18/06/2018, 15:45

Nghĩ lại về chiến tranh

JOSHUA S. GOLDSTEIN Foreignpolicy , Số tháng 9 và 10/ 2011 Hiếu Tân dịch Joshua S. Goldstein là giáo sư danh dự về quan hệ quốc tế tại Đại học Tổng hợp Hoa Kỳ và là tác giả của Thắng cuộc chiến tranh về chiến tranh: Sự giảm xung đột vũ trang trên toàn thế ...

110809_thinkagain1

JOSHUA S. GOLDSTEIN

Foreignpolicy, Số tháng 9 và 10/ 2011

Hiếu Tân dịch

Joshua S. Goldstein là giáo sư danh dự về quan hệ quốc tế tại Đại học Tổng hợp Hoa Kỳ và là tác giả của Thắng cuộc chiến tranh về chiến tranh: Sự giảm xung đột vũ trang trên toàn thế giới

1. “Thế giới ngày nay là nơi nhiều bạo lực hơn trước?” 

Không hề. Đầu thế kỷ 21 dường như ngập trong những cuộc chiến tranh: Những cuộc xung đột ở Afghanistan và Iraq, những trận đánh trên đường phố ở Somalia, người Islamist nổi dậy ở Pakistan, những vụ tàn sát ở Congo, những chiến dịch diệt chủng ở Sudan. Nhìn chung, ngày nay đánh nhau diễn ra liên miên trong 18 cuộc chiến tranh trên khắp toàn cầu. Công luận nghĩ về chiều hướng này như một thế giới nguy hiểm hơn bao giờ hết: trong cuộc điều tra ý kiến cách đây mấy năm, 60 phần trăm người Mỹ coi chiến tranh thế giới thứ ba là có thể xảy ra. Những hy vọng cho một thế kỷ mới là ảm đạm thậm chí trước cả những cuộc tấn công ngày 11 tháng Chín 2001 và hậu quả đẫm máu của nó: nhà khoa học chính trị James G. Blight và cựu Bộ trưởng Quốc phòng Hoa Kỳ Robert McNamara hồi đầu năm ấy cho rằng chúng ta có thể đợi thấy trên toàn thế giới trung bình mỗi năm 3 triệu người chết vì chiến tranh  trong thế kỷ 21. 

Cho đến nay chúng vẫn chưa kết thúc. Thật ra thập kỷ vừa qua đã thấy số người chết vì chiến tranh ít hơn bất kỳ thập kỷ nào khác trong vòng 100 năm qua, dựa trên những số liệu do các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Hòa bình Oslo, Bethany Lacina và Nils Petter Gleditsch, biên soạn. Trên toàn thế giới những cái chết gây ra bởi bạo lực trực tiếp liên quan đến chiến tranh trong thế kỷ mới trung bình là 55.000 người một năm, chỉ bằng nửa con số những năm 1990 (100.000 người mỗi năm) một phần ba con số của chiến tranh lạnh (180.000 mỗi năm từ 1950 đến 1989) và một phần trăm trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai. Nếu bạn tính đến sự tăng dân số toàn cầu, trong thế kỷ qua tăng gần gấp bốn lần, thì sự giảm tỉ lệ còn mạnh hơn nữa. Khác xa với một thời đại chém giết vô chính phủ, hai mươi năm sau khi Chiến tranh Lạnh chấm dứt đã là một thời đại tiến bộ nhanh chóng đạt tới hòa bình. 

Xung đột vũ trang đã giảm phần lớn bởi vì xung đột vũ trang đã thay đổi về cơ bản. Những cuộc chiến tranh giữa các nước thù địch lớn gần như đã biến mất cùng với Chiến tranh Lạnh, mang đi theo chúng các loại vũ khí hủy diệt hàng loạt khủng khiếp. Ngày nay những cuộc chiến tranh du kích không cân sức có thể là khó trị và hiểm ác, nhưng chúng sẽ không bao giờ còn tạo ra những gì giống như cuộc bao vây Leningrad. Cuộc xung đột cuối cùng giữa hai cường quốc lớn, Chiến tranh Triều Tiên, thật sự đã kết thúc cách nay gần 60 năm. Cuộc chiến tranh khủng bố kéo dài liên tục giữa hai kẻ thù truyền kiếp, Ethiopia và Eritrea, đã kết thúc cách nay một thập kỷ. Ngay cả các cuộc nội chiến, mặc dầu là tai họa dai dẳng, cũng ít thường xuyên hơn so với trong quá khứ; năm 2007 ít hơn một phần tư so với năm 1990. 

Nếu thế giới cho ta cảm giác có nhiều bạo lực hơn thực tế, vì rằng chính nó có nhiều thông tin hơn về chiến tranh – chứ không phải có nhiều cuộc chiến tranh hơn. Những cuộc chiến và những tội ác chiến tranh xưa kia ở những nơi xa xôi thì nay thường xuyên xuất hiện trên TV và trên màn hình máy tính của chúng ta, và ít nhiều gần với thời gian chúng xảy ra trong thực tế. Máy ảnh trên điện thoại di động đã biến các công dân thành những phóng viên trong nhiều vùng chiến sự. Những qui phạm xã hội về việc tạo ra cái gì từ những thông tin ấy cũng đã thay đổi. Như nhà tâm lý học Steven Pinker đã nhận xét, “Việc giảm hành vi bạo lực diễn ra song song với sự suy giảm trong thái độ dung túng hoặc tôn vinh bạo lực,” do đó chúng ta thấy tính hung bạo ngày nay – dù đã mềm đi bởi những tiêu chuẩn lịch sử – như những dấu hiệu về cách hành xử của chúng ta đã tụt xuống thấp đến thế nào, không phải những tiêu chuẩn của chúng ta đã được nâng lên đến mức nào.” 

2.“Nước Mỹ đang đánh nhiều cuộc chiến tranh hơn bao giờ hết” 

Đúng và không. Rõ ràng là Hoa Kỳ đã bước vào một tình trạng chiến tranh kể từ sự kiện11/9, với một cuộc chiến vẫn đang tiếp diễn ở Afghanistan đã vượt qua Chiến tranh Việt Nam như cuộc xung đột dài nhất trong lịch sử nước Mỹ, và cuộc chiến tranh chặn trước ở Iraq tỏ ra còn kéo dài hơn, đẫm máu hơn và tốn kém hơn chờ đợi của bất cứ ai. Cộng thêm sự can thiệp hiện tại của NATO vào Libya và những cuộc xâm phạm của máy bay không người lái vào Pakistan, Somalia, và Yemen, và không có gì đáng ngạc nhiên rằng chi phí quân sự của Mỹ đã tăng lên hơn 80% theo giá thực trong thập kỷ qua. Với 675 tỉ $ năm nay, nó đã cao hơn 30% so với cuối thời kỳ Chiến tranh Lạnh. 

Nhưng mặc dầu những cuộc xung đột của thời kỳ sau ngày 11/9 có thể dài hơn những cuộc xung đột của các thế hệ trước, chúng cũng nhỏ hơn nhiều và làm chết ít người hơn. Một thập kỷ chiến tranh của Mỹ kể từ 2001 đã giết chết khoảng 6.000 người so với 58.000 ở Việt Nam và 300.000 trong Thế Chiến II. Mỗi cuộc đời mất đi vì chiến tranh là tổn thất quá lớn, nhưng những cái chết ấy phải được nhìn trong bối cảnh: Năm ngoái số người Mỹ chết do ngã từ trên giường xuống nhiều hơn trong tất cả các cuộc chiến tranh của Mỹ cộng lại.|1| 

Và cuộc chiến ở Iraq và Afghanistan đã diễn ra trong bối cảnh đóng cửa các căn cứ và rút bớt nhân viên ở các nơi khác trên thế giới. Việc tăng tạm thời quân số Hoa Kỳ ở Nam Á và Trung Đông, từ 18.000 lên 212.000 từ năm 2000 đi ngược với việc rút vĩnh viễn gần 40.000 quân khỏi châu Âu, 34.000 khỏi Nhật Bản và Nam Triều Tiên, và 10.000 khỏi châu Mỹ Latin trong thời kỳ này. Khi các lực lượng Mỹ về nhà từ những cuộc chiến tranh hiện tại – và một số lớn họ sẽ về trong tương lai gần, bắt đầu từ 40.000 lính từ Iraq và 33.000 từ Afghanistan vào năm 2012 –  số lính Mỹ được triển khai trên toàn thế giới sẽ ít hơn bất kỳ thời gian nào kể từ những năm 1930. Tháng Sáu Tổng thống Barack Obama đã đúng khi ông nói “Cơn thủy triều chiến tranh đang rút xuống.” 

3.“Chiến tranh đã man rợ hơn đối với dân thường?” 

Khắc nghiệt hơn. Tháng Hai 2010, một máy bay không kích của NATO bắn trúng một ngôi nhà ở quận Marja của Afghanistan, giết ít nhất chín thường dân trong ngôi nhà đó. Tấn thảm kịch đó đã kéo theo lời buộc tội và tạo nên tin tức, dẫn đến chỉ huy tối cao của NATO trong nước này phải xin lỗi Tổng thống Afghanistan Hamid Karzai. Phản ứng này cho thấy rõ chiến tranh đã thay đổi như thế nào. Trong Thế Chiến II, quân đồng minh ném bom giết hàng trăm nghìn dân thường ở Dresden và Tokyo không phải do tình cờ, mà là một vấn đề chiến thuật; Đức, tất nhiên, giết hàng triệu dân thường. Và ngày nay khi dân thường gặp nguy hiểm, thì có nhiều người lo lắng cho họ hơn. Số tiền nhân đạo chi cho việc sơ tán tính theo đầu người đã lên theo giá thực từ 150 $ vào đầu những năm 1990 đến 300$ vào năm 2006. Tổng số viện trợ nhân đạo quốc tế đã tăng từ 2 tỉ $ năm 1990 lên 6 tỉ $ năm 2000 (theo tuyên bố của các nước viện trợ) và 18 tỉ $ năm 2008. Đối với những người bị kẹt trong cảnh giao tranh, chiến tranh ngày nay đã nhân đạo hơn trước. 

Tuy nhiên nhiều người vẫn khăng khăng cho rằng tình hình là ngược lại. Chẳng hạn, các công trình có căn cứ vững chắc về gìn giữ hòa bình trong các cuộc nội chiến (công trình được giải thưởng của Roland ParisVào lúc kết thúc chiến tranh và Chiến tranh và Xây dựng Hòa bình của Michael Doyle và Nicholas Sambanis) cũng như những báo cáo tiêu-chuẩn-vàng về xung đột từ Ngân hàng Thế giới và Ủy ban Carnegie về Phòng ngừa Xung đột Chết người, cho chúng ta biết 90 phần trăm những người chết trong các cuộc chiến tranh ngày nay là thường dân trong khi mười phần trăm là quân đội – nghịch đảo với cách đây một thế kỷ và “một dấu chỉ độc ác về sự biến dạng của xung đột vũ trang” cuối thế kỷ 20, như nhà khoa học chính trị Kalevi Holsti diễn tả. 

Tất nhiên là độc ác – nhưng may mắn là nó không đúng. Huyền thoại này xuất phát từ Báo cáo Phát triển con người của LHQ năm 1994, nó đã hiểu sai công trình mà nhà nghiên cứu Thụy điển Christer Ahlström đã làm năm 1991 và ảnh hưởng nguy hại của chiến tranh vào đầu thế kỷ 20 được cô đúc lại một cách ngẫu nhiên với số người chết, bị thương và phải tản cư nhiều hơn nhiều ở cuối thế kỷ 20. Một phân tích thận trọng hơn năm 1999 của nhà nghiên cứu William Eckhardt cho thấy tỉ lệ quân đội chết so với dân thường là 50-50, như trong nhiều thế kỷ (mặc dầu có sự khác nhau giữa các cuộc chiến tranh). Nếu bạn không may là một dân thường trong một vùng chiến sự thì tất nhiên những thống kê này không dễ chịu cho lắm. Nhưng trên quy mô toàn thế giới, chúng ta đang có tiến bộ trong việc giúp cho những người dân thường bị hại vì chiến tranh. 

|[1] |Nguyên văn: Last year more Americans died from falling out of bed than in all U.S. wars combined (Đây là một căn bệnh về rối loạn giấc ngủ, người bệnh ngã từ trên giường xuống trong khi ngủ).

4. “Các cuộc chiến tranh sẽ tồi tệ hơn trong tương lai?” 

Có thể không.  Tất nhiên, mọi chuyện đều có thể xảy ra. Một cuộc chiến tranh đang phát triển mạnh giữa Pakistan và Ấn Độ chẳng hạn có thể có tiềm năng giết hàng triệu người. Nhưng như vậy một tiểu hành tinh hay – có lẽ dự đoán an toàn nhất – những trận bão khổng lồ do biến đổi khí hậu gây ra cũng có thể làm được như thế. Tuy nhiên, những lực lượng lớn thúc đẩy các nền văn minh theo hướng xung đột thảm họa thì hầu như đang giảm xuống. 

Những thay đổi công nghệ trong thời gian gần đây đã làm cho chiến tranh đỡ man rợ hơn. Những máy bay không người lái ngày nay tấn công các mục tiêu mà trong quá khứ cần đến một cuộc xâm lược với hàng nghìn binh lính vũ trang nặng, di dời số lớn thường dân và phá hủy những tài sản có giá trị trên dường đi của nó. Một sự cải thiện về thuốc men ở chiến trường đã làm cho các trận đánh ít tử vong hơn cho các bên tham chiến. Trong quân đội Mỹ, tỉ lệ chết do vết thương chiến tranh đã giảm từ 30 % trong Thế Chiến II xuống 10% trong chiến tranh Iraq và Afghanistan – mặc dù điều đó cũng có nghĩa rằng Hoa Kỳ ngày nay đang thấy một tỉ lệ cao hơn những cựu chiến binh thương phế cần tiếp tục giúp đỡ và chăm sóc. 

Những cuộc dịch chuyển cân bằng quyền lực cũng không buộc chúng ta phải chịu một tương lai chiến tranh liên miên không dứt. Trong khi một số nhà khoa học chính trị lập luận rằng một thế giới càng đa cực thì càng bất tường, dễ thay đổi – rằng hòa bình sẽ được bảo đảm tốt nhất bởi uy thế vượt trội của một cường quốc bá chủ duy nhất, tức là Mỹ – lịch sử địa chính trị gần đây cho ta thấy ngược lại. 

Quyền lực tương đối của Hoa Kỳ và xung đột trên toàn thế giới trong thập kỷ qua đã lần lượt theo nhau suy yếu. Những ngoại lệ của xu thế này làIraq và Afghanistan là những cuộc chiến tranh không cân sức do bá quyền phát động chứ không phải bị thách thức bởi những cường quốc mới nổi. Tiền lệ tốt nhất cho trật tự thế giới đang nổi lên hôm nay có thể là Dàn nhạc Châu Âu thế kỷ 19, một sự phối hợp của các cường quốc lớn nói chung đã duy trì được hòa bình trong một thế kỷ cho đến khi nổ ra cuộc Chiến tranh Thế giới thứ nhất đẫm máu. 

Còn Trung Hoa thì sao, mối đe dọa quân sự đang lớn lên được quảng cáo rùm beng trong thời kỳ hiện nay? Quả thật Bắc Kinh đã hiện đại hóa các lực  lượng vũ trang của nó, đưa mức tăng chi phí quân sự lên hàng hai chữ số, hiện nay khoảng một trăm tỉ đô la mỗi năm. Nó đứng hàng thứ hai chỉ sau có Mỹ, nhưng là một hàng hai cách xa: Lầu Năm góc chi tiêu mỗi năm gần 700 tỉ. Trung Hoa không chỉ còn rất xa mới ngang hàng với Mỹ, không rõ là tại sao nó lại muốn đứng ngang hàng. Một cuộc xung đột quân sự (đặc biệt là với khách hàng và con nợ lớn nhất của nó) sẽ làm trở ngại tư thế thương mại toàn cầu của Trung Hoa và gây nguy hiểm cho sự phát đạt của nó. Từ khi Mao chết, Trung Hoa đã là cường quốc lớn hòa bình nhất trong thời của nó. Đối với tất cả mối lo ngại gần đây về một hải quân Trung Hoa mới tự khẳng định trong những vùng biển quốc tế có tranh chấp, quân đội Trung Hoa chưa bắn một phát súng nào trên chiến trận trong vòng 25 năm nay. 

5. “Một thế giới dân chủ hơn sẽ là một thế giới hòa bình hơn?” 

Không nhất thiết. Cái nhận xét cũ mèm về những nước dân chủ thật sự hầu như không bao giờ đánh nhau là đúng về mặt lịch sử, nhưng cũng đúng là các nước dân chủ luôn luôn sẵn lòng đánh những nước không dân chủ. Thật ra nền dân chủ có thể đề cao xung đột bằng cách khuếch trương các lực lượng sắc tộc và dân tộc chủ nghĩa của nó khiến các nhà lãnh đạo phải nhượng bộ tình cảm gây hấn để giữ được quyền lực. Cả Thomas Paine và Immanuel Kant đều tin rằng nhưng kẻ chuyên quyền ích kỷ thích gây ra chiến tranh, trong khi người dân thường là người phải chịu chi phí, thì bất đắc dĩ phải đánh nhau. Nhưng hãy thử nói điều đó với các nhà lãnh đạo của một Trung Hoa độc tài đang cố gắng kiềm chế để không khích động một chủ nghĩa dân tộc phổ biến ngấm ngầm chống lại những kẻ thù lịch sử là Nhật Bản và Hoa Kỳ. Dư luận công chúng trong một nước dân chủ ngập ngừng như Ai Cập tỏ ra thù địch với Israel hơn nhiều so với chính quyền độc tài của Hosni Mubarack (mặc dù có thái độ thù địch và thật sự lao vào chiến tranh là hai việc hoàn toàn khác nhau). 

Vậy tại sao các nước dân chủ hạn chế các cuộc chiến tranh của họ trong các nước không dân chủ hơn là đánh lẫn nhau? Không ai biết thật sự tại sao. Như Charles Lipson có lần đã châm biếm về khái niệm một nền hòa bình dân chủ “Chúng ta biết nó có tác dụng trong thực tế. Nay chúng ta còn phải xem nó có tác dụng trong lý thuyết hay không!” Lời giải thích tốt nhất là giải thích của các nhà khoa học chính trị Bruce Russett và John Oneal, họ lập luận rằng ba yếu tố – dân chủ, tương thuộc kinh tế (đặc biệt là thương mại) và sự lớn lên của các tổ chức quốc tế – là ủng hộ lẫn nhau và ủng hộ hòa bình bên trong cộng đồng các nước dân chủ. Các nhà lãnh đạo dân chủ tự thấy họ có ít cái để mất hơn trong việc chiến tranh với các chế độ chuyên quyền. 

6. “Gìn giữ hòa bình không có tác dụng” 

Bây giờ nó có tác dụng rồi  Đầu những năm 1990 phát triển mạnh những mũ sắt xanh, với 15 phái bộ gìn giữ hòa bình mới của Liên Hiệp Quốc từ 1991 đến 1993 – bằng số lượng của LHQ trong cả lịch sử đến thời gian ấy. Thời kỳ này cũng tiếp nhận những thất bại ngoạn mục nhất của lực lượng gìn giữ hòa bình. Tại Somalia, LHQ đến với sứ mạng làm nhẹ bớt nạn đói nhưng rồi chỉ để lâm vào một cuộc nội chiến và vội vã rút ra sau khi 18 binh sĩ Hoa Kỳ chết trong một cuộc đột kich năm 1993. ỞRwanda năm 1994, một lực lượng yếu của LHQ không được sự trợ giúp nào của Hội đồng Bảo an đã hoàn toàn thất bại trong việc ngăn ngừa một cuộc diệt chủng giết chết hơn một nửa triệu dân. Ở Bosnia, LHQ tuyên bố “những khu vực an toàn” cho dân thường, nhưng sau đó khi các lực lượng Serbia lúc đó tràn qua một khu vực như thế, Srebrenica, và hành hình hơn 7000 người và trẻ em trai. (Cũng có những thắng lợi của lực lượng gìn giữ hòa bình, như ở Namibia và Mozambique, nhưng người ta dường như muốn quên chúng) 

Để đáp lại, LHQ giao viết một báo cáo năm 2000, do nhà ngoại giao kỳ cựu Lakhdar Brahimi giám sát, xem xét các cố gắng của tổ chức này đã trở nên hỏng như thế nào. Khi đó LHQ đã sắp xếp lại nhân sự của lực lượng gìn giữ hòa bình trên khắp thế giới còn 80 phần trăm, nhưng khi nó bành trướng trở lại thì LHQ thích ứng với những bài học đã học được. Nó củng cố các năng lực kế hoạch và hậu cần và bắt đầu triển khai nhiều lực lượng vũ trang nặng có khả năng can thiệp vào các trận địa nếu cần. Kết quả là 15 phái bộ và 100.000 binh lính gìn giữ hòa bình của LHQ được triển khai trên toàn thế giới ngày nay đang đạt được thành công lớn hơn rất nhiều so với những người tiền nhiệm của họ. 

Nhìn chung, sự hiện diện của các lực lượng gìn giữ hòa bình tỏ ra đã giảm được một cách đáng kể khả năng châm ngòi lại những cuộc chiến tranh sau một hiệp định ngừng bắn. Trong những năm 1990, khoảng một nửa số cuộc ngừng bắn bùng nổ trở lại, nhưng trong thập kỷ qua con số này đã giảm xuống còn 12 phần trăm. Và dù cho địa vị của LHQ chỉ như một cái bung xung muôn thuở trong nền chính trị Hoa Kỳ khiến cho ta nghĩ ngược lại, những cố gắng này rất hợp lòng người: trong năm 2007, 79 phần trăm người Mỹ ủng hộ củng cố Liên Hiệp Quốc. Như thế không phải là nói rằng không còn gì phải cải thiện, thật ra còn rất nhiều. Nhưng LHQ đã làm được nhiều việc tốt trên khắp thế giới trong việc ngăn chặn chiến tranh. 

7.”Một số cuộc xung đột không bao giờ kết thúc? 

Không bao giờ nên nói không bao giờ. Năm 2005, các nhà nghiên cứu ở Viện Hòa bình đã mô tả đặc điểm các cuộc chiến tranh từ Bắc Ailen đến Kashmir, là “cứng đầu cứng cổ, trong đó họ chống lại mọi loại dàn xếp và giải pháp.” Tuy nhiên, sáu năm sau, một sự việc lạ lùng đã xảy ra: tất cả chỉ trừ một vài trong số các cuộc chiến tranh này (Israel-Palestine,Somalia, và Sudan) đã hoặc kết thúc hoặc có những bước tiến cơ bản đến kết thúc. Ở SriLanka, thắng lợi quân sự kết thúc chiến tranh, mặc dầu chỉ sau một tàn cuộc dã man trong đó cả hai bên bị cho là đã phạm những tội ác chiến tranh. Kashmir đã có một cuộc ngừng bắn khá yên ổn. Ở Colombia, chiến tranh tiếp tục một cách lẻ tẻ, được tài trợ bởi nguồn thu nhập từ ma túy, nhưng còn lại ít những cuộc đụng độ. Ở Balkans và Bắc Ailen, những dàn xếp hòa bình yếu ớt đã trở nên không còn yếu nữa, cũng khó hình dung nó có thể trượt trở lại những hoạt động chiến tranh qui mô lớn. Trong phần lớn các trường hợp ở châu Phi, – Burundi, Rwanda, Sierra Leone, Uganda, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Bờ Biển Ngà (mặc dù bạo lực lại bùng lên sau những cuộc bầu cử năm 2010, nay đã được giải quyết) – các phái bộ LHQ đã mang đến ổn định và làm cho tình hình khó trở lại một cuộc chiến tranh hơn (hay như trong trường hợp Congo và Uganda, ít nhất đã có vùng chiến tranh hạn chế) 

Chúng ta còn có thể làm được tốt hơn nữa không? Nhà nghiên cứu hòa bình đã quá cố Randall Forsberg năm 1997 đã thấy trước “một thế giới nói chung không có chiến tranh” thế giới trong đó “đang biến mất nguy cơ chiến tranh giữa các cường quốc lớn mở ra cánh cửa vào một tương lai trước đây không thể nào tưởng tượng nổi – một tương lai trong đó chiến tranh không còn được xã hội thừa nhận nữa, và hiếm hoi, ngắn và nhỏ về qui mô.” Rõ ràng là chúng ta chưa đi đến đó. Nhưng qua nhiều thập kỷ – và tất nhiên kể từ khi Forsberg đã viết những dòng này những qui phạm về các cuộc chiến tranh và đặc biệt về việc bảo vệ thường dân bị kẹt trong các cuộc chiến tranh đã tiến bộ nhanh chóng hơn nhiều so với bất kỳ ai có thể phán đoán thậm chí cách đây nửa thế kỷ. Tương tự, sự chuyển đổi nhanh chóng trong các qui phạm đã đi trước sự kết thúc chế độ nô lệ và chủ nghĩa thực dân, hai tai họa khác mà có lúc đã được coi như những đặc điểm vĩnh viễn của nền văn minh. Vậy cũng đừng ngạc nhiên nếu sự kết liễu chiến tranh cũng trở nên việc có thể nghĩ bàn một cách rõ ràng rành mạch./.

Hiếu Tân (vanchuongviet.org)

0