Bài văn phân tích Tựa "Trích diễm thi tập" số 3 - 8 Bài văn phân tích Tựa "Trích diễm thi tập" của Hoàng Đức Lương
Sự nghiệp văn học mà Hoàng Đức Lương để lại cho đời không lớn, cả sáng tác thơ ca và lí luận thơ ca. Nhưng tất cả công việc ông làm từ sưu tầm, tuyển chọn, sắp xếp, trình bày rồi viết lời ca tựa tiêu chí tối cao. Nhận thức ấy, trong thời kì văn chương ấy, là một bước tiến rất quan ...
Sự nghiệp văn học mà Hoàng Đức Lương để lại cho đời không lớn, cả sáng tác thơ ca và lí luận thơ ca. Nhưng tất cả công việc ông làm từ sưu tầm, tuyển chọn, sắp xếp, trình bày rồi viết lời ca tựa tiêu chí tối cao. Nhận thức ấy, trong thời kì văn chương ấy, là một bước tiến rất quan trọng cho các hoạt động văn chương? Nếu cái đẹp không còn là cái đẹp thì văn chương sao có thể gọi là văn chương? Đây không phải là quan niệm "nghệ thuật vị nghệ thuật", bởi văn chương trước khi "vị" cái gì - như "vị nhân sinh" chẳng hạn thì nó phải là văn chương đã. Nhấn mạnh tínhđặc thù của vãn chương tuyệt đối không phải là hạ thấp văn chương.
Ngược lại, đó là cái cách mà Hoàng Đức Lương nhấn vào một yêu cầu mà văn chương cần phải có. Để thưởng thức văn chương cũng thế. Nhất là với thơ ca. Người đọc phải có một trình độ kiến thức nhất định mới có thể thấy được cái hay, cái đẹp của thơ ca. Bởi cái đẹp của thơ là cái đẹp đặc thù. Cái đẹp trong trường hợp ấy, nó "quý hồ tinh, bất quý hồ đa", nghĩa là chất lượng quý hơn số lượng. Số lượng có thể nhiều mà có khi vẫn chỉ là không. Còn chất lượng tuy ít nhưng trước sau nó vẫn là có. Và cái "có" ấy còn lại với muôn đời.
Chỉ có điều, nhận xét của nhà lí luận thơ cả không xuất phát từ lí luận thơ ca. Sức thuyết phục ở đây chính là từ sự trải nghiệm trong sáng tác của chính bản thân mình, một trải nghiệm có thể nói là hết sức nhọc nhằn, vất vả. Có lúc ông đã tự chế giễu mình về cái thói "si mê" thơ ca thái quá: suốt ngày vắt óc tìm thơ mà thơ không đến. Tận khuya mới tìm được một câu thích thú liền đánh thức tiểu đồng ghi lại không thì như cơn gió, thơ sẽ bay đi (Tự trào). Thơ Hoàng Đức Lương nghiêng về phía trầm mặc, cổ kính, rất tinh tế trong cảm nhận đời sống nội tâm: "Tĩnh trung tâm dị động" (Trong cái tĩnh, tâm ta thường dễ lay động - Đọc sách dưới bóng cây) và hương vị ngậm ngùi hoài cổ.
Toàn bộ bài tựa không dài nhưng đã đặt ra một vấn đềkhá lớn: vấn đề tập hợp, sưu tầm, đánh giá những tác phẩm thơ ca trong quá khứ của cha ông. Nhân đó mà có bàn qua về đặc trưng của sáng tác vãn học. Cũng từ đó mà xác lập một quan điểm rạch ròi: lấy văn học nước nhà làm nền tảng trong mối quan hệ giao lưu văn hóa nói chung và thơ văn Trung Quốc nói riêng. Nội dung có thể nói là khá phong phú này lại dược chuyển tải dưới hình thức như một lời tâm sự, nói với người mà cứ như tự nói với mình. Tiếng nói gan ruột ấy rất cần có sự đồng cảm, tri âm.
Bài văn có thể chia ra làm hai phần: Tình trạng thất tán của thơ văn truyền thống. Với bốn lí do dẫn đến việc "Thơ văn không lưu truyền hết ở đời", tác giả đã chỉ ra một thực tế cũng là một quy luật về vấn đề bảo tồn di sản. Có những lí do khách quan và cả những nguyên nhân chủ quan, vé mặt khách quan, việc đánh giá, thẩm định những giá trị đích thực của văn chương thật khó. Bởi đó là "sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon, không thể đem mắt thường mà xem, miệng tầm thường mà nếm được". Hiểu biết văn chương đã khó, việc không khẩn chươngquảng bá văn chương của các vương triều lại là cái khó thứ hai.
Còn nguyên nhân chủ quan hướng về phía người sáng tác. Người có thể làm đã không chuyên tâm: hoặc bận rộn về sự vụ chốn quan trường hoặc còn lận đận về con đường thi cử. Những kẻ kém cỏi thì tuy cũng thích thú văn chương nhưng vì lực bất tòng tâm nên "làm được nửa chừng rồi lại bỏ dở". Trong tình hình đó thì đá nát vàng phai là một quy luật tất yếu khách quan: "Vì bốn lí do kể trên bó buộc, trải qua mấy triều đại lâu dài, dẫnđến những vật bền như đá, như vàng lại được quỷ thần phù hộ, cũng còn tan nát trôi chìm. Huống chi bản thảo sót lại, tờ giấy mỏng manh để trong cái níp cái hòm, trải qua mấy lần binh lửa thì còn giữ mãi thế nào được mà không rách nát tan tành?”.
Công việc của Hoàng Đức Lương tuy quá sức nhưng không thể không làm. Nói quá sức vì thơ văn của cha ông trong quá khứ như biển cả mênh mông, song với "tài hèn đức mọn" của mình, tuy đã "tìm quanh hỏi khắp” nhưng số lượng thu thập được chẳng đáng là bao "chỉ là một hai phần trong số muôn nghìn bài". Còn đấy là công việc không thể không làm, vì tác giả "muốn sửa đổi điều lối cũ" với hi vọng" may ra tránh được chê trách của người đời sau". Nghĩa là thoát được cái nợ đồng lần. Chỉ có một con người nhiệt huyết, nhiệt tâm mới không e ngại người đời chê trách mà bổ sung vào tập Trích diễm thơ của những kẻ đương thời, "những bài vụng về" của bản thân như việc "múa rìu qua mắt thợ".
Ngoài những nội dung nằm trong bài tựa trên đày, còn có một lớp nội dung thứ hai nằm ngoài văn bản. Đó là cái tôi nhận thức và cái tôi đầy trách nhiệm - cái tôi ýthức của nhà văn. Về cái tôi nhận thức. Tuy nhận thức của tác giả mở ra trên nhiều bình diện như về lịch sử, văn hóa, về sáng tác và việc bảo quản, lưu truyền những sáng tác ấy, nhưng một điểm sáng nổi bật hẳn lên, đó là nhận thức về đặc trưng của tác phẩm văn chương. Nhận thức về đặc trưng này của tác giả được thể hiện trong một câu vãn hàm súc mà giàu hình ảnh: "Đến như văn thơ, thì lại là sắc đẹp ngoài cả sắc đẹp, vị ngon ngoài cả vị ngon...". Một chân lí nghệ thuật mà gần như nghịch lí.
Thì ra cái điều "bí ẩn và kì diệu của văn thơ lại ở ngoài nhà thơ. Đó là phần chìm của "tảng băng trôi" theo cách nói của Hê-minh-uê hay "ý tại ngôn ngoại" - nguyên lí sáng tạo và tiếp nhận của văn học Phương Đông trung đại. Để làm rõ đặc trưng này, tác giả đã dùng phép so sánh cái đẹp của hình thái vật chất với cái đẹp của hình thái tinh thần, về cái đẹp ở dạng vật chất, người ta dễ nhận ra: "khoái chá là vị rất ngon trên đời, gấm vóc là màu rất đẹp trên đời, phàm người có miệng, có mắt, ai cũng quý trọng mà không vứt bỏ khinh thường".
Đó là cái ngon, cái đẹp thông thường. Nhưng đối với nhà thơ thì "Chỉ thi nhân là có thêm xem mà biết được sắc đẹp, ăn mà biết được vị ngon ấy thôi". Đó là cái đẹp khác thường. Chính vì vận mệnh nghiệt ngã của sáng tác thơ mà nhiều thi sĩ than thở thiếu vắng tri âm. Đến như Nguyễn Du đã là một nhà thơ nổi tiếng với kiệt tác Truyện Kiều mà còn rất băn khoăn: "Bất tri tam bách dư niên hậu - Thiên hạ hà nhân khắp Tố Như?". (Độc Tiểu Thanh kí). Chỉ những người biết quý trọng văn thơ mới cảm thấy được nỗi nhọc nhằn của người sáng tác.
Về cái tôi ý thức. Cái tôi ý thức của Hoàng Đức Lương thật đậm nét. Đó là ý thức dân tộc, niềm tự tôn đối với văn thơ dân tộc. Bài tựa sở dĩ cảm động chính là ở điểm này. Không có ý thức dân tộc thì làm sao trong một bài văn ngắn có thể nhắc đến hai lần: nước ta là nước văn hiến, nhất là một nuớc văn hiến có truyền thống hàng mấy trăm năm. Một đất nước có nền văn hiến là một đất nước rất đáng tự hào. ("Như nước Đại Việt ta từ trước - Vốn xưng nền văn hiến đã lâu” - Nguyễn Trãi). Trong bối cảnh của hệ ý thức phong kiến thời xưa, nước nhỏ thường phải thuần phục nước lớn, ông vua Trung Quốc mới dám tự xưng là thiên tử, triều đình Trung Quốc mới tự nhận là thiên triều.
Thế mà một nước Đại Việt qua bài viết để dám xưng "đế" một phương. Cách tự hào về dân tộc ở đây có khác gì Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi? Điều khác chăng là một thứ chủ quyền về văn hóa. Thơ văn thời Đương tuy đồ sộ là thế nhưng với tác giả: nó ở tít tận xa xôi. Cần phải lấy văn thơ nước nhà làm "căn bản". Câu văn sau đây nói về sự mô phỏng mà không khỏi xót xa: "Than ôi! Một nước văn hiến, xây dựng đã mấy trăm năm, chẳng lẽ không có quyển sách nào có thể làm căn bản, mà phải tìm xa xôi để học thơ văn đời nhà Đường.
Như thế chả đáng thương xót lắm sao!". Cái ý này cứ láy đi láy lại nhiều lần như một câu hỏi tu từ trước đó: "Nước ta từ nhà Lí, nhà Trần dựng nước đến nay, vẫn có tiếng là nước văn hiến, những bậc thi nhân, tài tử đều đem sở trường của mình thổ lộ ra lời nói, lẽ nào không có người hay?". Hai lần nói đến thơ văn đời Đường là hai lần nói đến thi văn Lí, Trần cũng nhằm vào ý ấy: "Đức Lương này học làm thơ, chỉ trông vào thơ bách gia đời nhà Đường, còn như thơ văn thời Lí - Trần, thì không khảo cứu vào đâu được”.
Không chỉ là người Việt học hỏi thơ văn người Việt ở vào thời điểm hiện tại mà người Việt bây giờ phải có trách nhiệm lưutruyền nó cho các thế hệ về sau để tránh đi một lỗi lầm của quá khứ. Tác giả hi vọng khi biên soạn hợp tuyển Trích diễm thitập là "Rồi những người thích bình phẩm thơ ca sẽ đem truyền rộng, may ra tránh được lời chê trách của người đếnsau, chẳng khác gì hiện nay ta chê trách người xưa vậy". Không có ý thức về dân tộc, không thể nặng lòng với văn thơ dân tộc như cái thao thức rất đáng trân trọng ở Hoàng Đức Lương.