Cuộc chiến cân não trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ năm 1973
Cuộc chiến cân não trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ năm 1973 Minh Thành (tổng hợp) Nếu bị tấn công lập tức đáp trả Địa Trung Hải trước năm 1967. Êm đềm và lắng dịu. Dẫu biết rằng người Mỹ đã triển khai cả một hạm đội hoàn chỉnh (Hạm đội 6), nhưng phía Liên Xô vẫn chỉ duy ...
Cuộc chiến cân não trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ năm 1973
Minh Thành (tổng hợp)
Nếu bị tấn công lập tức đáp trả
Địa Trung Hải trước năm 1967. Êm đềm và lắng dịu.
Dẫu biết rằng người Mỹ đã triển khai cả một hạm đội hoàn chỉnh (Hạm đội 6), nhưng phía Liên Xô vẫn chỉ duy trì ở đây một lượng binh lực mang tính tượng trưng. Nhưng sau cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ 3 (từ mùng 5-10/6/1967), Mátxcơva bắt đầu chú ý đến tầm quan trọng của sự hiện diện về quân sự tại Địa Trung Hải. Trung đội chiến đấu số 5 ra đời và lấy Địa Trung Hải làm địa bàn đứng chân.
Sở dĩ Liên Xô gọi đơn vị này là Trung đội, chủ yếu nhằm tránh làm cho Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) cảm thấy bị khiêu khích. Thực chất đây là tiểu hạm đội Địa Trung Hải và người Liên Xô thành lập nó để đối kháng với Mỹ ở khu vực biển có lợi ích đặc biệt quan trọng này. Cụ thể tiểu hạm đội Địa Trung Hải làm nhiệm vụ giám sát hoạt động của Hạm đội 6, không ngừng gây áp lực đối với cụm tầu sân bay của Mỹ, trinh sát sự bố trí của tầu ngầm hạt nhân mang tên lửa đạn đạo (SSBN), đánh giá sự uy hiếp của SSBN đối với lãnh thổ Liên Xô và làm suy yếu quyền kiểm soát biển của hải quân Mỹ.
Khu vực Trung Đông những ngày đầu tháng 10/1973. Nóng bỏng và sục sôi.
Do không thể giành lại những vùng đất bị mất bằng con đường ngoại giao, ngày 6/10, các nước Arập, trong đó có Ai Cập, Xyri phát động chiến tranh giành lại phần lãnh thổ bị chiếm đóng. Lúc này ở Địa Trung Hải, hải quân Mỹ bố trí 48 chiếc tầu chiến, gồm tầu chỉ huy USS Mount Whitney (LCC 20), 4 tầu ngầm tuần tra và toàn bộ số tầu chiến thuộc lực lượng tác chiến đặc nhiệm số 60 và 61. Phía Liên Xô có 11 chiếc tầu ngầm cùng một số tầu mặt nước. Mức độ căng thẳng giữa tiểu hạm đội Địa Trung Hải và Hạm đội 6 ở tầm thấp. Liên Xô về cơ bản vẫn tiến hành các hoạt động thông thường thời bình. Chỉ huy Hạm đội 6 một mặt xiết chặt kỷ luật, không cho binh lính lên bờ, một mặt công khai tuyên bố không ra lệnh cho bất cứ tầu chiến nào lên đường tới khu vực xung đột.
Ngày 8/10, quân Ai Cập chiếm lĩnh bờ đông kênh đào Suez, xây dựng trận địa tiền duyên có chiều sâu 8-10 km. Sau khi tiến vào Cao nguyên Golan được 7-10 km, quân Xyri dừng bước tấn công. Ixraen lập tức mở chiến dịch phản kích trên hai tuyến nhằm vào cả quân Ai Cập lẫn quân Xyri. Cũng đúng lúc này, cụm tàu sân bay Independence của Mỹ hội quân với tầu chỉ huy USS Mount Whitney (LCC 20) bố trí ở phía nam đảo Crete (Hy Lạp). Lực lượng tác chiến đặc nhiệm số 61 trong biên chế Hạm đội 6 nhận lệnh di chuyển đến vịnh Suda ở phía bắc đảo Crete.
Vì phải điều động từ xa, mất nhiều thời gian di chuyển nên tới tận ngày 10/10, hải quân Liên Xô mới chỉ có 21 tàu mặt nước ở Địa Trung Hải. Mặc dù vậy, do những chiến hạm này được bố trí ở khu vực biển phía đông Địa Trung Hải, gần Hạm đội 6, nên hải quân Liên Xô hoàn toàn có thể tạo thế đánh chặn hữu hiệu đối với hải quân Mỹ.
Từ ngày 9/10, Liên Xô bắt đầu cung cấp vũ khí và trang thiết bị hậu cần cho Ai Cập cùng Xyri. Mátxcơva ra lệnh cho tầu chỉ huy Volga, tầu tuần dương Grozny và 3 tầu khu trục lớp Kashin theo dõi hoạt động của cụm tầu chiến đấu sân bay của Mỹ ở phía nam đảo Crete. Như một đòn trả đũa, Mỹ quyết định tăng cường cho cụm tàu sân bay Independence thêm 3 tầu hộ tống. Không chịu kém cạnh, Liên Xô đưa tầu trinh sát tình báo AGI tới giám sát hoạt động của lực lượng tác chiến hỗn hợp đặc biệt của hải quân Mỹ ở vịnh Suda (phía tây bắc đảo Crete, Hy Lạp). Ngày 10/10, tiểu hạm đội Địa Trung Hải tiếp tục nhận được sự tăng viện từ Hạm đội Biển Đen.
Dưới mặt nước, lực lượng tầu ngầm của Liên Xô được bố trí theo phương thức: 1 tàu ngầm trang bị tên lửa lớp Echo (loại 657) và một chiếc tàu ngầm trang bị tên lửa lớp Julius lần lượt cơ động ở hướng tây và hướng nam cụm tầu chiến đấu hỗn hợp đặc biệt của Hạm đội 6 nằm gần đảo Crete; một chiếc tầu ngầm lớp November được bố trí ở phía đông Hạm đội 6. Ngoài ra, rất nhiều tầu ngầm của Liên Xô đang hoạt động ở Đại Tây Dương, vùng biển phía tây Địa Trung Hải cũng nhận được lệnh tới khu vực biển gần đảo Crete.
Rõ ràng, Liên Xô muốn phát đi lời cảnh báo: nếu Mỹ can dự vào hành động vận chuyển vũ khí, trang bị hậu cần của Liên Xô, nước này sẵn sàng ra đòn phản kích bằng vũ lực. Quả thực vào những thời khắc đó, tất cả các tầu chiến của Liên Xô ở Địa Trung Hải đều đặt trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu, binh lính trên tầu vũ trang tới tận chân răng và sẵn sàng phản đòn ngay lập tức nếu bị tiến công.
Mức độ căng thẳng tăng lên vào ngày 11/10. Trong lúc tấn công cảng Tatus của Xyri, quân Ixraen đã bắn chìm tầu buôn Ilya Metchnikoff mang quốc kỳ Liên Xô. Mặc dù Ten Avíp năm lần bẩy lượt giải thích rằng chiếc tàu buôn này không nằm trong danh sách các mục tiêu tấn công mà mục tiêu tấn công thực sự là hai chiếc tàu chiến của Xyri (cũng bị bắn chìm trong cùng đợt tấn công), nhưng Mátxcơva không chấp nhận lời xin lỗi đó. Ngay trong ngày 11/10, Liên Xô ra lệnh đặt 3 sư đoàn đổ bộ đường không tinh nhuệ của mình trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu. Hai ngày sau, tàu khu trục của Liên Xô tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ hộ tống đoàn tầu vận tải hậu cần di chuyển men theo bờ biển Xyri. Khi đó, Ixraen đã dừng việc phản công vào trận địa tiền duyên của Xyri. Ngày 14/10, hải quân Liên Xô cho phép thuyền trưởng các tầu chiến đấu của mình ở Địa Trung Hải có thể ra lệnh bắn vào tất cả những máy bay, tầu thuyền nào của Ixraen cũng như của nước khác tạo ra sự uy hiếp đối với máy bay và đội tầu vận tải của Liên Xô.
Khi tình hình trở nên mất kiểm soát
Giai đoạn hai của cuộc chiến tranh giữa các nước Arập và Ixraen bắt đầu từ ngày 13/10. Hôm đó, Bộ tư lệnh vận tải đường không quân đội Mỹ khởi động kế hoạch ưu tiên cung cấp đạn dược cho Ixraen. Gần như đồng thời, Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ cũng ra lệnh tầu sân bay trực thăng USS Iwo Jima (LPH 2) mang theo 2.000 binh sĩ tiến thẳng về hướng Địa Trung Hải nhằm ngăn chặn khả năng Hồng quân Liên Xô đổ bộ lên khu vực này.
Bởi theo những tin tức tình báo người Mỹ có được thì Trung đội chiến đấu số 5 của Liên Xô liên tiếp được bổ sung thêm binh lực (từ hơn chục chiếc ban đầu, tới ngày 14/10, tổng số tầu của trung đội này đã lên tới 69 chiếc) và ngày càng có khả năng chi viện cho hành động tác chiến đổ bộ của lực lượng Hồng quân. Trong khi đó, một loạt tầu ngầm của Liên Xô bố trí ở Đại Tây Dương nhận được lệnh tới eo biển Gibraltar (nối Đại Tây Dương với Địa Trung Hải), đứng chân ở đó tiềm phục lực lượng tăng viện của Mỹ.
Ngày 15/10, Ixraen phát động tổng phản kích trên bán đảo Sinai. Với tư cách nước bạn bè của thế giới Arập, Liên Xô quyết định dấn thêm bước nữa trên con đường can dự vào cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ 4. Mátxcơva điều động chiếc tầu khu trục thứ 2 tới bố trí ở khu vực biển gần Xyri. Lực lượng tầu ngầm của Liên Xô cũng bắt đầu thực thi nhiệm vụ giám sát hoạt động quân sự gần các cảng biển của Ixraen.
Những tài liệu ghi chép lại diễn biến cuộc chiến tranh Trung Đông lần thứ 4 cho thấy khi đó giữa các tầu chiến đấu mặt nước của Liên Xô và quân Ixraen đã từng xảy ra nhiều cuộc đối kháng hữu hạn. Tuy nhiên, đây mới chỉ là hành động tác chiến mức độ thấp. Tiêu biểu là sự kiện xảy ra ngày 16/10. Trong lúc bảo vệ các tầu biển dân dụng của mình bốc dỡ hàng hoá tại cảng Lattakia ở Xyri, tầu quét lôi lớp Nadja và tầu đổ bộ cỡ trung bình SDK-137 thuộc Hạm đội Biển Đen của Liên Xô đã khai hỏa mãnh liệt vào những chiếc máy bay của Ixraen đang bay phía trên làm nhiệm vụ trinh sát.
Cho dù chủ yếu nhằm mục đích tự vệ, nhưng hành động này rất nguy hiểm. Bởi trước đó các nhà lãnh đạo Liên Xô luôn tuyên bố sẽ nghiêm chỉnh tuân thủ nguyên tắc tránh tham gia trực tiếp vào xung đột khu vực. Việc tầu chiến Liên Xô bắn máy bay Ixraen khiến các nước liên quan hiểu rằng Liên Xô đã tạm gác nguyên tắc trên và đã sẵn sàng cho hành động can dự trực tiếp vào chiến tranh giữa Arập và Ixraen.
Ngày 16/10, Liên Xô phái 1 tầu tuần dương Murmansk trang bị pháo hạm và tầu khu trục lớp Kotlin mới đến thay tàu tuần dương trang bị tên lửa Grozny và tầu khu trục lớp Kotlin tiếp tục thực thi nhiệm vụ theo dõi chặt chẽ mọi động thái của cụm tầu chiến đấu sân bay Independence (CV 62) ở phía nam đảo Krete (Hy Lạp).
Ngày 17/10, lực lượng thiết giáp quân đội Ixraen vượt qua Kênh đào Suez. Hồng quân Liên Xô liền vạch ngay kế hoạch đổ bộ lên bờ tây của Kênh đào Suez và đưa ra phương án sơ bộ biểu thị sức mạnh có giới hạn. Liệu Liên Xô sẽ ra tay hành động và Mỹ, nước bảo trợ an ninh cho Ixraen sẽ chịu ngồi im? Thế giới thấp thỏm lo lắng. Bởi tháng 1/1968, Liên Xô đã từng lên kế hoạch cho một hành động tác chiến kiểu này và mục đích cũng không ngoài việc ngăn chặn ý đồ chiếm Kênh đào Suez từ Ixraen. Khi đó, Liên Xô đã huy động một lực lượng binh lực không nhỏ, chỉ tính riêng thủy quân lục chiến đã gần 10.000 người và lúc nào cũng sẵn sàng lên tầu từ các căn cứ quân sự bên bờ Biển Đen để tham gia tác chiến đổ bộ.
Dường như chiến tranh giữa hai siêu cường là điều không thể tránh khỏi. Giai đoạn nguy hiểm nhất trong cuộc chiến cân não giữa Liên Xô và Mỹ trên Địa Trung Hải chuẩn bị bắt đầu.
Ngày 22/10, Ixraen phá vỡ hiệp định đình chiến ký với Ai Cập và Xyri. Tập đoàn quân số 3 của Ai Cập chiếm giữ bờ đông Kênh đào Suez bị quân Ixraen hợp vây, đứng trước nguy cơ xoá sổ. Cairô không ngừng phát đi tín hiệu cầu cứu.
Ngày 24/10, Liên hợp quốc lần thứ 2 đưa ra hiệp nghị ngừng bắn nhưng cũng không ngăn được chiến sự leo thang. Nụ cười chiến thắng bắt đầu nở trên môi người Ixraen.
Là nước bạn bè của thế giới Arập, Liên Xô không thể đứng nhìn. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên Xô Brezhnev lập tức trực tiếp gọi điện thoại cho Tổng thống Mỹ Nixon, nhấn mạnh Ixraen đã đi ngược lại Nghị quyết số 338 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, đồng thời đưa ra kiến nghị: Liên Xô và Mỹ phối hợp bố trí lực lượng gìn giữ hòa bình ở giới tuyến ngừng bắn (do Ai Cập yêu cầu thiết lập).
Thậm chí nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô còn tuyên bố, nếu Oasinhtơn cự tuyệt đề nghị này, Mátxcơva sẽ đơn phương hành động, không ngại can dự vào cuộc chiến tranh Trung Đông để cưỡng chế ngừng bắn.
Đối với phía Mỹ, điều làm Nhà Trắng và Lầu Năm góc cảm thấy bất an nhất chính là việc Liên Xô tăng cường binh lực tại Địa Trung Hải. Theo những tin tức tình báo mà Oasinhtơn có được, khi đó Liên Xô đã bố trí ở Địa Trung Hải 88 chiếc tầu chiến, ngay trong đòn tấn công đầu tiên có thể phóng tới 40 quả tên lửa chống hạm nhằm vào 40 mục tiêu khác nhau.
Không dừng lại, Liên Xô tiếp tục điều động thêm tầu chiến ở nơi khác đến tăng viện cho tiểu hạm đội Địa Trung Hải và đặt 7 sư đoàn đổ bộ đường không (15 vạn quân) đang đóng tại Ucraina trong tình trạng sẵn sàng chiến đấu. Tư lệnh hải quân Liên Xô Gorshkov thậm chí còn công khai tuyên bố đã ra lệnh cho lực lượng thủy quân lục chiến nước này sẵn sàng đổ bộ lên bờ biển Ixraen nhằm giải cứu tập đoàn quân số 3 của Ai Cập đang nằm trong vòng vây của Ten Avíp.
Tình hình Địa Trung Hải căng như dây đàn khi Mátxcơva quyết định điều động một biên đội tàu mặt nước lên đường đến cảng Said (Ai Cập) và phái hàng loạt máy bay trinh sát khu vực xảy ra chiến sự. Dường như người Liên Xô muốn giành lại cảng Said từ tay Ixraen.
Liên Xô dự tính: nhằm ngăn chặn hành động can dự của Mátxcơva, Hạm đội 6 của Mỹ có thể sẽ ra đòn phủ đầu nhằm vào các tầu chiến của nước này ở Địa Trung Hải, nên đã ra lệnh tăng cường tầu chi viện trang bị tên lửa chống hạm cho cụm tầu chiến đấu hải quân của Liên Xô đóng ở phía nam đảo Crete.
Dưới sự hộ tống của 1 tầu khu trục trang bị tên lửa lớp Kashin và 1 tầu khu trục trang bị pháo hạm lớp Kotlin, tầu tuần dương Grozny gia nhập lực lượng theo dõi cụm tầu chiến đấu sân bay Independence (CV 62) của Mỹ (lực lượng này trước đây chỉ có tầu trang bị pháo hạm).
Ở khu vực biển gần đảo Crete vào thời điểm đó, Liên Xô đã tập kết được 2 tầu tuần dương trang bị pháo hạm, 8 tầu khu trục lớp Kashin trang bị tên lửa và 2 tầu khu trục lớp Kotlin trang bị pháo hạm.
Ở phía bắc cảng Said, Liên Xô bố trí 4 tầu đổ bộ loại lớn lớp Crocodylia và 5 tầu đổ bộ cỡ trung bình (tất cả đều chở đầy lực lượng đổ bộ đường biển), 1 tầu khu trục trang bị tên lửa, một số tầu khu trục trang bị pháo hạm và tầu quét lôi. Nhiệm vụ hộ tống được giao cho tầu hộ vệ lớp Riga.
Chưa yên tâm, Mátxcơva tiếp tục điều động thêm hai chiếc tầu đổ bộ từ Biển Đen mang theo 1.000 lính thủy quân lục chiến cùng trang bị vũ khí khởi hành tới Địa Trung Hải. Ngoài ra, 5 chiếc tầu ngầm khác cũng được lệnh tới Địa Trung Hải, đưa tổng số tầu ngầm của Liên Xô khi đó ở Địa Trung Hải lên tới 28 chiếc.
Ngày 25/10, sau một cuộc họp khẩn cấp kéo dài suốt đêm, Nhà Trắng đã đưa ra câu trả lời đanh thép cho đề nghị của Brezhnev: đặt tất cả các lực lượng vũ trang trong tình trạng chuẩn bị chiến tranh cấp độ 3 (thời đó Mỹ có 5 cấp độ chuẩn bị chiến tranh).
Cả thế giới sửng sốt rồi lo lắng.
Thực hiện mệnh lệnh của Nhà Trắng, Hội đồng tham mưu liên quân Mỹ ra lệnh cho hai cụm tầu sân bay đang ở phía tây Eo biển Gibraltar là Kennedy và Roosevelt tiến đến Địa Trung Hải hội quân với cụm tầu sân bay Independence. Bộ Quốc phòng Mỹ cũng yêu cầu lực lượng không quân của hải quân nước này ngừng thực thi nhiệm vụ chi viện cho các hoạt động vận tải đường không của Ixraen, đồng thời ra lệnh cho tất cả các tầu chiến ngoài 2 biên đội bảo vệ tuyến đường trên biển ra, lập tức gia nhập cụm tầu sân bay Independence (CV 62) và Franklin D. Roosevelt (CV 42).
Rõ ràng, những cuộc trao đổi điện thoại giữa Brezhnev và Nixon đã không đem lại kết quả tích cực. Không chùn bước, nhà lãnh đạo tối cao của Liên Xô liền gửi công hàm chính thức phản đối kịch liệt hành động của Mỹ. Cảm nhận được lập trường cứng rắn của Mátxcơva, ông chủ Nhà Trắng bắt đầu lo ngại và cảm thấy Liên Xô hoàn toàn có thể sử dụng tên lửa hạt nhân để dằn mặt Ten Avíp.
Sau khi được Mỹ cho biết ý đồ của Liên Xô và kiên quyết yêu cầu chấm dứt hành động quân sự, cuối cùng, Ixraen đã phải đồng ý ngừng bắn. Kế hoạch đổ bộ lên Kênh đào Suez của Hồng quân Liên Xô vì thế cũng bị hủy bỏ vào phút cuối. Chiều 25/10, Liên Xô đồng ý bố trí ở giới tuyến ngừng bắn một lực lượng gìn giữ hòa bình không có sự tham gia của quân đội hai siêu cường.
Cho dù như vậy, Mátxcơva vẫn ra lệnh cho các tầu chiến của mình có mặt ở Địa Trung Hải tiến hành diễn tập tấn công tầu sân bay với quy mô lớn. Mật độ và phương thức thao diễn của cuộc diễn tập này khiến người Mỹ vô cùng lo lắng bởi trong tập trận tất cả các hoạt động tác chiến trên biển của Liên Xô đều trực tiếp lấy tầu sân bay Mỹ làm mục tiêu ngắm bắn. Đứng trước kế hoạch tác chiến tận diệt của Hồng quân Liên Xô, Lầu Năm góc quả thực không tìm ra được biện pháp nào đối phó hữu hiệu. Cục trưởng Cục tác chiến hải quân Mỹ lúc bấy giờ là Thượng tướng Elmore đã thốt lên một cách bi quan: “Nếu chiến tranh bùng phát, chúng ta có thể sẽ mất toàn bộ số tầu chiến ở phía đông Địa Trung Hải”.
Ai là người tháo ngòi nổ
Chiến tranh Trung Đông lần thứ 4 kết thúc, nhưng không vì thế mà cuộc đối đầu trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ lắng dịu. Do hải quân Mỹ không chịu rút những tầu chiến tăng viện cho Hạm đội 6, nên hải quân Liên Xô vẫn tiếp tục tăng cường binh lực cho tiểu hạm đội Địa Trung Hải.
Ngày 26/10, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ khi đó là James R.Schlesinger tuyên bố dỡ bỏ tình trạng chuẩn bị chiến tranh cấp độ 3. Tuy nhiên, quyết định này không đặt Hạm đội 6 trong phạm vi điều chỉnh. Binh lính và vũ khí trang bị thuộc Hạm đội 6 vẫn nằm trong trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao nhất.
Cũng trong ngày 26/10, tư lệnh tiểu hạm đội Địa Trung Hải ra lệnh bắt đầu cuộc diễn tập chống tầu sân bay cường độ cao mà mục đích của nó không ngoài việc tập luyện kỹ năng tấn công tầu sân bay. Tất cả các tầu chiến của Mỹ đang có mặt ở Địa Trung Hải trở thành mục tiêu mô phỏng trong cuộc diễn tập này của tiểu hạm đội Địa Trung Hải.
Ngày 29/10, biên đội chống tầu sân bay số 4 của Liên Xô do tầu tuần dương trang bị tên lửa Grozny chỉ huy tiến vào Địa Trung Hải, từ ngày 31/10 bắt đầu thực hiện nhiệm vụ theo dõi tầu sân bay John F. Kennedy (CV 67) của Mỹ. Trong khi đó, nhiệm vụ theo dõi tầu sân bay trực thăng USS Iwo Jima (LPH 2) được giao cho biên đội chống tầu sân bay số 5
Ngoài ra, Mátxcơva còn ra lệnh cho tầu khu trục hộ tống hai chiến hạm trang bị tên lửa hiện đại nhất của hải quân Liên Xô lúc bấy giờ là tầu hộ vệ lớp Nanuchka (loại 1234) tới Địa Trung Hải. Ngay trong lần ra mắt này, tầu hộ vệ lớp Nanuchka đã phải gánh vác nhiệm vụ nặng nề: gia nhập biên đội chống tầu sân bay. Như vậy, tính đến ngày 31/10, tổng số tầu chiến của tiểu hạm đội Địa Trung Hải đã lên tới 96 chiếc, trong đó có 34 tầu mặt nước và 23 tầu ngầm, tạo nên mối đe dọa nghiêm trọng đối với các lực lượng Mỹ có mặt ở Địa Trung Hải.
Về phía Mỹ, lúc này ở Địa Trung Hải, Lầu Năm góc bố trí 60 chiếc tầu chiến, chủ yếu là loại tấn công, trong đó đáng chú ý là 3 tầu sân bay, 2 tầu sân bay trực thăng (đã nêu ở trên) và 9 tầu ngầm. Rõ ràng, nếu xem xét trên góc độ tương quan so sánh lực lượng, người Mỹ đang ở thế bất lợi và ngày càng trở nên suy yếu trước sự gia tăng binh lực của Liên Xô. Do đó, Lầu Năm góc quyết định lựa chọn phương án tối ưu: đánh đòn phủ đầu trong trường hợp xung đột không thể tránh khỏi.
Theo đánh giá của các chuyên gia quân sự Mỹ khi đó, với thực lực của mình, ngay trong đợt tấn công đầu tiên, tiểu hạm đội Địa Trung Hải có thể phóng tới 88 quả tên lửa, chủ yếu nhằm vào 3 tầu sân bay của Mỹ là Independence (CV 62), Franklin D.Roosevelt (CV 42), John F. Kennedy (CV 67) và 2 tầu sân bay trực thăng là USS Iwo Jima (LPH 2), USS Guadalcanal (LPH 7).
Tất cả các tầu chiến của tiểu hạm đội Địa Trung Hải đều đã sẵn sàng và chỉ đợi hiệu lệnh tấn công là hành động. Ở khoảng cách không xa so với tầm với của pháo hạm và tên lửa là toàn bộ lực lượng của Hạm đội 6 cũng đang căng lên như dây đàn. Áp lực lên tới đỉnh điểm. Bóng ma của một cuộc huyết chiến trên Địa Trung Hải giữa Liên Xô và Mỹ dường như đã ló dạng.
May mắn thay điều đó đã không xảy ra. Vào phút cuối, Oasinhtơn phát đi tín hiệu hòa hoãn bằng quyết định ra lệnh cho các cụm tầu sân bay của Hạm đội 6 rời khỏi phía nam đảo Crete đi về hướng tây. Mức độ căng thẳng nhanh chóng giảm xuống. Đáp lại thiện ý của phía Mỹ, từ ngày 3/11, Liên Xô cho khởi động tiến trình rút tầu chiến ra khỏi khu vực biển này. Địa Trung Hải trở về với sự êm đềm vốn có của nó.