Vài phân tích nội dung cuốn Mật mã Da Vinci
Minh Bùi t ổng hợp cuốn tiểu thuyết “The Da Vinci Code” (Mật mã của Da Vinci) của Dan Brown được coi là thuộc loại “best seller” trên thế giới và đã gây ra rất nhiều tranh luận. Tác phẩm này đã chứa đựng những gì mà gây nhiều phản ứng như vậy? Ý ...
Minh Bùi tổng hợp
cuốn tiểu thuyết “The Da Vinci Code” (Mật mã của Da Vinci) của Dan Brown được coi là thuộc loại “best seller” trên thế giới và đã gây ra rất nhiều tranh luận. Tác phẩm này đã chứa đựng những gì mà gây nhiều phản ứng như vậy?
Ý tưởng ban đầu
Dan Brown cho biết ý tưởng viết một cuốn sách về Leonardo Da Vinci đã chớm nở trong ông khi ông đang theo học ngành lịch sử nghệ thuật tại đại học của thành phố Seville, Tây Ban Nha.
Tại đây ông được học về những bí ẩn trong những hoạ phẩm của các đại danh họa. Một hôm, khi quan sát kiệt tác “The Last Supper” (Bữa tiệc cuối cùng hay Bữa tiệc ly) của danh họa Leonardo da Vinci vẽ năm 1498, mô tả cảnh Chúa Jesus đang ngồi dự tiệc với 12 môn đệ trong đêm trước ngày Ngài đi chịu tử nạn. Dan Brown phân tích nhiều bí ẩn trong bức ảnh này, nhất là hình ảnh của John, một môn đệ trẻ đẹp ngồi cạnh Chúa Jesus. Ông cho rằng hình ảnh người trẻ đó nhất định không phải là một người đàn ông, mà là một người đàn bà, và ông nghĩ rằng đó là bà Mary Magdalene trong thánh kinh. Từ ý nghĩ đó, ông quyết định viết một cuốn tiểu thuyết có nhan đề là “The Da Vinci Code”, tức Mật mã của Da Vinci, dựa trên sự khám phá đó!
“Bữa tiệc cuối cùng” (The Last Supper) của Chúa Jesus và 12 môn đệ được nói đến trong Phúc âm Thánh John, chương 13, khái lược như sau:
Trước lễ Vượt Qua, Chúa Jesus biết giờ của Ngài đã đến, giờ phải bỏ thế gian về với Đức Chúa Cha, nên trong một bữa ăn tối với 12 môn đệ, Người đứng dậy, lấy khăn thắt lưng và bưng chậu nước đi rửa chân cho từng môn đệ để dạy họ về tinh thần phục vụ và biết thương yêu nhau, sau đó Ngài nói những lời nhắn nhủ rất quan trọng và rất cảm động. Người cũng báo trước “có một người trong anh em sẽ nộp Thầy” để ám chỉ Judas Iscariost. Mọi người đều xao xuyến. Trong số các môn đệ, có một người được Chúa Jesus thương mến (đó là John, người trẻ nhất), đang ngồi ăn đầu tựa vào lòng Chúa, nên Simon Peter liền ra dấu cho John hỏi Thầy muốn nói về ai. Chúa Jesus liền trả lời: “Thầy chấm bánh đưa cho ai thì chính là kẻ ấy.”
Trong tranh, khi nhìn hình John ngồi bên phải Chúa Jesus, được Simon Peter lấy tay kéo nằm ngửa người ra để nói nhỏ nhờ hỏi Chúa Jesus ai là kẻ phản bội, chúng ta thấy John giống một người đàn bà đang lả lơi hơn là một người đàn ông, đúng theo Dan Brown đã nghĩ.
Phúc âm của Thánh Luke là cuốn phúc âm nói về hình ảnh nhân vật Mary Magdalene rõ nhất như sau:
Đoạn 7: Đoạn này dài, xin tóm lược như sau: Khi Chúa Jesus đang ăn cơm ở nhà một người Pharisees, bỗng có một người phụ nữ ở trong thành là người tội lỗi (sinner), đến đứng đàng sau Chúa mà khóc, nước mắt rớt ướt chân Người. Cô ấy lấy tóc mà lau, rồi lấy dầu thơm mà xức. Một người Pharisees tên là Simon nghĩ bụng: Nếu ông này là ngôn sứ chắc phải biết người đang đụng đến mình là thứ nào: một người tội lỗi! Chúa Jesus liền nói với người Pharisees đó: Tôi vào nhà ông, nước lã ông cũng không đổ lên chân tôi, còn cô ấy lấy nước mắt tưới lên chân tôi. Dầu ô-liu ông cũng không đổ lên đầu tôi, còn cô ấy lấy dầu thơm mà đổ lên chân tôi. Vì thế, tôi nói cho ông hay: “Tội chị ấy rất nhiều, nhưng đã được tha…” Rồi Chúa nói với người phụ nữ: “Tội của cô đã được tha rồi.” Bây giờ những người đồng bàn liền hỏi: “Ông này là ai mà lại tha được tội?” Nhưng Chúa Jesus đã nói với người phụ nữ: “Lòng tin của cô đã cứu cô. Cô hãy đi bình an.” (Luk. 7: 36-50)
Đoạn 8: “Sau đó Đức Jesus rảo qua các thành phố, làng mạc và rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người có Nhóm 12 và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Mary gọi là Mary Magdalene, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Joanna, vợ ông Chuza quản lý của vua Herod, bà Susanna và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp Đức Jesus và các môn đệ.” (Luk. 8: 1-3)
Mary Magdalene
Trên đây là hai nguồn cảm hứng mà Dan Brown đã dựa vào đó để xây dựng hư cấu cho cuốn tiểu thuyết The Da Vinci Code.
Dựa trên những cảm hứng nói trên, Dan Brown muốn viết một câu truyện mô tả Chúa Jesus đã không bị đóng đinh trên thập giá, mà lại cưới bà Mary Magdalene và qua đời một cách bình thường. Chúa Jesus đã quyết định truyền ngôi cho bà. Chúa Giêsu thực sự là một nhân vật hoạt động cho nữ giới bình quyền, nhưng Giáo Hội đã che đậy đi tất cả những điều ấy bằng các thứ dối trá về thần tính của Người.
Với những ý nghĩ như thế, tác giả đã cố gắng đi tìm các sử liệu có thể giúp xây dựng một kết cấu câu chuyện nghe cho nó có vẻ hợp lý. Dan Brown đã tự nghỉ việc để miệt mài ngồi viết. Vợ ông, bà Blythe Brown, đã giúp ông rất nhiều trong việc tra cứu các tài liệu.
Dan Brown đã khôn khéo liên kết những nhân vật, những biến cố, những câu chuyện, những tổ chức… riêng rẻ có thật, lại thành tổng thể chặt chẽ, như thật.
Cốt truyện của tiểu thuyết Mật mã Da Vinci
Trong một chuyến công tác tại Paris, đang đêm giáo sư Robert Langdon, nhà biểu tượng học Mỹ thuộc đại học Harvard, đã nhận được một cú điện thoại cho biết: người giám đốc già của Viện Bảo Tàng Louvre ở Paris đã bị ám sát ngay trong Viện. Cảnh sát đã tìm thấy bên xác chết của ông có để lại một mảnh giấy không rõ ý nghĩa.
Trong cuộc điều tra vụ án, giáo sư Langdon đã hết sức bàng hoàng khi khám phá ra những “mật mã” trong các tác phẩm được đại danh họa Leonardo da Vinci che dấu rất khéo léo. Giáo sư Langdon đã hợp tác với một chuyên viên mật mã người Pháp là bà Sophie Neveu. Bà chính là cháu gái của giám đốc Viện bảo tàng vừa bị giết.
Trong khi điều tra, họ khám phá ra rằng người quản thủ viện bảo tàng đó có dính líu tới một hội kín phát sinh từ Tu Viện Kín Sion (The Priory of Sion) cổ xưa. Theo Dan Brown, khi đến chiếm đóng thánh địa Jerasalem vào năm 1099, một số hiệp sĩ của Tòa Thánh đã khám phá ra một số tài liệu lịch sư quan trọng liên quan sự sống còn của Giáo Hội. Biết được chuyện này, Giáo Hội đã tìm cách tiêu diệt họ. Họ đã phải thành lập một hội kín để bảo toàn các tài liệu này. Trong những tài liệu đó có cả sách Phúc âm của Mary và Phúc âm của Phillip đã được tìm thấy ở thư viện Nag Hammadi và những cuộn giấy tìm được ở Biển Chết (Dead Sea Scrolls). Dan Brown cho rằng đây là những sách Phúc âm mà lúc tiên khởi đã bị Toà Thánh Vatican cho là ngụy thư và loại khỏi Thánh Kinh. Qua thời gian, hội kín này đã quy tụ nhiều nhà bác học lừng danh như Leonard da Vinci, Victor Hugo, Isaac Newton, Botticelli… Leonard da Vinci đã mã hóa những bí mật khám phá được vào tác phẩm The Last Supper của mình.
Giáo sư Langdon và Neveu đã thực hiện những cảnh truy lùng đầy kỳ thú và không biết sợ sệt, từ Paris qua London, để khám phá cho xong sự thật, vì sợ rằng nếu không khám phá được, sự thật lịch sử sẽ bị giấu kín mãi mãi.
Khi truy lùng sự thật lịch sử, Robert Langdon và Sophie Neveu còn bị một nhóm bí mật bám sát để tìm cách thanh toán, đó là nhóm Opus Dei, một “giáo phái” được Tòa Thánh Vatican công nhận!
Trong thực tế, Opus Dei (có nghĩa là “Kỳ công của Thiên Chúa”) là một tu hội công giáo được Giám mục Jose Maria Escriva de Balaguer y Albas thành lập tại Tây Ban Nha ngày 2.10.1928 và được Tòa Thánh phê chuẩn vào cuối năm 1950. Mục tiêu của tu hội này là quy tụ những giáo dân công giáo muốn thánh hóa đời sống của họ và dấn thân phục vụ tha nhân giữa dòng đời. Hiện nay tu hội có khoảng 77.000 hội viên và 1500 Linh mục linh hướng. Đây là một tổ chức thực hiện được nhiều công tác rất hữu ích và chẳng bao giờ làm những công việc như thế.
Trên đường truy lùng, hai người cũng phát hiện ra rằng người ông của Sophie Neveu vừa bị giết là người cuối cùng giữ bí mật về Grail, vốn được coi là bí mật lớn nhất của văn minh Thiên Chúa Giáo. Hội kín nói trên đã thề bảo vệ Grail mãi mãi, mặc dầu Giáo Hội đã bác bỏ “sự thật” về Grail, còn một nhóm trong Vatican tìm cách tiêu diệt bí mật đó.
Grail là gì? Grail – còn được gọi là Holy Grail – là cái chén thánh. Theo truyền thuyết Trung Cổ, chén này đã được Chúa Jesus dùng trong buổi tiệc cuối cùng (the Last Supper) và được ông Joseph Arimathé dùng để hứng những giọt máu cuối cùng của Chúa Jesus trên Thánh Giá, thường được hiểu là biểu tượng của tinh thần Kitô giáo tinh tuyền đã bị mất đi.
Nhưng Dan Brown đã lấy ý từ “mật mã” trong tranh “The Last Supper” của đại danh họa Leonardo da Vinci, cho rằng Grail không phải là gì khác mà chính là bí mật về cuộc hôn nhân giữa Chúa Jesus và Nữ Thánh Mary Magdalene.
Nhìn trang phục của Chúa Jesus và John mà Dan Brown cho là Mary Magdalene, Dan Brown thấy rằng trang phục của Jesus và Mary Magdalene đối xứng nhau về màu sắc: Chúa mặc áo trong màu đỏ, áo choàng màu xanh, còn Mary Magdalene mặc áo trong màu xanh, áo choàng đỏ. Hình dáng hai người ngồi kế nhau tạo thành một chữ M, tượng trưng cho Mary Magdalene. Dan Brown kết luận rằng Chúa Jesus và Mary Magdalene là một cặp vợ chồng.
Theo Dan Brown, Magdalene đã trốn tránh đến tận xứ Gaule (thuộc Pháp) để bảo vệ huyết thống của Chúa Jesus. Giáo Hội từ khởi thuỷ đã dùng mọi thủ đoạn khám phá ra dòng dõi này để thủ tiêu, nhưng không thành công. Con trai của hai người đã đến Pháp và truyền lại dòng máu “Vương triều” đó cho một số người Châu Âu. Một số Giám mục trong tổ chức Opus Dei, đã tìm cách chiếm đoạt và che giấu những dấu tích của cặp Jesus và Mary Magdalene để lại.
Với những lập luận này, tác giả cho rằng từ trước đến nay Tòa Thánh Vatican luôn nhấn mạnh đến quyền lực của phái nam và triệt hạ uy tín của phái nữ, phỉ báng Nữ Thánh Mary Magdalene, mặc dầu Chúa Jesus muốn truyền ngôi lại cho bà chứ không phải cho Peter. Tác giả gợi ý rằng đã đến lúc ngôi vị thiêng liêng này phải được trao lại cho nữ giới trong kỷ nguyên của Nữ đang đến.
Cuốn truyện kết thúc với cảnh Robert Langdon và Sophie Neveu thoát mọi hiểm nguy và yêu nhau. Cô Sophie Neveu được mộ tả như là hậu duệ của Chúa Jesus và Thánh Mary Magdalene.
Phản ứng đối về nội dung tiểu thuyết
Tiểu tuyết của Dan Brown rất thành công khi được xuất bản năm 2003, cạnh tranh với cả bộ sách nổi tiếng Harry Potter. Có nhiều nhiều bài phê bình tán thành trong tờ The New York Times, Tạp chí People, và tờ The Washington Post. Nhiều người khen nó là một sách hay và làm cho người đọc phải suy nghĩ. Nó cũng làm nhiều người quan tâm lại về lịch sử Giáo hội Công giáo.
Chỉ trích và tranh luận
Mật mã Da Vinci đã gây ra nhiều chỉ trích khi nó được xuất bản lần đầu tiên vào năm 2003. Phần nhiều chỉ trích việc suy đoán và xuyên tạc của những phần quan trọng nhất của Kitô giáo và lịch sử của Giáo hội Công giáo Rôma, cộng thêm những chỉ trích về các miêu tả sai về mỹ thuật, lịch sử, và kiến trúc Âu Châu. Cuốn sách nói chung nhận phải phản ứng phản đối từ các cộng đồng Công giáo và cộng đồng khác thuộc Kitô giáo, cũng như những nhà lịch sử. Họ cho rằng Brown gắn kết những truyền thuyết và nghi vấn đã có từ rất lâu và xuyên tạc – và trong một số trường hợp, bịa đặt – lịch sử. Có ít nhất 10 sách đã được xuất bản nhắm bác bỏ các luận điệu của ông.
Hội nghị Giám mục Công giáo Hoa Kỳ mở cửa một website có địa chỉ là http://www.jesusdecoded.com/ để bác các luận điệu chính của tiểu thuyết. Các giám mục đang lo lắng về các lỗi và câu sai quan trọng trong Mật mã Da Vinci.
Mức độ ảnh hưởng
Tờ USA Today số ra ngày 25.4.2006 cho biết theo cuộc thăm dò của tạp chí Catholic Digest, có 73% người công giáo nói rằng cuốn The Da Vinci Code không ảnh hưởng gì đến niềm tin của họ. Và có đến nhà thờ sau khi đọc cuốn sách này. Có 23% đã đọc toàn bộ hay một phần cuốn sách và 63% cho biết họ không đọc cuốn sách hoặc không thích đọc những cuốn sách giả tưởng (fiction) như thế. Và 91% cho rằng việc đọc một cuốn sách như thế chẳng có gì là sai cả.
Đa số người Mỹ và người Âu châu nói chung, dù theo Thiên Chúa Giáo hay không theo, dù trẻ con hay người lớn, đều có một kiến thức khá cao, phân biệt được một cách dễ dàng đâu là sự thật (facts) và đâu là giả tưởng (fiction), họ lại đã biết nhiều về lịch sử Thiên Chúa Giáo, nên cuốn truyện và phim The Da Vinci Code khó ảnh hưởng đến suy nghĩ của họ. Sở dĩ họ tìm đọc hay xem là vì tính tò mò. Do đó, những nỗ lực giải thích của các giáo hội tại Hoa Kỳ như hiện nay có thể được coi là vừa đủ. Trái lại, cuốn sách và cuốn phim đó, nếu được phổ biến tại các dân tộc có trình độ văn hóa thấp, chắc chắn nó sẽ ảnh hưởng đến suy nghĩ của người đọc hay xem ngay. Trong trường hợp này, những sự hướng dẫn rất cần thiết.
Một giả thuyết gây sốc
“Hầu hết mọi điều cha chúng ta dạy chúng ta về chúa Ki-tô đều sai cả”. Sir Leigh Teabing, nhân vật của tiểu thuyết trinh thám “Mật mã Da Vinci, đã khẳng định như vậy.
Đó cũng chính là tuyên ngôn của Dan Brown, tác giả của cuốn tiểu thuyết. Với những tín đồ Cơ đốc giáo, câu nói trên nhẹ nhất là một sự báng bổ, còn nặng nhất thì có thể là một trái bom tấn với sức công phá khủng khiếp giáng thẳng vào boongke đức tin của họ. Nó cũng giống như vào một ngày đẹp trời nào đó, bố mẹ của bạn bỗng tiết lộ cho bạn biết rằng bạn chỉ là con nuôi mà thôi.
Nói một cách cô đọng, Dan Brown đưa ra và chứng minh các luận điểm sau:
- Jesus không phải là Chúa, ông vốn là một con người như tất cả chúng ta.
- Jesus đã kết hôn với Mary Magdalene, một tông đồ của ông.
- Bà lẽ ra đã được tôn thờ như một nữ Chúa.
- Bà đã có thai với Jesus và sinh ra một con gái.
- Người con gái này đã khai sinh ra một dòng họ danh giá mà hậu duệ của nó hiện vẫn còn tồn tại tại châu Âu.
- Kinh thánh được một hoàng đế La Mã ngoại đạo (Constantine) chắp ghép lại.
- Jesus được xem như một con người chứ không phải là một đức Chúa cho tới tận thế kỷ thứ Tư sau công nguyên, khi ông được hoàng đế Constantine thần thánh hóa thông qua biểu quyết.
- Các sách phúc âm đã được biên tập lại để hậu thuẫn cho các tuyên bố của đạo Cơ đốc sau này.
- Một hội kín có tên là Tu viện Sion (Priory of Sion) vẫn tiếp tục tôn thờ Mary
- Magdalene như một nữ Chúa và cố gắng để sự thật không bị mất đi.
- Nhà thờ Công giáo La Mã nhận thức được tất cả chuyện này và đã đấu tranh trong suốt nhiều thế kỷ để bưng bít sự thật. Để làm được điều đó nhà thờ không ngần ngại sát hại những người có liên quan.
- Nhà thờ Công giáo La Mã sẵn sàng và thường tiến hành ám sát những hậu duệ của Chúa Ki-tô để ngăn không cho dòng giống của ông sinh sôi.
Truyền thuyết về chiếc Chén Thánh
Từ Chén Thánh (Holy Grail hay Chalice) có xuất xứ một từ tiếng Pháp trung cổ là Sangraal. Theo cách lý giải thông thường, Sangraal hợp thành từ hai từ San (Thánh) và Graal (Chén). Chén Thánh ám chỉ cái ly mà chúa Jesus đã dùng để uống rượu vang trong bữa tối cuối cùng với các tông đồ trước khi người bị Judas Iscariot chỉ điểm và rơi vào tay các thầy thượng tế Do thái. Khi Chúa bị đóng đinh câu rút, Joseph xứ Arimathea cũng dùng chính cái ly đó để hứng dòng máu của Chúa. Vì những lý do trên, cái ly nhỏ bình thường đã trở nên một thánh tích vô cùng thiêng liêng đối với những tín đồ Cơ đốc giáo.
Tuy nhiên, Dan Brown cho rằng có thể hiểu Sangraal theo một nghĩa khác nữa. Ông chiết tự Sangraal thành hai từ Sang (Máu) và Raal (Hoàng gia). Sangraal vì thế không chỉ là Chén Thánh mà còn là Dòng máu Hoàng tộc. Nó không ám chỉ một một vật chứa theo nghĩa đen như kiểu cái ly mà mang hàm ý sâu xa hơn, đó là ám chỉ một người phụ nữ đã mang trong mình giọt máu hoàng tộc, giọt máu của chúa Jesus, người vốn là dòng dõi của vua David và lúc sinh thời vẫn tự xưng mình là vua dân Do thái.
Bức tranh “Bữa tối Cuối cùng” của Leonardo Da Vinci
“Bữa tối cuối cùng” là một motif tôn giáo tương đối điển hình và vì thế được nhiều hoạ sĩ sử dụng cho việc sáng tác. Trong tranh, các hoạ sĩ thường vẽ chúa Jesus ngồi giữa 12 vị tông đồ quanh một chiếc bàn dài. Tác phẩm “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo Da Vinci cũng có một bối cảnh tương tự. Dan Brown đã có những phát hiện rất lý thú khi khảo sát bức tranh này. Để giúp minh hoạ rõ hơn lập luận của Dan Brown, ngoài hoạ phẩm của Da Vinci, tôi sẽ sử dụng thêm ở đây một bức tranh khác cùng chủ đề của hoạ sĩ Ý Jacopo Bassano.
“Bữa tối cuối cùng” — Leonardo Da Vinci
“Bữa tối cuối cùng” — Jacopo Bassano
Trong bức tranh của Bassano, chúng ta thấy có một cái ly duy nhất đặt trên bàn. Rất có thể đó là chiếc Chén Thánh mà các sử liệu Thiên chúa giáo đề cập. Còn quan sát bức tranh của Da Vinci, ta sẽ thấy chẳng có cái ly có chân đế nào cả. Ô hay, chẳng lẽ một hoạ sĩ nổi tiếng như ông lại có thể phạm một thiếu sót sơ đẳng như vậy (Da Vinci đã vẽ bức bích hoạ có kích thước 460×880 cm này trên tường phòng ăn của nhà tu kín Santa Maria delle Grazie tại Milan trong suốt 4 năm). Theo Dan Brown điều đó chỉ có thể phản ánh một điều là với Da Vinci, Chén Thánh không phải là một cái ly.
Trong bức tranh của Bassano, chúng ta thấy Chúa đang vuốt tóc John the Evangelist, vị tông đồ ít tuổi nhất. Vẻ bề ngoài và tư thế ngồi ngả ngốn của Thánh John cho thấy lúc đó ngài mới chỉ là một thiếu niên. Nhưng dù sao thì nét mặt của ngài vẫn đầy nam tính. Hai bắp tay của ngài nổi rõ các múi cơ và đôi bàn chân trần thô kệch thò ra dưới gầm bàn thì thực sự là giống với cặp chân của một cầu thủ bóng đá. Còn bây giờ hãy nhìn người ngồi ở vị trí tương tự trên hoạ phẩm của Da Vinci, tức là ngồi bên tay phải Chúa. John the Evangelist đó chăng? Cũng trẻ, cũng không râu nhưng…trời ơi, hình như đó là một phụ nữ. Hãy nhìn vẻ mặt mặt đoan trang và e lệ, hãy nhìn mái tóc hung mượt mà, hãy nhìn nước da trắng mịn như sứ và đôi bàn tay thanh tú đan vào nhau trong một tư thế thể hiện rất nhiều nữ tính. Da Vinci đã vẽ một phụ nữ, không nghi ngờ gì nữa. Dan Brown cho biết rằng không chỉ riêng ở bức tranh của Da Vinci mà cả một số tác phẩm khác cùng chủ đề (ví dụ tranh của Jean Fouquet hay Albrecht Duerer) cũng thể hiện một nhân vật dường như là phụ nữ ngồi tại vị trí của Thánh John. Theo Dan Brown nhân vật đó là Mary Magdalene. Vậy quan hệ giữa Jesus và Mary Magdalene là như thế nào mà bà lại xuất hiện trong bữa ăn tối định mệnh này? Chúng ta hãy nghe Dan Brown lý giải tiếp.
Những mật mã khác mà Da Vinci đã khéo léo cài vào bức tranh cho thấy Mary Magdalene và Chúa Jesus là một cặp, đúng hơn là một cặp vợ chồng. Vị trí ngồi của hai người nằm ở chính giữa bức tranh, và tư thế ngồi của họ đối xứng gương với nhau. Còn nữa, mầu sắc quần áo của Mary Magdalene và của Jesus là nghịch đảo của nhau. Jesus mặc áo trong màu đỏ và áo choàng ngoài mầu xanh da trời; Mary Magdalene thì mặc áo trong xanh da trời và áo choàng mầu đỏ. Rất phù hợp với sự hòa hợp âm dương.
Tư thế ngồi chạm hông vào nhau trong khi ngả người ra hai phía đối diện của Jesus và Mary Magdalene còn gợi lên hai hình ảnh nữa. Khoảng trống giữa hai người tạo thành một dấu hiệu hình chữ V nằm tại tiêu điểm của bức tranh. Đó là chính là biểu tượng cổ tượng trưng cho Chén Thánh và đồng thời cũng tượng trưng cho nữ giới (hình dáng tử cung của phụ nữ). Còn nếu xét cả khoảng trống hình chữ V và cơ thể hai người thì ta sẽ có một dấu hiệu hình chữ M. Rất có thể đó là chữ cái mở đầu của từ Matrimonio (hôn nhân) hay Mary Magdalene.
Tóm lại, dường như thông điệp mà Da Vinci gửi gắm qua bức tranh của mình là theo ông Chén Thánh không phải là một đồ vật. Chén Thánh ám chỉ một người phụ nữ và người đó là Mary Magdalene.
Mary Magdalene
Trong kinh Tân ước, Mary Magdalene được nhắc tới 12 lần. Bà được Jesus xua đuổi tà ma ra khỏi cơ thể (Luke 8:2), có mặt tại nơi Chúa bị đóng đinh câu rút và sau đó lại xuất hiện tại cửa hang đá nơi cất giữ thi thể của Chúa vào thời điểm Chúa phục sinh. Chính bà là người đã được Chúa truyền mang tin lành về cho các thánh tông đồ.
Nhà thờ Cơ đốc giáo không có sự nhất quán trong cách nhận định về bà. Một mặt bà được phong nữ thánh, mặt khác giáo hoàng Gregory lại mô tả bà là một phụ nữ không đứng đắn, là gái điếm hoặc một phụ nữ phạm tội thông dâm, trước khi cải tà quy chính. Sự định danh này cho đến nay vẫn còn gây tranh cãi.
Theo Dan Brown, nhà thờ đã cố tình bôi nhọ hình ảnh của Mary Magdalene để hạ thấp vai trò của bà. Trên thực tế, Mary Magdalene là hậu duệ của hoàng tộc chi tộc Benjamin, một trong các chi tộc lớn của Israel. Bà là vợ của Chúa Jesus và là người lẽ ra đã trở thành người kế vị Chúa trong vai trò là người đứng đầu giáo phái do ông sáng lập. Chúa đã chọn bà, chứ không phải là thánh Peter, cho chức vị này.
Dan Brown củng cố lập luận của mình bằng các sách Phúc âm theo thuyết ngộ đạo (Gnostic Gospel) mà ông cho là những ghi chép sớm nhất về chúa Ki-tô, thậm chí sớm hơn cả Kinh Tân ước. Các sách phúc âm này dường như bị thất truyền cho đến khi nguyên bản của chúng được tìm thấy lại Nag Hammadi (Ai cập) vào năm 1945. Nội dung của chúng không tương đồng với các Phúc âm trong Kinh thánh. Hai Phúc âm mà ông trích dẫn là của Philip và của chính Mary Magdalene.
Bàn tay của Thánh Peter
Phúc âm của Philip viết: “Và người đồng hành với Đấng Cứu thế là Mary Magdalene. Đức Ki-tô yêu bà nhiều hơn tất cả các tông đồ khác và người thường hôn lên môi bà. Những tông đồ còn lại cảm thấy khó chịu bởi điều đó và bày tỏ sự không chấp thuận. Họ nói với Chúa, ‘Tại sao Thầy lại yêu nàng hơn hết thảy chúng con?’” Theo Brown, trong tiếng Ai-cập cổ (Coptic), từ người đồng hành được dùng với nghĩa là vị hôn thê. Còn Phúc âm của Mary Magdalene thì viết: “Và Peter nói, ‘Liệu Đấng Cứu thế có thực sự nói chuyện với một người đàn bà mà chúng ta không biết không? Liệu chúng ta có buộc phải lắng nghe người đó không? Liệu Chúa có coi người đó hơn chúng ta không?’. Và Levi trả lời: ‘Peter, sao anh lúc nào cũng tỏ ra nóng nảy. Giờ đây tôi thấy anh đang kình địch với người đàn bà này như thể là một đối thủ vậy. Nếu Đấng Cứu thế đề cao nàng, liệu rằng anh có thể chối bỏ nàng sao? Hẳn nhiên Đấng Cứu thế hiểu nàng rất rõ. Đó là nguyên nhân tại sao mà Người lại yêu nàng hơn yêu chúng ta.’”. Lý do khiến Peter ghen với Mary Magdalene như vậy, theo Brown, là vì Jesus đã dự định giao phó sứ mệnh điều hành giáo phái cho bà và đã có những chỉ dẫn riêng cho bà về chuyện đó mà Peter không nắm được.
Có vẻ như Da Vinci đã thể hiện sự tranh giành quyền lực ngấm ngầm của Peter với Mary Magdalene trong bức tranh “Bữa tối cuối cùng” khi mà nhân vật Peter vươn người về phía Mary và làm động tác “cắt cổ” bằng bàn tay của mình.
Tại thời điểm Jesus bị đóng đinh câu rút, Mary Magdalene đang mang trong mình đứa con của Jesus. Để đảm bảo an toàn cho đứa con chưa sinh ra của Người, bà buộc phải rời khỏi Đất Thánh. Bà đã bí mật du hành tới xứ Gaul (nay thuộc tỉnh Provence nước Pháp), ẩn mình trong một cộng đồng Do thái tại đó và sinh hạ một con gái đặt tên là Sarah. Hậu duệ của Jesus cứ thế âm thầm sinh sôi nảy nở cho tới thế kỷ thứ Năm, khi họ thông hôn với hoàng tộc Pháp và hình thành nên triều đại Merovingie, một vương triều nổi tiếng của nước Pháp cổ đại. Chính những thành viên của Merovingie đã tạo lập nên thành phố Paris. Giáo hội Vatican tìm cách trừ khử dòng tộc này và đã suýt thành công khi tiến hành ám sát vua Dagobert vào thế kỷ thứ VII. Thật may mắn là con trai của Dagobert, tên là Sigisbert, đã bí mật thoát được khỏi vụ tấn công và vì thế dòng họ vẫn duy trì được nòi giống. Trong số các hậu duệ về sau có vua Godefroi de Bouillon, người sáng lập ra hội kín Tu viện Sion. Theo Brown, dấu vết của dòng họ Merovingie còn lưu lại đến tận ngày nay tại Châu Âu dưới những cái tên khác như Saint Clair hay Plantard.
Hội kín Tu viện Sion
Godefroi de Bouillon
Tu viện Sion được Godefroi de Bouillon sáng lập năm 1099 tại Jerusalem, ngay sau khi thành phố này thất thủ trước đội quân của ông trong cuộc thập tự chinh. Vua Godefroi được coi là có nắm giữ một bí mật hết sức quan trọng lưu truyền trong gia đình ông kể từ lúc Chúa còn sinh thời. Sợ rằng bí mật này sẽ bị mất đi sau khi mình chết, vua Godefroi đã dùng hội kín Tu viện Sion như một tổ chức để bảo vệ và duy trì nó từ thế hệ này sang thế hệ khác và sẽ công bố vào một thời điểm thích hợp. Trong những năm ở Jerusalem, Tu viện Sion đã phát hiện ra nơi cất giữ những văn bản được chôn dấu dưới đống đổ nát của đền thờ vua Herod, kiến trúc được xây dựng trên nền của đền thờ vua Solomon. Những văn bản này có thể chứng thực cho bí mật truyền khẩu của Godefroi, một bí mật có thể gây chấn động lớn đến mức Nhà thờ sẽ không từ bất cứ một thủ đoạn nào để đoạt được chúng.
Tu viện Sion đã thành lập một đội quân riêng với tên gọi là dòng Các Hiệp sĩ Thánh chiến (Knights Templar). Sứ mệnh được công bố của họ là bảo vệ những người hành hương đến Đất Thánh còn trên thực tế mục đích của đội quân này là tìm kiếm những văn bản trong đống phế tích. Không ai biết các Hiệp sĩ Thánh chiến đã tìm thấy những gì nhưng có một điều mà giới học giả đều đồng ý với nhau là những thứ họ tìm được đã mang lại sự giầu có và quyền lực ngoài sức tưởng tượng cho đội quân này. Không rõ do dòng Hiệp sĩ Thánh chiến đe doạ tống tiền Vatican hay do Nhà thờ muốn mua lấy sự im lặng của họ, chỉ biết rằng giáo hoàng Innocent II lúc đó đã ngay lập tức công bố một sắc luật ban cho dòng Hiệp sĩ Thánh chiến một quyền lực không hạn chế và tuyên bố “họ chính là luật pháp”. Họ hoạt động hoàn toàn độc lập và không bị bất cứ giáo phái hoặc vua chúa nào chi phối. Về danh chính ngôn thuận thì sứ mệnh của họ là không được trả công và bản thân các hiệp sĩ cũng đã tuyên thệ chấp nhận cuộc đời bần hàn nhưng đội quân này lại sở hữu rất nhiều tài sản và đất đai trên khắp Châu Âu.
Tới đầu thế kỷ XIV, khi quyền lực của dòng Hiệp sĩ Thánh chiến đã trở nên quá lớn, giáo hoàng Clement V bèn cùng với vua Pháp Philippe IV (Philippe Tuấn tú) lên kế hoạch triệt hạ đội quân này, thu hồi các kho tàng của họ và bởi vậy có thể giành quyền kiểm soát các bí mật có liên quan đến Vatican. Sắc lệnh của giáo hoàng được gắn xi kín và gửi cho những đội quân mà Toà thánh kiểm soát trên toàn lục địa. Đúng ngày Thứ Sáu ngày 13 tháng Mười năm 1307, các mệnh lệnh này được mở cùng một lúc. Clement V nhân danh Chúa ra lệnh phải bắt tất cả các Hiệp sĩ Thánh chiến, tra tấn họ cho đến lúc họ phải cung xưng những tội mình đã phạm với Chúa, những cáo buộc mà theo Dan Brown chỉ là nguỵ tạo. Mặc dù đã có một sự hiệp đồng vô cùng chính xác về mặt thời gian, mặc dù phần lớn các Hiệp sĩ Thánh chiến đều bị bắt, bị tra tấn và sau đó bị thiêu sống nhưng các văn bản bí mật mà Vatican muốn chiếm đoạt lại lọt lưới. Tu viện Sion, tổ chức lãnh đạo đứng sau Những Hiệp sĩ Thánh chiến đã mang được những văn bản này rời khỏi Paris lên một con tầu biển tại La Rochelle. Ngoài tổ chức này, không ai rõ chúng được chuyển đi cất giữ ở đâu. Nhiều người tin rằng vị trí cất dấu đã được dịch chuyển một số lần trong suốt 700 năm qua. Những phỏng đoán gần đây cho rằng hiện chúng đang nằm đâu đó tại nước Anh. Tên gọi chung của nhóm văn bản này chính là Sangraal (Chén Thánh).
Trong nội bộ tổ chức Tu viện Sion, bí mật về Chén Thánh được chia sẻ bởi một bộ tứ Quan án (sénéchal) cao nhất, trong đó người đứng đầu được gọi là Đại Sư (grand master). Khi có một người trong bộ tứ chết, ba người còn lại sẽ lựa chọn trong số những hội viên cấp thấp hơn một người mới để trở thành Quan án.
Sự tồn tại của hội kín Tu viện Sion được Brown đưa ra dựa vào một tài liệu viết trên giấy da tìm thấy trong kho lưu trữ của Thư viện Quốc gia Pháp tại Paris vào năm 1975 được biết đến dưới tên gọi Les Dossiers Secrets. Tài liệu này có liệt kê danh sách những Đại Sư của tổ chức kể từ năm 1188. Trong số họ có một vài cái tên rất nổi tiếng như Botticelli, Sir Isaac Newton, Victor Hugo và dĩ nhiên là Leonardo da Vinci. Nếu văn bản này là xác thực thì vị Đại Sư Da Vinci hẳn đã có phần bội tín vì đã vi phạm điều lệ của tổ chức Tu viện Sion khi gián tiếp tiết lộ bí mật về Chén Thánh qua bức tranh “Bữa tối cuối cùng” của mình.
Hoàng đế Constantine, Kinh tân ước và Chúa Jesus
Constantine I
Theo Dan Brown, từng có khoảng 80 sách Phúc âm khác nhau được cân nhắc cho Kinh Tân ước nhưng rút cuộc, chỉ có một vài trong số đó được thực sự đưa vào. Các Phúc âm của Matthew, Mark, Luke và John nằm trong số đó (Phúc âm là tường thuật về thân thế và cuộc đời hoạt động của Chúa Jesus trên trần thế).
Người đã tuyển chọn, chắp ghép tất cả các ghi chép lại với nhau để tạo thành bản Kinh thánh như chúng ta biết ngày nay là hoàng đế La Mã ngoại đạo Constantine Đại đế. Bản thân là một giáo trưởng của giáo phái tôn thờ thần mặt trời, Constantine chỉ thực sự chịu phép rửa tội để trở thành một tín đồ Công giáo trên chiếc giường chết của mình, khi ông đã quá yếu chẳng còn hơi sức đâu mà phản đối.
Động cơ cho việc “chuẩn hóa” Kinh thánh và tôn giáo của Constantine hoàn toàn mang tính chính trị. Vào thế kỷ thứ III sau Công nguyên, xung đột giữa những người Cơ đốc giáo và những người ngoại đạo đã lan rộng và có nguy cơ làm phân rã đế chế La Mã. Trước thực trạng này, Constantine vào năm 325 đã quyết định thống nhất La Mã dưới một tôn giáo duy nhất. Đó là Cơ đốc giáo. Là một chính trị gia khôn ngoan, Constantine đã đặt cược vào tôn giáo đang có xu hướng hưng thịnh tại thời điểm đó. Tuy nhiên vị hoàng đế này vẫn khéo léo chuyển đổi một phần của tín ngưỡng thờ mặt trời của mình vào Cơ đốc giáo. Bằng cách đưa những biểu tượng, ngày tháng và nghi lễ ngoại đạo vào Cơ đốc giáo truyền thống, Constantine đã tạo ra một tôn giáo lai ghép khả dĩ được cả hai phía chấp thuận.
Có thể kể một số ví dụ về sự hoà quyện giữa các tôn giáo như vầng hào quang trên đầu các vị thánh của Cơ đốc giáo xuất phát từ các đĩa mặt trời trong truyền thống Ai-cập. Các nghi thức Cơ đốc giáo như mũ tế của giám mục, bệ thờ, bài kinh ca ngợi Chúa hay lễ ban thánh thể đều có xuất xứ trực tiếp từ các tôn giáo khác trước đó. Ban đầu Cơ đốc giáo cũng coi trọng và tổ chức thánh lễ vào ngày Sabbath như người Do thái (tức là thứ Bảy) nhưng rồi Constantine đã dịch chuyển nó để trùng với ngày sùng kính mặt trời trong tín ngưỡng của ông. Đó là ngày Chủ nhật, ngày mặt trời (Sunday). Ngay cả ngày lễ Giáng sinh, 25/12, dường như cũng không liên quan đến ngày sinh thật của Jesus. Trước kỷ nguyên Ki-tô, Chúa Mithras của tín ngưỡng khác cũng sinh vào ngày 25/12, chết đi được quàn trong một hang đá và phục sinh sau đó ba ngày.
Một việc lớn khác mà Constantine đã thực hiện là tổ chức đại hội Cơ đốc giáo toàn thể nổi tiếng được biết đến với cái tên Hội đồng Necaea. Trong lần hội họp này, người ta đã tranh luận và biểu quyết về rất nhiều khía cạnh khác nhau của Cơ đốc giáo, chẳng hạn như ngày Phục sinh, vai trò của các giám mục, cách thực thi lễ ban phước, và thậm chí cả tính thần thánh của Jesus.
Cho đến thời điểm đó, Jesus vẫn được các tín đồ xem như một đấng tiên tri không bất tử, có nghĩa là một con người. Hội đồng Necaea, dưới sự tác động vì các toan tính chính trị của Constantine, đã biểu quyết cho sự xác lập Jesus như là “Con của Chúa trời”. Họ thần thánh hóa Jesus với mục tiêu xác lập quyền lực cho giáo hội và đế chế La Mã.
Bởi vì Constantine nâng cấp trạng thái của Jesus tận gần 4 thế kỷ sau khi Jesus mất nên vào thời điểm đó đã tồn tại hàng ngàn văn bản ghi chép về cuộc đời Ông như là một con người. Để viết lại lịch sử, Constantine đã thực thi một hành động táo bạo, đó là đặt làm và tài trợ cho bản Kinh thánh mới, trong đó loại bỏ tất cả các bản Phúc âm nói về những đặc điểm con người của đấng Ki-tô và tô vẽ cho những bản Phúc âm coi Ông như Chúa. Các bản phúc âm trước đó bị cấm, thu lại để đốt đi.
Thật may cho các sử gia khi không phải tất cả các sách Phúc âm cổ đều đã bị Constantine tiêu huỷ hết. Cuộn giấy da tìm thấy ở Nag Hammadi (Ai cập) năm 1945 và Cuộn giấy da có tên Biển Chết tìm thấy trong một hang đá trong sa mạc Judaen (Israel) vào thập niên 50 của thế kỷ trước chính là các sách Phúc Âm viết về Chúa Jesus với những góc độ rất con người. Dan Brown cũng dùng các đoạn văn trong Phúc Âm Philip và Phúc Âm Mary Magdalene cho lập luận của mình như tôi đã trình bày trong mục “Mary Magdalene”.
Kết luận
Những nghi án của lịch sử nhiều không kể xiết và đa phần sẽ không bao giờ được làm sáng tỏ. Sẽ chẳng có một lực lượng nào đứng ra xem xét để đưa ra phán quyết cuối cùng về tính đúng đắn của giả thuyết của Dan Brown. Chỉ với khoảng một giờ đồng hồ tìm kiếm trên Internet, tôi đã đọc được rất nhiều lập luận bác bỏ lại các thông điệp của “Mật mã Da Vinci”. Thú thật chúng cũng tạo nên cảm giác thuyết phục chẳng kém gì mấy so với lập luận của Dan Brown.
Chính vì vậy tôi dự định viết bài này thành hai phần. Với phần I, tôi đã trình bày “Mật mã Da Vinci” như một giả thuyết. Trong phần II, tôi sẽ trình bày “Mật mã Da Vinci” như một “giả” thuyết.
Để tạm kết luận, tôi chỉ có thể nói một câu đảm bảo đúng cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Đó là chỉ có Chúa mới biết chuyện gì đã thực sự xảy ra với Ngài.
Một giả thuyết không mới
Richard Leigh, Henry Lincoln và Michael Baigent (từ trái qua phải)
Dan Brown, tác giả của “Mật mã Da Vinci” vốn không phải là một sử gia hay hay nhà nghiên cứu tôn giáo chuyên nghiệp. Ông đơn giản chỉ là một nhà văn thông minh và hiểu biết rộng. Đa phần các luận giải về Chén Thánh và Mary Magdalene trong cuốn tiểu thuyết không phải là của ông. Dan Brown đã dựa rất nhiều vào các công trình nghiên cứu của những người khác, tiêu biểu là tác phẩm “Dòng máu thiêng, Chén Thánh” (Holy blood, holy Grail) của Baigent, Leigh, hai sử gia hội Tam Điểm và Lincoln, một nhà văn. Những người đã đọc “Mật mã Da Vinci” hẳn có thể nhận ra rằng nhân vật Leigh Teabing chính là ẩn dụ của bộ ba kể trên. Leigh là họ của Richard Leigh, Teabing là phép đảo tự của Baigent, còn Lincoln thì góp cho nhân vật này những cái nẹp chân kim loại. Giống như Lincoln ngoài đời, Teabing cũng bị thọt. Ba tác giả này hiện cũng đang khởi kiện Dan Brown vì ông đã sử dụng công trình của họ mà không xin phép.
Với tài kể chuyện, Dan Brown đã thổi sự lôi cuốn và sinh động vào các giả thuyết sẵn có, xâu chuỗi chúng với nhau bằng những sử liệu và kiến giải của ông về những thông điệp mà người xưa chuyển tải qua các biểu tượng, kiến trúc và hoạ phẩm, biến các công trình nghiên cứu khô khan vốn chỉ được giới học giả quan tâm thành một một món ăn tinh thần mà cộng đồng bạn đọc bình dân dễ dàng hấp thụ.
Tuy nhiên, Dan Brown và cả những tác giả của các giả thuyết hoặc tư liệu có liên quan sẽ khó có thể phủ định được những gì vốn được coi là đúng trong suốt hai thiên niên kỷ qua, nhất là khi những điểm cơ bản mà họ muốn phủ định lại thuộc về Kinh Tân ước, văn bản thiêng liêng của một trong các tôn giáo lớn và lâu đời nhất của loài người. Những người không ủng hộ Dan Brown có đủ lý lẽ để bẻ gãy thành từng mảnh chuỗi biện luận được trình bày khá công phu và logic trong “Mật mã Da Vinci”. Dưới đây tôi xin tóm tắt lại một số ý kiến phản biện của họ theo cùng mạch trình bày như phần I để mọi người có thể dễ dàng đối chứng.
Bức tranh “Bữa tối Cuối cùng” của Leonardo Da Vinci
Với giới độc giả đại chúng vốn dễ tính và cũng dễ tin, những mật mã mà Dan Brown tìm thấy trong bức tranh “Bữa tối cuối cùng” của Leonardo Da Vinci chính là tiêu điểm và có tính thuyết phục cao nhất trong toàn chuỗi biện luận của ông nhờ vào tính trực quan của nó. Những người phản biện thì cho rằng nhân vật mà Dan Brown gọi là Mary Magdalene thực ra là John the Evangelist. Vẻ nữ tính của Thánh John trong tranh không phải là điều gì khác lạ. Các hoạ sĩ thời đó đều có xu hướng thể hiện Thánh John trong dáng vẻ ẻo lả như vậy. Mặt khác bức tranh này đặc tả một khoảnh khắc được ghi lại trong chính Phúc âm của John, khi Chúa phán rằng: “Sự thật là, một trong số các con sẽ phản bội ta” (John 13:21). Giả sử người ngồi bên phải Chúa là Mary Magdalene, thì Thánh John ở đâu? Nếu không có mặt trong bữa ăn, làm sao Thánh John có thể thuật lại nguyên văn lời của Chúa như vậy?
Theo tôi cách phản biện như trên là chưa thoả đáng. Dĩ nhiên Da Vinci không thể vẽ mười bốn nhân vật quanh chiếc bàn vì điều này là trái với kinh thánh. Rất có thể ý đồ của ông là đánh tráo John bằng Magdalene để bức tranh tuy bề ngoài thì có vẻ bình thường nhưng lại ẩn chứa những thông điệp của riêng ông.
Bàn tay vô chủ trong bức tranh của Da Vinci
Dan Brown còn nhắc tới một điểm bí ẩn trong bức tranh nhưng không giải mã được ý nghĩa. Đó là một bàn tay mọc ra từ sau lưng của Judas Iscariot (xem hình) và không gắn với một nhân vật nào cả. Hẳn nhiên nó không thể là tay của Thánh Peter, trừ phi ông có một cấu trúc xương cổ tay dị dạng (nói nôm na là bị khoèo). Điều này thật vô lý vì Leonardo Da Vinci là một họa sĩ bậc thầy về giải phẫu học. Ông từng tiến hành việc mổ xác một cách bất hợp pháp để nghiên cứu về cấu trúc của cơ thể người. Bàn tay vô chủ đó cầm một con dao chĩa vào bụng của Thánh Andrew còn ông này thì giơ hai tay lên trời, vẻ mặt vô cùng hoảng hốt. Vậy hàm ý của Da Vinci là gì? Theo tôi, bàn tay đó thuộc về người thứ mười bốn, bàn tay của Thánh John. Da Vinci đã thể hiện đủ các nhân vật một cách vô cùng khéo léo.
Còn về chi tiết tại sao không tồn tại một cái ly có chân đế trên bàn ăn (vật sau này sẽ trở thành Chén Thánh linh thiêng) thì tôi không tìm thấy một lý giải rõ ràng nào cả. Tuy nhiên, chúng ta hãy cùng thưởng thức một lý giải mang tính hài hước xem sao.
Da Vinci có vẽ Chén Thánh. Nó nằm ngay ở phần trung tâm của bức tranh, lồ lộ trước mắt mọi người. Hãy xem hai hình ảnh bên dưới. Hình phía trên là một công cụ (cái giũa) từng được các thợ mộc vào thời đại của Da Vinci sử dụng một cách phổ biến. Hình dáng của nó khá tương đồng với vật thể nằm trong bàn tay bí ẩn. Còn hình phía dưới là tên và mô tả của công cụ này trong từ điển Webster toàn tập xuất bản năm 1913. Theo đó, công cụ được gọi là Graille, một loại giũa có một cạnh thẳng và một cạnh uốn cong. Vậy là Da Vinci đã chơi chữ. Ông vẽ một đồ vật có tên là Graille để ám chỉ từ đồng âm với nó là Chén Thánh (Holy Grail). Điều này đúng hay sai, dĩ nhiên tuỳ bạn quyết định.
Mary Magdalene
Dan Brown sử dụng các sách Phúc âm theo thuyết ngộ đạo (Gnostic Gospel) mà ông cho là những ghi chép sớm nhất về Chúa Jesus, thậm chí sớm hơn cả Kinh Tân ước để làm minh chứng cho mối quan hệ giữa Mary Magdalene và Jesus cũng như vị trí của nàng so với các thánh tông đồ khác. Tuy nhiên, những người phản bác ông lại khẳng định điều ngược lại. Theo họ, trong khi tất cả các sách Phúc âm kinh điển đều ra đời trong khoảng từ giữa đến cuối thế kỷ thứ nhất sau công nguyên, thì các sách Phúc âm Ngộ đạo chỉ xuất hiện khá lâu sau đó, sớm nhất cũng phải vào khoảng giữa thế kỷ thứ Hai
Chúa Jesus Christ và Mary Magdalene tại thời điểm Ngài phục sinh
Về trích đoạn của Phúc âm Philip mà Dan Brown sử dụng: “Và người đồng hành với Đấng Cứu thế là Mary Magdalene. Đức Ki-tô yêu bà nhiều hơn tất cả các tông đồ khác và người thường hôn lên môi bà. Những tông đồ còn lại cảm thấy khó chịu bởi điều đó và bày tỏ sự không chấp thuận. Họ nói với Chúa, ‘Tại sao Thầy lại yêu nàng hơn hết thảy chúng con?’” thì Jennifer Rast, một trong những người phản đối, cho rằng nó không chứng minh được Mary Magdalene là vợ của Jesus. Thứ nhất nụ hôn môi kiểu như thế này đã được thánh Paul đề cập tới trong câu 1 Corinthians 16 của Kinh Tân ước như là một nụ hôn trinh bạch thể hiện tình bằng hữu. Thứ hai, trong ngôn ngữ Ai cập cổ (Coptic) của nguyên bản, từ người đồng hành (koinonos) chỉ đơn thuần là người đồng hành, chứ không mang ý nghĩa là vị hôn thê như phát biểu của Dan Brown. Theo tổ chức tôn giáo Catholic Answers của Mỹ, lý do khiến Dan Brown và một số người khác cố gắng ép Mary Magdalene vào vai trò là vợ của Chúa Jesus bởi vì nàng là một trong số có thể đếm được trên đầu ngón tay những phụ nữ vừa là môn đệ xuất chúng của Chúa, vừa có tên tuổi rõ ràng và quan trọng hơn, không thấy thấy được kể là có kết hôn với ai đó. Họ cũng bình luận rằng, trong khi tập trung đề cao và khai thác các bản Phúc âm Ngộ đạo phù hợp với giả thuyết của mình, Dan Brown lại lờ đi bản Phúc âm Thomas, dù nó cũng là một bản Phúc âm Ngộ đạo. Bởi vì theo những gì Thánh Thomas viết lại thì khó có thể có chuyện Chúa Jesus dự định lựa chọn Mary Magdalene, hay nói chung là một phụ nữ, làm người kế tục mình để xây dựng và điều hành giáo phái. Chúa đã nói với các môn đệ rằng: “Tất cả những người phụ nữ tự làm cho mình thành đàn ông sẽ được bước vào nước Thiên đàng”.
Còn sự cạnh tranh quyền lực giữa Peter và Mary Magdalene mà Dan Brown đề cập, theo Amy Welborn, người phụ trách chuyên mục của tạp chí tôn giáo “Our Sunday Visitor”, chỉ là sự suy diễn và phỏng đoán. Chẳng có bằng chứng lịch sử nào chứng thực cho điều đó. Thậm chí nó còn phi logic. Luận điểm của Brown dựa trên giả định rằng Thánh Peter và “bè đảng” của ông làm đã tất cả để thâu tóm quyền lực. Nhưng quyền lực đó giúp họ đạt được mục đích gì? Họ không vì thế mà trở nên giầu có. Họ cũng không vì thể mà được nền văn hóa Do thái tôn vinh. Tất cả họ đều chết đi trong sự khinh miệt của người đương thời như những thánh tử đạo.
Hội kín Tu viện Sion
Tu viện Sion không phải do Godefroi de Bouillon sáng lập năm 1099 tại Jerusalem như phát biểu của Dan Brown. Theo những người phản biện ông, Tu viện Sion là tên của một tổ chức được bốn chàng trai trẻ người Pháp thành lập vào năm 1956 tại vùng Annemasse. Tổ chức này có đăng ký hoạt động với chính quyền địa phương và tồn tại không lâu. Từ Sion, vốn rất dễ làm nảy sinh mối liên tưởng tới ngọn núi Zion huyền thoại tại Jerusalem, thực chất chỉ là tên của một ngọn núi nằm ở ngoại vi Annemasse (Col du Mont Sion). Cương lĩnh chính thức của Tu viên Sion khi thành lập là cổ suý cho việc phát triển nhà ở giá rẻ tại địa phương và không hề liên quan đến các chủ đề tôn giáo. André Bonhomme, chủ tịch đầu tiên của tổ chức, đã nhiều lần khẳng định điều này trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Pierre Plantard, 1960
Những giả thuyết về Tu viện Sion mà Dan Brown sử dụng trong lập luận của ông đều xuất phát từ Pierre Plantard, một trong bốn sáng lập viên của tổ chức. Dòng họ Plantard cũng được Dan Brown đề cập như là một trong các nhánh hậu duệ của triều đại Merovingie hay xa hơn là của Chúa Jesus. Còn với những người chống Dan Brown, Pierre Plantard chẳng là gì hơn một gã hoang tưởng, một tín đồ Công giáo La Mã bảo thủ với lập trường bài Do thái và chống lại cộng đồng Vatincan II, từng bị toà kết án sáu tháng tù vì tội “gian lận và biển thủ”. Pierre Plantard bắt đấu sáng tác các câu chuyện về cội nguồn của ông và của Tu viện Sion vào thập kỷ 60 sau khi ông gặp Gerard de Sede. Cả hai đã xuất bản một số bài báo và sách về chủ đề này. Mặc dù tự nhận mình là con cháu trực hệ của vua Dagobert II (triều đại Merovingie) nhưng Pierre Plantard lại luôn giữ khoảng cách với những luận thuyết về “dòng máu thiêng”. Trong các tài liệu của mình, ông cũng không đề cập tới Kinh Tân ước và phủ nhận mối liên quan giữa cương lĩnh của Tu viện Sion với thân thế của Chúa Jesus.
Tài liệu Les Dos