm này: chiến tranh Punic sẽ đưa La Mã thành lực lượng hùng mạnh nhất Địa Trung Hải.

CHIẾN TRANH PUNIC

Lực lượng hải quân hùng mạnh nhất trên Địa Trung Hải trong thế kỷ 3 trước CN là Carthage, quốc gia phía bắc châu Phi gần Tuynidi ngày nay. Người Carthage là người gốc Phoenic và Carthage là 1 thuộc địa cũ của Phoenic từ thế kỷ 9 trước cn. Từ Carthage trong tiếng Phoenic có nghĩa là ?othành phố mới?. Đến thế kỷ 6 trước cn, Phoenic bị chinh phục bởi người Assyrian (là những bộ lạc Semitic sống ở phía bắc Mesopotamia) và sau đó là người Ba Tư. Tuy nhiên Carthage lại không bị ảnh hưởng và trở thành 1 quốc gia độc lập hoàn toàn. Song song với cuộc chinh phục bán đảo Italy của La Mã, Carthage cũng mở rộng lãnh thổ của mình ra khắp Bắc Phi. Khi La Mã hoàn tất cuộc chinh phục Italy của mình thì Carthage cũng đã kiểm soát toàn bộ bờ biển Bắc Phi từ phía Tây Libya đến eo biển Gibraltar (bờ biển phía nam Tây Ban Nha), hầu hết bờ biển phía nam Tây Ban Nha cũng như các đảo Corsica và Sardinia ở Châu Âu. Carthage là 1 quyền lực kinh khủng, nó kiểm soát hầu hết các hoạt động giao thương trên Địa Trung Hải, cung cấp binh lính, nô lệ và hàng hóa, và tích trữ lượng lượng vàng bạc khổng lồ từ các mỏ khai thác ở Tây Ban Nha.

Hai đế chế hùng mạnh này bắt đầu va chạm nhau vào giữa thế kỷ 3 trước cn, khi quyền lực của La Mã đã vươn tới cực nam của Italy. Thực ra, hai bên đã có những tiếp xúc rời rạc trước đó nhưng chưa bên nào cảm thấy mối đe dọa đến từ bên kia. Người La Mã có hiểu biết kỹ lưỡng về người Carthage. Họ gọi những người này bằng cái tên gốc là người Phoenician. Trong tiếng Latinh, nó được viết là Poeni, đây là nguồn gốc cái tên Punic của cuộc chiến tranh sắp được nói tới. Cuộc chiến bất hạnh cho Carthage này là không thể tránh được. Nằm giữa Carthage và Italy là hòn đảo lớn Sicily. Carthage kiểm soát nửa phía tây của hòn đảo, nhưng với việc đã kiểm soát cực nam của bán đảo Italy thì La Mã chỉ còn cách Sicily 1 tầm tay. La Mã can thiệp vào cuộc nổi dậy của người Messana chống lại Carthage, và chiến tranh Punic lần 1 nổ ra.

Chiến tranh Punic lần 1 (264-241 trước cn)

Nổ ra năm 264 trước cn, chủ yếu diễn ra trên đảo Sicily. La Mã bao vây nhiều thành phố của Carthage ở Sicily và khi Carthage đưa hải quân của mình đến giải vây, La Mã hủy diệt hoàn toàn lực lượng hải quân này. Lần đầu tiên kể từ khi thành lập, đế chế Carthage chuốc lấy thất bại trên biển. Cuộc chiến chấm dứt với chiến thắng không thực sự thuộc về bên nào. Năm 241 trước cn, 1 hiệp ước được ký năm 241 giữa 2 bên với việc Carthage phải rời bỏ Sicily (dù chưa bị mất vào tay La Mã) và bồi thường 1 khoản cho chiến tranh. Ngay sau đó, Carthage phải đối mặt với các vụ nổi loạn của lực lượng lính đánh thuê, và La Mã hưởng lợi từ sự lộn xộn này với việc chiếm được đảo Corsica. La Mã rất e ngại người Carthage và muốn xây dựng 1 vùng đệm an toàn càng lớn càng tốt giữa La Mã và Carthage. Sau Sicily và Corsica, La Mã tiếp tục muốn đẩy người Carthage ra khỏi Sardinia, hòn đảo phía tây bán đảo Italy. Carthage phản ứng bằng cách gia tăng sức mạnh ở Châu Âu. Trước tiên, họ đưa tướng Hamilcar và con rể ông ta là Hasdrubal tới Tây Ban Nha thiết lập chế độ thuộc địa và xây dựng quân đội. Ở đây, hai cha con này lập quan hệ đồng minh với các nước vùng Iberia, và quân đội Carthage chiêu mộ từ các quốc gia đồng minh lặng lẽ lớn mạnh và quyền lực cùng ảnh hưởng của Carthage vươn khắp bán đảo Iberia.

Chiến tranh Punic lần 2 (218-202 trước CN)

Rất lo lắng trước tình hình này nên khi Saguntum, 1 thành phố nhỏ ở TBN yêu cầu Rome trở thành đồng minh, La Mã đã không từ chối. Vài năm sau, Hannibal, 1 tướng trẻ 25 tuổi trở thành tổng chỉ huy quân Carthage ở TBN. Lúc đầu, Hannibal cho phép người Saguntum sử dụng các bến cảng rộng lớn để tránh xung đột với La Mã. Nhưng Saguntum với giúp đỡ của người đồng minh La Mã, bắt đầu chơi trò chính trị với các thành phố TBN khác. Bỏ qua những đe dọa trực tiếp từ La Mã, Hannibal tấn công và chiếm giữ Saguntum. La Mã cố gắng thu xếp vấn đề này bằng con đường ngoại giao. Họ yêu cầu Carthage cách chức Hannibal và đưa ông này đến Rome. Chiến tranh Punic lần 2 nổ ra năm 218 trước cn khi Carrthage khước từ yêu cầu này. Nhưng lần này, La Mã phải đối mặt với 1 địch thủ đáng sợ. Trong thời gian sau cuộc chiến lần 1, Carthage đã tạo ra 1 đội quân hùng mạnh. Hannibal đã đưa đội quân này đi dọc Châu Âu và tháng 9 năm 218, ông đưa quân Carthage vượt dãy Alpes bắt đầu cuộc xâm lược Italy. Dù mệt mỏi vì quãng đường vận động chiến, Hannibal vẫn ngay lập tức đập tan quân La Mã ở phía bắc Italy. Chiến thắng ngoạn mục này đã khiến nhiều chiến binh du mục Gaul gia nhập đoàn quân của Hannibal nâng tổng số quân của ông lên trên 50000. Chiến thắng của Hannibal trước người La Mã được đảm bảo bằng việc thuyết phục các đồng minh của La Mã và sát nhập nhiều thành phố vào Carthage.

Người La Mã hiểu rằng họ không thể đánh bại Hannibal. Tuyệt vọng, La Mã trao quyền cho nhà độc tài Quintus Fabius Maximuss. Fabius ra lệnh tránh chiến tranh trực diện bằng mọi giá, chỉ đánh du kích cho tới khi quân Carthage suy yếu đủ để tấn công trực diện. Nhưng khi Hannibal hành quân tới Cannae (trận Can) năm 216 trước cn, Fabius đưa 1 đội quân 80000 người ra chống lại. Đội quân này ngay lập tức bị Hannibal tiêu diệt hoàn toàn, đây là thất bại lớn nhất Rome từng trải qua. Các đồng minh phía Nam Italy của La Mã chạy sang phía Hannibal, toàn bộ Sicily trở thành đồng minh của Carthage. Thêm vào đó, vua Philip V xứ Macedon, người kiểm soát hầu hết lãnh địa Hy Lạp cũng ngả theo Hannibal và bắt đầu cuộc chiến tranh chống lại La Mã năm 215 trước cn. Tình hình gần như tuyệt vọng đối với La Mã. Fabius không còn dũng khí đối đầu với Hannibal. Hannibal đưa quân đội vòng quanh Italy mà không còn bất cứ sự chống cự nào. Tuy nhiên, Hannibal không có đủ lực lượng và trang bị để bao vây hay tấn công ồ ạt các thành phố như Rome. Tất cả những gì ông có thể làm là đi khắp các miền nông thôn Italy và tàn phá nó.

La Mã quyết định tấn công hậu phương của Hannibal. Biết rằng Hannibal phụ thuộc vào nguồn cung cấp nhân lực và vật lực từ TBN, La Mã trao cho Publius Cornelius Scipio (237-183 trước cn), 1 thiên tài về chiến lược chức Thống đốc Tây Ban Nha, 1 hành động không hợp hiến vì vị tướng trẻ này chưa bao giờ là quan chấp chính. Scipio, sau này được gọi bằng cái tên Scipio Africanus vì chiến thắng của ông trước người Carthage trên đất Châu Phi, đã nhanh chóng chinh phục toàn bộ TBN. Đến lúc này, Hannibal bị mắc cạn trên đất Italy. Sau đó, Scipio đưa quân vào Châu Phi và buộc người Carthage phải đề nghị Rome 1 hiệp ước hòa bình. Một phần của hiệp ước này là Hannibal phải rời khỏi bán đảo Italy. Hannibal là 1 trong những danh tướng vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới. Trong suốt cuộc chiến tranh với La Mã, ông không hề thua 1 trận nào. Dù vậy ông vẫn buộc phải rút lui. Và dù thắng trong tất cả các trận đánh, Hannibal đã thua trong cuộc chiến tranh này. Khi Hannibal quay trở lại, người Carthage lấy lại tinh thần và thêm 1 lần nữa nổi dậy chống lại La Mã. Năm 202 trước cn, Hannibal và Scipio giao chiến ở At Zama phía bắc Châu Phi và tại đây Hannibal nếm chiến bại đầu tiên. Carthage bị đưa xuống thành 1 bang độc lập. La Mã lúc này kiểm soát toàn bộ miền tây Địa Trung Hải bao gồm cả khu vực Bắc Phi.

Cuộc chiến này mang đến cho La Mã những kinh nghiệm lịch sử. Họ đã phải đối mặt với những thất bại hiển nhiên trước một địch thủ hùng mạnh và cuối cùng đã chiến thắng những kẻ thù vượt trội này. Tính cách La Mã được nhìn nhận từ cuộc chiến tuyệt vọng này đã xuyên suốt phần còn lại của lịch sử đế chế. Chiến tranh Punic lần 2 đưa La Mã từ 1 quyền lực có tính khu vực trở thành 1 đế chế trên toàn thế giới. Với việc Philip V của Macedon bắt tay với Hannibal tiến hành chiến tranh chống lại Rome, La Mã chuyển hướng chiến tranh về phía đông trước tiên xâm chiếm Macedon và sau đó là các vương quốc Hi Lạp khác. Kết quả cuối cùng của chiến tranh Punic lần 2 là sự thống trị thế giới của La Mã.

Chiến tranh Punic lần 3 (149-146 trước CN)

Trong những năm tiếp theo, La Mã tiếp tục chinh phục các quốc gia Hy Lạp ở phía đông. Ở phía tây, họ đàn áp tàn bạo người Iberian và trút thịnh nộ lên đầu người Carthage. Các nhà sử học đã ghi lại lời của 1 lãnh tụ hàng đầu của La Mã là Cato rằng khi kết thúc 1 bài phát biểu về bất cứ vấn đề gì, ông này cũng có câu: ?otôi cho rằng phải hủy diệt Carthage?. Trong nửa đầu thế kỷ thứ 2 trước cn, dù không giành lại được nhiều quyền lực nhưng với các hoạt động thương mại, Carthage cũng đã khôi phục lại nhiều phần sự thịnh vượng trước kia. La Mã càng ngày càng nghi ngờ sự hồi sinh của Carthage và yêu cầu người Carthage từ bỏ thành phố của họ để lùi sâu vào trong lục địa Bắc Phi. Carthage, xứ sở buôn bán phụ thuộc vào giao thương trên biển khước từ yêu cầu này. Viện nguyên lão La Mã tuyên bố chiến tranh. Sau 1 thời gian bao vây, người La Mã chiếm được thành phố, binh lính La Mã đi từng nhà tàn sát dân cư Carthage. Đây có lẽ là vụ hành quyết có hệ thống đẫm máu nhất trước thế chiến II. Những người Carthage còn sống bị bán làm nô lệ. Cảng biển và thành phố bị phá hủy.

Chinh phục Hy Lạp

Trong thời gian La Mã đang bận rộn với những tranh chấp chính trị nội bộ và cuộc chinh phục Italy thì người Hy Lạp gốc Macedonia (nằm giữa Nam Tư và Hy Lạp) đã chinh phục hầu hết lãnh địa Hy Lạp và sau đó vươn bàn tay đế quốc ra khắp thế giới. Năm 324 trước cn, khi mà Rome vẫn chưa chinh phục hết Italy và vẫn đang sa lầy trong mối xung đột giữa giới quý tộc và dân nghèo, thì toàn bộ lãnh địa thế giới nằm phía đông La Mã đã thuộc về 1 người đàn ông duy nhất, Alexander Đại Đế, nhà quân sự có thể coi là vĩ đại nhất trong lịch sử cổ đại. Sau khi chinh phục toàn bộ Ba Tư, Alexander bất ngờ chết để lại đế chế mênh mông ông đã dựng lên trong sự xâu xé của các tướng lĩnh. Năm 312 trước cn, Seleucus, 1 trong các viên tướng này xưng vua tại Babylon và phần đất rộng lớn phía đông Hy Lạp, sau đó tiếp tục mở rộng lãnh thổ tới phía đông Anatolia (Thổ Nhĩ Kỳ) và phía bắc Syria thành lập Seleucid, đệ nhị đế chế Hy Lạp. Nhưng La Mã dường như không quan tâm lắm đến những sự kiện chấn động này. Bị chi phối bởi những vấn đề trong nội bộ, La Mã không quan tâm lắm đến tình hình bên ngoài và chưa nhìn nhận đế quốc Hy Lạp như 1 mối đe dọa. Nhưng chiến tranh Punic lần 2 đã làm tất cả thay đổi. Rome gần như đã bị hủy diệt bởi người Carthage và vương quốc Macedonian (dưới quyền trị vì của Philip V 221-179 trước cn) lại liên minh với Carthage. Thế giới Hy Lạp xuất hiện trong mắt của người La Mã như là mối đe doạ lớn nhất đến từ bên ngoài.

Philip V là 1 vị vua nhiều tham vọng, muốn mở rộng lãnh thổ và biến Macedonia thành 1 đế chế. Không may cho ông ta, Antiochus III (223-187 trước cn), vị vua của đế chế Seleucid cũng có cùng tham vọng này. Antiochus III bắt đầu chiếm đoạt lãnh thổ Palestine, tranh giành quyền kiểm soát Ptolemies thuộc Ai Cập. Đồng thời, Philip V cũng bắt đầu vươn tay tới biển Aegean (nằm giữa bán đảo Hy Lạp và vùng tiểu Á thuộc Thổ Nhĩ Kỳ) và vùng tiểu Á. 2 vị vua này thấy giải pháp tốt nhất là bắt tay nhau cùng chinh phục Ai Cập sau đó mới tính đến chuyện chia chác.

La Mã, sau khi trải qua kinh nghiệm cay đắng với Carthage, đã trở nên rất cảnh giác với các quốc gia có tham vọng đế chế bên ngoài. Họ đã chống lại Philip V trong thời gian chiến tranh Punic lần II (cuộc chiến này được gọi là Chiến tranh Macedonian lần I) và sau này lại yêu cầu ông ta chấm dứt việc xâm chiếm đất đai Hy Lạp. Philip V từ chối, và La Mã cử tướng Flaminius tiến đánh Macedon năm 200 trước cn, cuộc chiến Macedonia lần 2 bắt đầu. Sau 3 năm, Flamiuss đánh bại Philip V trong trận Thessaly (địa danh nằm ở miền trung Hy Lạp, phía bắc biên giới Macedonia) và đến năm 196 trước cn thì tuyên bố các thành phố Hy Lạp được độc lập.

Nhưng La Mã vẫn rất cảnh giác với Antiochus III. Vị vua này đưa quân lên đất Hy Lạp tấn công người La Mã nhưng nhanh chóng bị đánh bật khỏi Hy Lạp rồi bị thảm bại trong trận Magnesia ở Tiểu Á năm 189 trước cn. Trong cuộc chiến này, người La Mã không chiếm đoạt đất đai mà chỉ buộc Antiochus nộp 1 khoản tiền phạt lớn. Nói chung, La Mã coi các thành phố Hy Lạp như những thành phố tự do ít tiềm lực, và La Mã coi mình là người bảo vệ Hy Lạp, và bằng cách này ngăn chặn sự phát triển của bất kỳ quyền lực tập trung nào có khả năng đe dọa Rome. Năm 179 trước cn, Philip V chết, người kế vị là Perseus khuấy động phong trào dân chủ và tinh thần cách mạng ở Hy Lạp. Và La Mã lại xâm lược Hy Lạp. Cuộc chiến Macedonia lần 3 nổ ra (172-168 trước cn). Không giống với lần trước, khi cuộc chiến này kết thúc, dù vẫn không chiếm đất đai nhưng Rome áp đặt luật lệ bá chủ rất cứng rắn đối với các đồng minh cũng như các thành phố phụ thuộc nhằm ngăn chặn mọi ngọn lửa cách mạng. La Mã đã học được từ việc kiểm soát các thành phố ở Italy rằng có thể kéo dài sự thần phục của các thành phố này nếu duy trì được sự đàn áp dứt khoát, nhanh chóng và tàn bạo.

Lúc này, đế chế La Mã đã thành hình. La Mã đáp trả các mối đe dọa ngay khi nó chỉ mới sắp xẩy ra. Việc đánh bại Perseus đi kèm với việc cướp phá các thành phố bị chinh phục 1 cách nặng nề. Thêm vào đó, khoản tiền phạt mà những kẻ bại trận phải chịu làm ngập đầy kho tàng La Mã. Đồng thời, ở phía Tây, các quan chức đại diện của La Mã đánh thuế nặng lên những người bị cai trị. Đến giữa thế kỷ 2 trước cn, La Mã đã trở thành 1 cỗ máy làm tiền khổng lồ với những affair có lợi đến mức không tưởng. Tuy nhiên, lượng của cải khổng lồ này đã khơi dậy mối xung đột giai cấp có từ trước đây và nền cộng hòa sẽ phải sống trong cơn khủng hoảng trong hơn 100 năm tới, cơn khủng hoàng mà tại thời điểm nó kết thúc, sẽ xô đổ nền cộng hòa và đưa La Mã ngả sang chế độ độc tài.

Cuộc khủng hoảng của nền cộng hòa

Giới bình dân La Mã bao gồm những nông dân, thợ thủ công và những lao động chân tay khác. 1 phần nông dân làm việc trong những trang trại nhỏ của riêng mình, phần còn lại cùng với các thợ thủ công và các loại lđ khác đ làm thuê cho giới quý tộc với mức lương không tồi. Chiến tranh Punic lần II đã thay đổi tận gốc rễ sự sở hữu tài sản trong xã hội. Hannibal đã san bằng các miền nông thôn khi vận động chiến quanh La Mã, toàn bộ của cải của quốc gia được tập trung sau những bức tường thành Rome để bảo vệ. Bên ngoài, nhà cửa và ruộng đất của hàng vạn nông dân bị phá hủy. Sau chiến tranh, giới quý tộc càng giàu thêm vì chiến lợi phẩm chiến tranh mua sạch đất đai trồng trọt. Đến giữa thế kỷ II trước cn, nền nông nghiệp La Mã hoàn toàn bị chi phối bởi các đồn điền mênh mông thuộc sở hữu của những chủ đất giàu có đến mức không tưởng. Những nông dân khánh kiệt tràn vào các thành phố kiếm việc làm. Đây mới chỉ là phần chìm của tảng băng xung đột.

Trong khi đó các cuộc chiến Punic và Macedonia đã cung cấp cho La Mã rất nhiều nô lệ. Trước đây, La Mã đã có những lao động là nô lệ, nhưng phải đến giữa thế kỷ 2 trước cn, sự chuyển đổi từ nền kinh tế lao động làm công sang lao động nô lệ mới thực sự diễn ra. Đến cuối thế kỷ 2 trước cn, phần lớn dân số La Mã thuộc tầng lớp nô lệ. Tình trạng này làm giảm đi các cơ hội việc làm và thu nhập tốt cho người lđ gốc La Mã. Nếu muốn có công việc, họ buộc phải chấp nhận mức thu nhập thậm chí thấp hơn những người nô lệ, mức đã không thể đủ sống. Tình trạng này tạo ra 1 làn sóng di trú khổng lồ của những người LĐ từ thành phố này sang thành phố khác ở La Mã với nỗi oán giận ngày càng tăng. Thùng thuốc súng khủng hoảng đã được châm ngòi.

Nội chiến Grachhi

Năm 133 trước cn, tranh chấp đưa La Mã vào nội chiến. Tiberius Gracchus, vị quan hộ dân đại diện cho dân chúng đề nghị giới hạn quyền sở hữu đất đai dưới 640 acre (1 acre ~ 0.4 ha), và như vậy lấy đi phần lớn đất đai của giới quý tộc. Những người có trên 640 acre đất phải trả lại phần dôi để Nhà nước chia cho dân nghèo. Tất nhiên, giới thượng lưu và viện nguyên lão La Mã tìm mọi cách có thể để phản đối dự luật này. Họ nắm được vị quan hộ dân thứ hai là Octavius và thuyết phục ông này phủ quyết cải cách ruộng đất của Gracchus. Khó chịu vì bị phản đối, Gracchus cách chức Octavius, 1 hành động vi hiến rõ ràng. Khi nhiệm kỳ kết thúc, Gracchus tiếp tục có thêm hành động vi hiến thứ 2 là tham gia kỳ bầu cử cho nhiệm kỳ tiếp theo. Bạo loạn nổ ra trong lần bầu cử này và Gracchus bị 1 nhóm các nghị sĩ ám sát, lần đầu tiên trong lịch sử tồn tại, người La Mã chém giết lẫn nhau.

Nhiều người đã không đánh giá đúng vai trò của Tiberius Gracchus đối với lịch sử La Mã. Dù cuộc cải cách của ông thất bại, nhưng Gracchus đã tạo ra một phong cách chính trị mới: phục vụ đa số. Trước Gracchus, những thay đổi chính trị được thực hiện chủ yếu do những yêu cầu của, và để phục vụ 1 thiểu số là giới quý tộc. Tuy nhiên, Tiberius lại tìm kiếm những thay đổi vì lợi ích của số đông dân chúng và hoàn toàn không đếm xỉa đến giới quý tộc. Điều đó đã tạo ra 1 lớp chính trị gia mới ở La Mã, những người được gọi là chính trị gia mị dân do những cố gắng giành quyền lực của họ bằng cách thu hút sự ủng hộ trong dân chúng. Đối lập với những chính trị gia kiểu này, giới quý tộc tiếp tục nỗ lực duy trì cơ cấu chính trị truyền thống: phục vụ tầng lớp giàu có.

Tiberius chết nhưng nhà Gracchi chưa dừng lại ở đó. Liên tiếp hai năm 123 và 122 trước cn, Gaius Gracchus (em trai Tiberius) được bầu là quan hộ dân. Có nguồn ủng hộ khổng lồ từ dân chúng, Gaius tìm cách thông qua rất nhiều bộ luật tại quốc hội. Đầu tiên, ông ra luật bình ổn giá cả ngũ cốc bằng việc cho xây dựng các nhà kho chứa ngũ cốc thừa từ mùa trước. Dự luật thứ hai sẽ mang lại cho ông rất nhiều sự chống đối là trao quyền công dân cho tất cả người Italy (nhằm làm tăng quyền lực của bản thân Gaius). Năm 121 trước cn, Viện nguyên lão thông qua 1 luật định yêu cầu các quan chấp chính bảo vệ nền cộng hòa và tuyên bố Gaius Gracchus là kẻ thù của nhà nước. Gaius bị săn đuổi và tự sát, hàng ngàn người ủng hộ ông bị giết và treo cổ.

Marius

Sau đó ít lâu, năm 111 trước cn La Mã bắt đầu cuộc chiến với Jugurtha, vị vua của Numidia (1 quốc gia bắc Phi nằm phía nam Carthage). Cuộc chiến này được gọi là chiến tranh Jugurthine, đã được tiến hành không triệt để và sự nghi ngờ của người La Mã đối với viện nguyên lão tăng lên. Vì vậy, năm 107 trước cn, Gaius Marius (157-86 trước cn) được bầu làm quan chấp chính và được cử đến Numidia. Marius nhanh chóng đánh bại Jugurhta. Nhưng người thực sự đánh bại hoàn toàn Jugurtha là Sulla (138-78 trước cn), 1 sĩ quan của Marius. Dù thuộc về 1 dòng dõi quý tộc lâu đời nhưng Sulla là 1 vị tướng nghèo. Còn Marius lại là 1 quý tộc mới, người đầu tiên trong dòng họ đạt được vị trí cao trong xã hội. Cả 2 đều không được giới quý tộc La Mã công nhận. Sulla cho rằng Marius đã giành lấy tín nhiệm bằng những chiến công không thuộc về mình. Sự ganh đua giữa hai ông này là nguyên nhân của cuộc nội chiến năm 88 trước cn. Marius là 1 nhà cải cách sáng tạo. Ông thay đổi hoàn toàn cơ cấu quân đội của mình bằng cách hầu như chỉ sử dụng những người tình nguyện. Họ là những người nghèo nhất La Mã, những người vẫn nuôi dưỡng lòng căm thù với chế độ đặc biệt từ sau khi anh em Gracchi bị giết. Marius đưa ra lời hứa sẽ chia chiến lợi phẩm chiến tranh và ruộng đất để đổi lấy sự phục vụ lâu dài của đội quân này. Và 1 cái gì đó mới mẻ đã xuất hiện. Sự bần cùng đã đẩy 1 lượng lớn người nghèo thành binh lính, và những binh lính này có lòng trung thành và sự biết ơn sâu sắc không phải là với nhà nước mà với vị tướng bảo trợ của họ. Sự tôn sùng cá nhân này đã trao cho Marius, và những tướng lãnh khác trong tương lai, 1 quyền lực mà họ chưa bao giờ có trước đây.

Sulla

Trong những năm 80 trước cn, La Mã phải giải quyết hàng loạt cuộc chiến với các đồng minh Italy, những người phải chịu đựng sự bất công lớn. Sulla chứng tỏ mình là 1 tướng giỏi trong suốt các cuộc chiến này và được bầu làm quan chấp chính năm 88 trước cn. Khác với Marius, Sulla coi mình thuộc về giới quý tộc. Ông ta đánh bại Marius trong cuộc nội chiến. Viện nguyên lão, lo sợ sự chống đối của dân chúng, đã trao cho Sulla quyền lực độc tài. Đến lúc này, vị trí độc tài đã là vị trí hợp hiến. Chính phủ La Mã được phép trao toàn bộ quyền lực quân vương cho 1 cá nhân trong thời gian của cuộc khủng hoảng. Vị quân vương này sẽ không phải chia sẻ quyền lực với 1 người khác như dưới chế độ quan chấp chính. Sulla ngay lập tức thực hiện cải cách chính phủ trong vòng 3 năm với việc khôi phục quyền lực của Viện nguyên lão và cắt đứt quyền của quốc hội. Dù ý định là khôi phục lại hình thức chính phủ ban đầu nhưng Sulla sử dụng 1 biện pháp khác hẳn. Ông ta sử dụng quân đội để giết tất cả các đối thủ (và thậm chí những người không phải là đối thủ). Nền tảng của đế chế đã có những đứt gãy nguy hiểm.

Bắt đầu của sự kết thúc

Cuộc cải cách của Sulla mang lại sự phản kháng dữ dội. Sau khi Sulla chết, viện nguyên lão phải đối mặt với các cuộc nổi loạn có vũ trang. Năm 70 trước cn, hai chính trị gia nhiều tham vọng là Crassus và Pompey lên làm quan chấp chính và ngay lập tức bãi bỏ hiến pháp của Sulla. 1 trào lưu chính trị mới xuất hiện. Crassus và Pompey liên minh với các quan hộ dân và quốc hội chống lại viện nguyên lão cùng giới quý tộc.
Năm 67 trước cn, Pompey được trao quyền lãnh đạo toàn bộ vùng Địa Trung Hải trong 3 năm, và quyền lực này được kéo dài trong nhiều năm tiếp theo để ông có thể tiếp tục cuộc chiến ở vùng Tiểu Á. Đến cuối giai đoạn này, Pompey đã trở thành nhà lãnh đạo nổi tiếng nhất ở La Mã. Việc này khiến Crassus lo sợ vì ông ta không có vị trí quan trọng như Pompey trong cả viện nguyên lão lẫn Quốc hội. Và Crassus quyết định liên minh với các chính trị gia tiếng tăm khác, trong đó nổi bật nhất là Gaius Julius Caesar (100-44 trước cn). Caesar xuất thân từ 1 gia đính quý tộc lâu đời, và là vị tướng thiên tài chỉ huy quân La Mã ở Tây Ban Nha và Gaul.

Khi Caesar trở về từ Tây Ban Nha, ông yêu cầu 1 cuộc diễu binh chiến thắng vòng quanh Rome. Viện nguyên lão từ chối cuộc diễu binh này vì sợ ảnh hưởng của ông tới đám đông dân chúng. Caesar thuyết phục Pompey và Crassus hòa giải và thể chế tam hùng đầu tiên được thành lập bao gồm 3 chính trị gia nói trên. Chính phủ này chấm dứt quyền lực của chính phủ và bắt đầu sự kết thúc của nền cộng hòa La Mã.

JULIUS CAESAR

Chính phủ tam tài đầu tiên bao gồm Caesar, Crassus và Pompey bắt đầu nắm quyền lực năm 59 trước cn sau khi Caesar được bầu làm quan chấp chính. Chương trình cải cách của chính phủ mới được ban hành và Caesar trở thành thống đốc của 2 tỉnh Gaul (phía bắc Italy) và Illycrium (ven biển Adriatic của Nam Tư). Các chiến dịch chinh phục bằng quân sự là con đường để vươn tới quyền lực ở La Mã, bằng cách đó tạo cho các tướng lãnh 1 đội quân trung thành, sự giàu có, sự ủng hộ và uy tín ở Rome. Chức thống đốc ở 2 tỉnh nói trên cho phép Caesar thực hiện ước mơ chinh phục của mình.

Lúc này người La Mã không có lý do gì phải xâm chiếm khu vực Trung và Bắc Âu. Những bộ lạc Đức và Celt (chủng người cổ đại sống chủ yếu ở Trung và Tây Âu, có hậu duệ là những người Ireland, Wale, cao nguyên Scotland và ven biển phía bắc nước Pháp ngày nay) sống ở khu vực này là những bộ lạc bán du cư. Tỉnh Illycrium là vùng đệm đủ an toàn cho La Mã đối với bất cứ sự đe dọa nào đến từ những bộ lạc này. Nhưng Caesar vẫn đã thực hiện những cuộc chinh phục kỳ diệu hướng về vùng đất này. Với hàng loạt những chiến dịch quân sự thiên tài, Caesar kéo dài đường biên giới của đế chế La Mã ra mãi phía bắc các nước Pháp, Bỉ và thậm chí cả phía nam vương quốc Anh, khuất phục hoàn toàn những người Celt sống tại đây. Khi Caesar hoàn tất cuộc chinh phục của mình thì chính phủ tam tài của ông tan rã. Crassus chết trong cuộc chiến chống lại người Parrhian (người Ba Tư cổ đại) ở Trung Đông, Pompey quay lưng lại Caesar và lôi kéo viện nguyên lão chống lại ông. Viện nguyên lão tuyên bố Caesar là kẻ thù của đế chế và ra lệnh cho ông giao lại quyền thống lãnh và vùng đất đang trị vì. Caesar không tuân theo mệnh lệnh này. Với đội quân tuyệt đối trung thành, năm 49 trước cn, Caesar đưa quân vượt sông Rubicon vào Italy. Nội chiến bùng nổ.

Đây là cuộc chiến giưa 2 vị tướng vĩ đại là Pompey và Caesar. Từ tháng 1 năm 49 trước cn đến lúc xảy ra trận Pharsalus (9/8/48 trước cn) trên đất Hy Lạp, cuộc chiến chia cắt đế quốc La Mã với các trận đánh trên đất Italy, Tây Ban Nha, châu Phi, Gaul, và cuối cùng là Hy Lạp. Chỉ 1 tuần trước trận Pharsalus, quân đội của Caesar phải chịu 1 thất bại nghiêm trọng trong 1 chiến dịch bao vây quân Pompey kéo dài tại thị trấn Dyrrhachium trên bờ biển phía bắc Hy Lạp. Sau khi đột phá vòng vây, Pompey đã có thể hủy diệt phần lớn đội quân thiện chiến của Caesar nếu cho quân truy kích ngông ngừng nghỉ như Caesar đã nhận xét 1 cách khinh bỉ sau trận đánh: ?okẻ thù đã có thể giành chiến thắng hôm nay nếu chúng có 1 vị chỉ huy biết cách làm thế nào để chiến thắng? (Suetonius). Không gặp sự ngăn cản đáng kể nào, Caesar rút lui về Thessaly, nơi mà đội quân mệt mỏi vì hậu cần thiếu thốn sau nhiều tháng bao vây đối thủ, tìm thấy đầy đủ lương thực cho người và cỏ cho ngựa. Ở đây, Caesar tái hợp với các đơn vị đặc biệt của ông dưới quyền chỉ huy của tướng Domitius Calvinus.

Trong khi đó, Pompey nhập đội quân của mình với 1 đội quân mới do tướng Metellus Scipio chỉ huy và theo Caesar về hướng tây nam, tiến vào nội địa Hy Lạp đến 1 cánh đồng nằm phía ngoài 1 thương trấn nhỏ có tên Pharsalus, giao lộ của con đường giao thương đông-tây. Caesar có khoảng 22000 bộ binh và 1000 kỵ binh dàn trận trên cánh đồng phía bờ bắc sông Enipeus. Pompey đối trận với 45000 quân ở vị trí cao hơn trên cánh đồng. Đội quân của Caesar chủ yếu gồm những binh lính đã theo ông tham chiến trong 10 năm ở Gaul, trong khi binh lính của Pompey, dù đông gấp hơn 2 lần, lại chỉ là những người nô lệ và số quân được huấn luyện sơ sài do các vị vua đồng minh cung cấp. Rất nhiều sử gia đã lưu ý rằng quân đội Pompey vào trận với tinh thần rất cao vì đã chiến thắng đội quân huyền thoại của Caesar trước đó 1 tuần. Và Pompey dường như đã sờ thấy chiến thắng. Caesar triển khai quân đội trong nhiều ngày trên mảnh đất rộng 4 dặm ngăn cách giữa 2 đối thủ để nhử Pompey vào trận. Tuy nhiên, Pompey đã trở nên thận trọng sau thời gian đối chiến với Caesar. Ông ta muốn tiêu hao sinh lực địch bằng cách bỏ thời gian chờ đợi nhằm khai thác vấn đề tiếp tế và sự bất mãn của quân lính Caesar theo thời gian trong khi bản thân Pompey được đảm bảo nguồn tiếp tế liên tục cả về lương thực và người từ phía đông. Pompey cho rằng không lợi lộc gì để khai chiến nhưng Pompey không chỉ có 1 mình. Xung quanh ông ta có quá nhiều các nghị sĩ có quyền lực. 1 số thiếu kinh nghiệm, 1 số phấn khích quá đà vì chiến thắng tại Dyrrhachium, còn số khác đã quá mệt mỏi với cuộc chiến và muốn chấm dứt nó ngay lập tức. Tất cả bọn họ thúc giục Pompey khai chiến, liên tục hướng sự chú ý của Pompey vào Caesar, người đang nóng lòng tham chiến. Dưới các áp lực này, và đi ngược lại chiến thuật của bản thân mình, Pompey buộc phải tham chiến. Caesar rất hài lòng với điều này vì nguồn tiếp tế của ông rất hạn hẹp và Pompey đáng lẽ chỉ cần chờ đợi. Pompey dường như rất lo lắng về trận đánh này khi có 1 tuyên bố rất khó hiểu với đội quân của mình: ? “Bất cứ chiến thắng thuộc về bên nào, ngày hôm nay sẽ là ngày bắt đầu của 1 giai đoạn khủng khiếp và không có kết thúc với La Mã? “(Appian)

Caesar tham chiến với các quân đoàn số 8,9,10,11 và 12 chia thành 80 toán quân với tổng số quân gần 22000 bộ binh, 1000 kỵ binh nặng và một số nhỏ kỵ binh nhẹ. Pompey có 110 toán quân tổng số lên đến 45000 bộ binh gồm đủ cả chủ lực và dự bị được yểm trợ bởi 3000 quân cung nỏ, 1200 quân bắn đá và 7000 kỵ binh. Đội quân này là sự tập hợp của các quân đoàn La Mã với các quân

0