23/05/2018, 15:09

Nghề chăn nuôi ngỗng

Tình hình chăn nuôi ngỗng trên thế giới và trong nước Ngỗng là một trong những loài gia cầm được con người nuôi thuần hóa sớm nhất, từ những bức tranh cổ ngỗng luôn là đối tượng hiện diện rất gần với đời sống của con người. Ngành chăn nuôi ngỗng rất phát triển ở châu Âu và Trung Quốc. Tuy có lịch ...

Tình hình chăn nuôi ngỗng trên thế giới và trong nước

Ngỗng là một trong những loài gia cầm được con người nuôi thuần hóa sớm nhất, từ những bức tranh cổ ngỗng luôn là đối tượng hiện diện rất gần với đời sống của con người. Ngành chăn nuôi ngỗng rất phát triển ở châu Âu và Trung Quốc. Tuy có lịch sử phát triển lâu dài như vậy nhưng nghề chăn nuôi ngỗng không phát triển nhảy vọt như gà và vịt mà có những giai đoạn phát triển chậm và có khi giảm sút, nhất là trong thế thế kỷ vừa qua và hiện nay cũng có tốc độ phát triển không cao lắm. Theo điều tra của M.N. Romanov (2002) trên thế giới hiện nay chỉ còn hiện diện 59 giống ngỗng trong đó nhiều giống ngỗng có nguy cơ diệt chủng. Sản phẩm từ ngỗng là thịt, gan béo, mỡ và lông. Ngỗng được nuôi nhiều nhất ở Trung Quốc Số lượng và sản lượng ngỗng ở Trung Quốc và trên thế giớiSố lượng và sản lượng ngỗng ở Trung Quốc và trên thế giới Một số giống ngỗng chuẩn trên thế giớiMột số giống ngỗng chuẩn trên thế giới

Từ những giống ngỗng trên các nhà nghiên cứu đã chọn lọc và lai tạo cho ra những tổ hợp lai có năng suất trứng cao và thể trọng cao ở 3 tháng tuổi. Sức sản xuất của một số tổ hợp lai ngỗng xám và ngỗng trắng thể trọng lúc 93 ngày tuổi là 4,0 – 4,5 kg, ngỗng đực trưởng thành nặng 6-7 kg, ngỗng cái nặng 5,8 – 6,5 kg, năng suất trứng 35 – 45 trứng/năm, 2 lứa đẻ đạt 60 trứng và nhồi lấy gan có thể thu được 350 – 600g gan béo. Một ngỗng cái có thể sinh sản được 40 – 45 ngỗng con, từ đó có thể sản xuất ra 160 – 180 kg thịt, 70 – 80 kg mỡ và 20 – 25 kg gan béo, 1 – 2 kg lông tơ và 4 – 7 kg lông thô.

Ở Việt Nam chưa có nhiều tài liệu nói về nghề nuôi ngỗng, nhất là khu vực phía Nam, Theo Mạc Thị Quý và cs (1999) ngỗng được nuôi tại nhiều vùng như Gia Lâm, Đông Anh (Hà Nội), Cẩm Giàng, Khoái Châu (Hưng Yên), Vĩnh Yên, Vinh Lạc (Vinh Phú), Yên Phong, Việt Yên (Bắc Giang). Ngỗng được nuôi lẻ tẻ theo từng hộ gia đình vài con chứ chưa thành dàn lớn.

Những giống ngỗng nội như ngỗng Sen Trắng, ngỗng Sư Tử lông xám hầu như chưa có nghiên cứu về khả năng sản xuất cũng như vai trò kinh tế của chúng. Năm 1976 Việt Nam đã nhập ngỗng Rheinland về nuôi tại Viện Chăn nuôi quốc gia. Theo Nguyễn Đăng Vang (1986) ngỗng Rheinland dễ nuôi, thích nghi nhanh chóng với phương thức nuôi chăn thả tại nhiều địa phương ở miền Bắc và miền Trung. Năng suất cũng khá cao, trọng lượng lúc 63 ngày tuổi ngỗng đực nặng 4,0 – 4,5 kg, cái nặng 3,8 – 4, 2 kg. Năng suất trứng đạt 54 – 64 quả/vụ (Nguyễn Đăng Vang, 1986). Năm 1999 Mạc Thị Quý và cs khảo sát năng suất của đàn ngỗng Rheinland nuôi chăn thả trên nhiều địa phương Bắc bộ cho thấy kết quả rất khả quan, tỷ lệ nuôi sống ngỗng con từ 0 – 77 ngày tuổi là khá cao 91,7 – 95%, trọng lượng lúc 77 ngày tuổi đạt 4,0 kg (đực) và 3,6 kg (cái), Con lai giữa ngỗng đực xám địa phương với ngỗng cái Rheinland cho tỷ lệ nuôi sống rất cao, đạt 98,4% trong giai doạn 0 – 77 ngày tuổi. Trọng lượng lúc 77 ngày tuổi đạt bình quân 4,4 kg. Với phương thức nuôi chăn thả mức tiêu tốn thức ăn cho 1 kg trọng lượng sống rất thấp, 1,7 – 2 kg thóc và bắp.

Sản lượng trứng bình quân 57,3 quả trứng/vụ với tỷ lệ trứng có phôi bình quân 88,1%. bằng máy ấp cho tỷ lệ nở trung bình 63% trên tổng số trứng đem ấp. Mức tiêu thụ lúa và bắp bình quân/1 ngỗng cái sinh sản là 49,2kg/năm.

Một số ưu nhược điểm của ngỗng

Ưu điểm

Ngỗng thích nghi tốt trong điều kiện nóng và ẩm ở Việt Nam, khả năng kháng bệnh tốt, ăn tạp, sử đụng và tiêu hóa được nhiều thức ăn thô xanh, sau 6 tuần tuổi ngỗng có thể sử đụng 40 – 50% thức ăn thô xanh như rau, cò. Thịt ngỗng có vật chất khô cao, hàm lượng protein và năng lượng cao hơn thịt heo, nhiều mơ giữa mô cơ nhưng mơ không làm giảm giá trị và chất lượng thịt mà mỡ làm cho thịt mềm, ngon, mỡ ngỗng đông đặc ở nhiệt độ thấp < 25°c.

Nhược điểm

Năng suất trứng thấp, tốc độ tăng trọng nhanh nhưng trọng lượng và thời điểm có thể giết thịt được chậm hơn so với gà và vịt. Chế biến thịt ngỗng phức tạp hơn thịt gà và vịt.

Với những ưu khuyết điểm trên ta thấy ngỗng khó có thể phát triển mạnh như các loài gia cầm khác, nhưng trong cơ cấu ở nước nông nghiệp như Việt Nam thì ngỗng là loài gia cầm cần thiết trong hệ thống chăn nuôi bền vững.

Mục đích của nghề chăn nuôi ngỗng

Mục đích nuôi ngỗng dể sản xuất thịt và lông, thịt ngỗng béo hơn thịt các loài gia cầm khác nên được một sô, vùng địa phương ưa thích. Lông tơ mịn 25 – 50 g/con là sản phẩm rât có giá trị, len, mền, quần áo ấm từ lông ngỗng vừa nhẹ, mịn lại giữ ấm tốt.

Nuôi ngỗng thả lang thang trong trang trại vừa diệt cỏ dại, thu nhặt phụ phế phẩm rơi vãi trên đồng bãi, trên trang trại. Ngỗng có thể giữ nhà tốt do mắt và tai ngỗng rất thính nên khi phát hiện có người lạ đột nhập kêu, tiếng kêu rất to có thể báo động cho chu biết.

Phương thức nuôi ngỗng

Nuôi nhốt

Hình thức nuôi nhốt tập trung chỉ có thể trong những trại thuộc các trung tâm nghiên cứu về ngỗng. Trên thế giới nuôi ngỗng cũng chỉ nhốt lúc úm ngỗng con và khi nhồi béo lấy gan, còn ngỗng từ 1 tuần tuổi thường thả ra sân chơi hay bãi cỏ như nuôi vịt Xiêm.

Do sản phẩm không phổ biến ở Việt Nam nên việc nuôi ngỗng nhốt thâm canh hầu như không có.

Nuôi chăn thả

Ngỗng thường nuôi theo quần thể nhỏ từ vài con đến vài chục con trong trang trại.

0