18/06/2018, 16:19

Từ Nguyễn Trường Tộ tới bộ ngũ: “Vĩnh-Quỳnh-Tốn-Tố-Khôi” – Bài 12

Nguyễn Ái Quốc từ 1930 đến 1941 Nguyễn Ngọc Lanh Từ 1920 đến 1930: Mười năm, chỉ mục tiêu Độc Lập – Khi còn ở Pháp (1917-1923), Nguyễn Ái Quốc vào đảng Xã Hội nhưng thật sự chưa hiểu gì về lý tưởng của đảng này, ngay cả những từ ngữ chính trị liên quan cụ cũng chưa hiểu hết. Cụ ...

Nguyễn Ái Quốc từ 1930 đến 1941

Nguyễn Ngọc Lanh

Từ 1920 đến 1930: Mười năm, chỉ mục tiêu Độc Lập

– Khi còn ở Pháp (1917-1923), Nguyễn Ái Quốc vào đảng Xã Hội nhưng thật sự chưa hiểu gì về lý tưởng của đảng này, ngay cả những từ ngữ chính trị liên quan cụ cũng chưa hiểu hết. Cụ hồn nhiên thể hiện một suy nghĩ rất tréo ngoe: Tôi tham gia Quốc Tế Cộng Sản 2 để thực hiện lý tưởng của chủ nghĩa tư bản (!).

Chú thích. Đảng Xã Hội Pháp thuộc Quốc Tế Cộng Sản 2, do Marx và Engels thành lập, có mục tiêu đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Ấy thế mà cụ Nguyễn khi trả lời câu hỏi “vì sao vào đảng này” lại nói rằng: “Chỉ vì đây là tổ chức duy nhất ở Pháp bênh vực nước tôi, là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: Tự do, Bình đẳng, Bác ái”. Rõ khổ! Té ra cụ chưa hiểu rằng cái “lý tưởng cao quý” mà cụ nhấn mạnh là của cách mạng tư sản (!) mà đảng Xã Hội muốn vứt bỏ, để thay thế bằng một lý tưởng cao hơn. Tóm lại, vào đảng Xã Hội chỉ là cái vỏ, còn cái mục tiêu là độc lập dân tộc. Trình độ thế mà cũng được kết nạp!.

Sốt ruột, cụ Nguyễn tự thấy rằng cứ ngồi ở Paris thì có viết bao nhiêu bài tố cáo thực dân ở tận Đông Dương vẫn chẳng đem lại kết quả gì. May quá! Khi kiếm được bản Luận Cương của Lenin về giải phóng thuộc địa, cụ nhận ra một điều: Quốc Tế 2 của Engels không quan tâm gì tới thuộc địa, nhưng Quốc Tế 3 của Lenin lại có chủ trương rất rõ ràng. Tuy chưa hiểu đầy đủ bản Luận Cương này, cụ Nguyễn vẫn bỏ QT2, để theo QT3 – tức là vào đảng CS Pháp.

Trình độ “giác ngộ lý tưởng CS” và mục tiêu thật sự của mình đã được thể hiện khi cụ trả lời câu hỏi của một nữ đảng viên “vì sao tán thành QT3”, như sau: “Rất giản đơn. Tôi không hiểu chị nói thế nào là chiến lược, chiến thuật vô sản và nhiều điểm khác. Nhưng tôi hiểu rõ một điều: Quốc tế III rất chú ý đến vấn đề thuộc địa… Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”… 

– Năm 1923-1924 khi sống ở Moscou, ngoài việc dự một lớp ngắn ngày về lý luận; còn phần lớn thời gian cụ Nguyễn dùng để phát ngôn trong mọi dịp (diễn thuyết, tham luận, viết báo, đề nghị) với chủ đề duy nhất là kêu gọi, thúc đẩy phong trào Cộng Sản quan tâm tới nhiệm vụ giải phóng thuộc địa. Lúc nào cụ cũng lôi cái Luận Cương của Lenin ra để buộc mọi người, mọi tổ chức. Cuối cùng, cụ nhận ra một điều: Quốc Tế 3 tuy quan tâm giải phóng thuộc địa, nhưng lại hiểu rất ít về tình hình phương đông và hoàn cảnh đấu tranh giành độc lập ở đó. Đây chính là lý do số 1 để cụ viết bản báo cáo nhan đề Báo cáo Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ gửi QT3. Ngày nay, nếu đọc lại bản Báo Cáo này, thì ngoài “tình hình”, cụ Nguyễn còn đề cập lý luận, nêu ra sự thiếu sót của chủ nghĩa Marx và đề nghị bổ sung nó. Các sự kiện sau đó cho thấy: QT3, nhất là từ Đại Hội 1928, không coi trọng Báo Cáo này, cả về thực tiễn và lý luận. Hơn nữa, những người lãnh đạo QT3, nhất là Stalin bắt đầu nghi ngờ Nguyễn Ái Quốc “chẳng qua chỉ ái quốc” chứ chưa xứng đáng là một chiến sĩ cộng sản quốc tế.

Chú Thích. Gần đây, việc phát hiện toàn văn bản Báo cáo Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ được coi là sự kiện lớn của đảng CSVN. Đảng CS coi (nguyên văn) “Đây là một tác phẩm lý luận xuất sắc về đường lối và phương pháp cách mạng Việt Nam, với hai luận điểm: 1) Cuộc đấu tranh giai cấp ở các nước phương Đông và ở Việt Nam không diễn ra giống như ở phương Tây; 2) Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Từ đó, Nguyễn Ái Quốc rút ra luận điểm thứ ba: Phải vận dụng sáng tạo và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác sao cho phù hợp với thực tiễn của mỗi nước.

– Nhưng xin nói thật: Với những người kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, theo đúng tinh thần Stalinst, thì lý luận của cụ Nguyễn là “xét lại” (tội quá nặng). Do vậy, hành động của cụ sẽ dẫn đến thủ tiêu đấu tranh giai ấp và thỏa hiệp với kẻ thù (hai tội cực nặng).

– Năm 1924, sau nhiều lần đề nghị, cụ được cử làm phiên dịch cho phái đoàn cố vấn Liên Xô bên cạnh chính phủ Trung Quốc (Tưởng Giới Thạch). Đây là chức vụ công khai, để có lương. Còn nhiệm vụ tự giao (hoặc được giao) của cụ Nguyễn là gây dựng phong trào cách mạng. Lúc này các tổ chức yêu nước của cụ Phan Bội Châu đang trên đà rệu rã và phân hóa; nhất là sau năm 1925 (cụ Phan bị bắt). Ví dụ, từ vài năm trước, một tổ chức thanh niên đã tách ra khỏi Hội Quang Phục (tự lấy tên là Tâm Tâm Xã). Nhân đó, năm 1925, cụ Nguyễn đã vận động những người thích hợp ở Tâm Tâm Xã để thành lập Hội Thanh Niên cách mạng đồng chí.

Chú thích. Tuy nhiên, cần nhắc lại tình hình khi đó: a) Năm 1925 dường như chưa có cụm từ ” chủ nghĩa Mác-Lênin”. b) Năm 1925 cụ là bí thư (nhân vật số 2, đồng sáng lập) của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, do Liêu Trọng Khải, một cộng sự thân tín của Tôn Dật Tiên, làm hội trưởng và ông làm bí thư; tóm lại, vẫn cứ luẩn quẩn với độc laaph dân tộc. c) Năm 1925, không cần bí mật, lén lút, cụ Phan Văn Trường đã công bố trên báo bản Tuyên Ngôn Cộng Sản.

Các bài giảng cho tổ chức thanh niên nói trên được tập hợp lại trong cuốn sách nhỏ, tên là Đường Kách Mệnh (1927). Một số thanh niên trong nước cũng sang Quảng Châu dự lớp, trong đó có Trần Phú, Lê Hồng Phong… sau này trở thành tổng bí thư. Với Hội Thanh Niên, sau này Lịch Sử Đảng coi cụ là người có vinh dự đưa chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam.

– Cũng năm 1927, nội chiến Quốc-Cộng xảy ra, phái đoàn Liên Xô về nước. Cụ Nguyễn sang Xiêm (Thái Lan) hoạt động cách mạng 2 năm ở đây. Trong 2 năm đó, các nhóm (đảng) Cộng Sản trong nước tự thành lập, nhưng mâu thuẫn nhau.

Chú thích. Nếu đọc nguyên văn Đường Cách Mệnh (1927), ta thấy sau phần Tổng Quan (cách viết rất dễ hiểu, đơn giản, nhưng khá hệ thống), cụ đi đến kết luận là Việt Nam nên làm cách mạng dân tộc, trong đó Sĩ, Nông, Công, Thương và toàn dân hợp lực đánh đuổi thực dân, giành lại độc lập cho đất nước. Cụ “chết” chính là ở chỗ này.

Tuy Stalin đã đặt ra cái tên “chủ nghĩa Mác-Lenin” từ 1925, nhưng tên này chưa bén mảng vào Đường Kách Mệnh. Tất nhiên sách có nêu tên Lenin, nhưng đó là khi trích dẫn một câu nói của ông – chứ không có “chủ nghĩa Lênin” nào trong sách hết. Còn Các Mác, sách có nhắc tới, nhưng cũng chỉ dùng làm minh họa cho định nghĩa cách mệnh là gì (?); ví dụ, Mác được coi là “nhà cách mạng về kinh tế” đứng ngang với Galilê (cách mệnh về khoa học); Stêphenxông (cách mệnh về cơ khí); Đácuyn (cách mệnh sinh học)… Sách chia cách mệnh thành hai loại: Cách mệnh thế giới (công, nông đứng lên đánh đổ chế độ tư bản) và cách mệnh dân tộc (toàn dân đứng lên đánh đổ chế độ thực dân). Sách của cụ nói: Hai loại cách mạng này liên quan nhau; ở chỗ, nếu ta đánh đuổi thực dân Pháp, tư bản Pháp bên chính quốc sẽ yếu đi, cách mạng bên Pháp sẽ dễ thành công… Về sau, cụ Trần Phú nói khác hẳn: Cách mạng Việt Nam làm cả hai nhiệm vụ: Trước, làm cách mạng quốc gia; sau, làm cách mạng quốc tế.

Mười năm tiếp: Khổ vì mục tiêu độc lập

– Năm 1930: Đầu năm lên mây, cuối năm xuống bùn

Năm 1930, cụ Nguyễn triệu tập hai hội nghị. Đầu năm, cụ chủ trì, tha hồ nói và giới thiệu các văn bản “con đẻ” của mình. Cuối năm, cụ đau khổ nhìn người ta ra nghị quyết “thủ tiêu” chúng.

– Tháng 2-1930 Nguyễn Ái Quốc – lấy tư cách là phái viên của QTCS – triệu tập và chủ trì một hội nghị gồm 4 đại biểu trong nước và 3 đại biểu hải ngoại, thay mặt tổng số 211 đảng viên. Nay có thể gọi là hội nghịhợp nhất(ba tổ chức) và “thành lập đảng CSVN. Các văn bản Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt do chính cụ soạn thảo được giới thiệu. Tinh thần cơ bản là đoàn kết mọi lực lượng để trước hết chống thực dân. Các đại biểu có nhiệm vụ phổ biến tài liệu trong toàn đảng. Uy tín cụ Nguyễn lên cao tuyệt đối.

Chú thích. Chỉ có 4 đại biểu sang Hồng Công mà phải phổ biến tài liệu theo từng cấp, tới các chi bộ nằm rải rác trong 3 miền rộng mênh mông… Do vậy, có thể nghĩ rằng phải mất nhiều tháng. Ấy thế mà chưa đầy 3 tháng sau – dưới sự lãnh đạo của xứ ủy Trung Kỳ – đã nổ ra bãi công (ngày 1-5) ở Bến Thủy, lan ra thành phong trào chống đối ở hai tỉnh Nghệ-Tĩnh… Với khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào: đào tận gốc, trốc tận rễ” thì đây là cuộc bạo động chẳng mang tính chất “đoàn kết nội bộ nhân dân” một tý nào. Câu hỏi là: Xứ ủy Trung Kỳ đã nhận được 3 văn bản nói trên chưa (?) mà lại hành động ngược lại, nghĩa là rất khớp với Luận Cương của cụ Trần Phú. Khi cụ Trần Phú phê phán Luận Cương của cụ Nguyễn và trình bày Luận Cương của bản thân (tháng 10-1930), thì cuộc bạo động ở Nghệ-Tĩnh đã diễn ra được 5 tháng và còn tiếp tục. Hiện nay, theo Wikipedia, thì cụ Trần Phú là nhân vật số 1 lãnh đạo Xô Viết Nghệ Tĩnh, và cái khẩu hiệu “sắt máu” nói trên chính là do cụ Trần Phú đưa ra.

– Tám tháng sau, trong Hội Nghị trung ương đảng CSVN – cũng do Nguyễn Ái Quốc triệu tập – trong số đại biểu tham dự, đáng chú ý là có cụ Trần Phú, mới về nước sau khi tốt nghiệp trường đại học Phương Đông (được Nguyễn Ái Quốc đề nghị bổ sung vào ban chấp hành trung ương); do vậy, được hội nghị coi như người quán triệt mọi chủ trương, đường lối của QTCS khi đó – mà lúc này đảng CSVN cũng đang rất mong được QTCS công nhận. Cụ Trần Phú vận dụng những điều đã học để phê phán tất cả các văn bản của cụ Nguyễn, ngay trước mặt cụ – theo cách “vuốt mặt không cần nể mũi” – nhưng lại rất được hội nghị lắng nghe, thán phục. Cuối cùng, Hội Nghị thông qua một Nghị Quyết “thủ tiêu” các văn bản trên, để Luận Cương mới do Trần Phú soạn thảo trở thành chính thức. Tác giả của nó được bầu làm tổng bí thư. Việc đổi tên từ đảng CSVN thành đảng CS Đông Dương là chủ trương của QTCS.

Nay, đọc nguyên văn hai Luận Cương (của cụ Nguyễn và cụ Trần) ta hiểu tại sao cụ Trần Phú đề ra cái khẩu hiệu “Trí, Phú, Địa, Hào, đào tận gốc, trốc tận rễ…” – rất đắc dụng trong phong trào Xô Viết Nghệ-Tĩnh.

Chú thích. 1) Quan hệ tình cảm giữa Nguyễn Ái Quốc – Trần Phú. Trước đó 3 năm cụ Trần Phú từ trong nước sang Quảng Châu gặp cụ Nguyễn, dự lớp, nghe giảng “đường cách mệnh” và được giới thiệu sang Nga học tiếp. Giữa họ, đúng là quan hệ như hai thầy-trò thân thiết, và hai người đồng chí chân thành.

2) Quan hệ lập trường giữa Nguyễn Ái Quốc – Trần Phú. Đó là lập trường giữa đấu tranh giai cấp và thủ tiêu đấu tranh giai cấp (đoàn kết vô nguyên tắc). Đó cũng là lập trường giữa triệt để cách mạng và cải lương, thỏa hiệp. Đó còn “tính đảng” của đảng viên, gồm tập trung dân chủ, thiểu số phục tùng đa số… Bởi vậy, thời nay chúng ta không nên dựa vào đạo đức thường tình mà phê phán cụ Trần Phú… một khi cụ coi lập trường, lý tưởng, quan điểm và tính đảng là cao nhất. Cho tới năm 1930, cụ Nguyễn vẫn luẩn quẩn trong lý tưởng độc lập dân tộc; làm sao cao cả bằng lý tưởng thế giới đại đồng của cụ Trần Phú?

3) Để cắt nghĩa, có lẽ cần thấy hoàn cảnh và môi trường có ảnh hưởng tới tính cách con người. Các cụ Stalin, Mao Trạch Đông, Trần Phú… chưa bao giờ có thời gian thật sự sống trong xã hội dân chủ do nền văn minh công nghiệp đem lại. Xã hội tiểu nông lại khác hẳn.

1930-1931: Đường lối “sắt-máu” được thử nghiệm tại Nghệ-Tĩnh

Chính thức mà nói, Luận Cương “thủ tiêu đấu tranh giai cấp” (của cụ Nguyễn Ái Quốc) sau 10 tháng mới bị thay thế bằng Luận Cương của cụ Trần Phú. Với Luận Cương mới, thì chỉ có Công-Nông là lực lượng cách mạng, các giai cấp còn lại (tuốt luốt) đều là kẻ thù, hoặc không đáng tin cậy. Tuy nhiên, trên thực tế sự thay thế chẳng cần đợi lâu đến vậy. Trước khi Hội Nghị trung ương họp (tháng 10-1930) thì ở Nghệ-Tĩnh đã nổ ra bạo động. Đáng chú ý là các cụ chỉ đạo Xô Viết Nghệ-Tĩnh (như Trần Phú, Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Lê Mao) khi đó đều rất trẻ (22-28 tuổi); đều là trí thức bản xứ và đều hy sinh hoặc mất ngay sau đó.

Chú Thích. Trước Xô Viết Nghệ-Tĩnh, còn có cuộc khởi nghĩa Yên Bái (tháng 2-1930). Sinh viên Việt Nam tại Paris có cuộc biểu tình (ngày 20-5) phản đối bản án tử hình lãnh tụ Nguyễn Thái Học. Nhưng cũng tại Paris, chưa rõ vì sao không có hành động nào trong giới sinh viên Việt Nam phản đối nhà cầm quyền Pháp khi Xô Viết Nghệ-Tĩnh cũng bị đàn áp rất dã man, nhiều vị lãnh đạo cũng bị tử hình và cũng hiên ngang, bất khuất ở pháp trường. Chính quyền xã trong cuộc nổi dậy được gọi là “xã bộ nông” (từ Hán-Việt), nhưng được báo cáo với QTCS là các “xô viết” (từ Nga, hầu như chẳng người Việt nào hiểu – kể cả sinh viên thời nay)..

Đảng CS thừa nhận: cụ Nguyễn “đã chết” năm 1932?

Dịp đảng CS được 3 tuổi, cụ Hà Huy Tập viết một bài kỷ niệm, đồng thời cũng là Báo Cáo thành tích – gửi Đông Phương Bộ (Quốc Tế CS). Không khó để tìm đọc toàn bài, nhưng khi đọc cần hiểu đó là bài đã dịch sang tiếng Việt. Còn nguyên bản là tiếng Pháp – giống như mọi văn bản khác của đảng mỗi khi gửi QTCS. Vậy, xin cứ đọc đến cuối bài sẽ thấy chú thích: Gửi “Đông Phương bộ và các thuộc địa“. Và “Lưu tại Kho Lưu trữ Trung ương Đảng. Bản dịch từ tiếng Pháp“. Sau vài câu mở đầu, ta bắt gặp câu sau đây: Đảng Cộng sản Đông Dương vừa được thống nhất vào đêm trước của cuộc bãi công có tính chất khởi nghĩa của các phu đồn điền Phú Riềng, bởi ba nhóm cộng sản của Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ dưới sự lãnh đạo của người sáng lập của nó là đồng chí Nguyễn ái Quốc, đã bị ám sát vào giữa năm 1932 trong các nhà tù địa ngục của Hồng Công. Nhiều người đọc đến đây là… thôi, mừng húm, vì đã có được cái cần có. Đây là bằng chứng được đảng CS chính thức thừa nhận rằng cụ Nguyễn đã chết. Thực ra, tin này do luật sư Loseby tung ra để cụ Nguyễn (sau khi thoát bị kết án ở Hồng Công) khỏi bị truy lùng tiếp.

Chú thích. Báo L’Humanité của đảng CS Pháp đăng lại tin vào ngày 9 tháng 8 năm 1932: “Nguyen Ai Quoc, le vaillant fondateur du P.C. indochinois est mort emprisonné“. Năm sau, 1933, ngày 15-2, báo Cahiers du Bolchévisme tại Mạc Tư Khoa đăng tin đồng chí Nguyễn Ái Kvak đã hy sinh trong nhà tù Hồng Kong vào ngày 26-6-1932.. Rồi có cả lễ truy điệu ở Nga… Năm 1969; ngay sau khi cụ Hồ chết, báo New York Time ngày 6-9-1969 đã đăng bài phỏng vấn bà vợ của luật sư Loseby (Lúc này ông Loseby đã chết).  Bà Loseby xác nhận rằng tin Nguyễn Tất Thành bị chết trong tù là do chính luật sư Loseby tung ra để đánh lạc hướng theo dõi của mật thám Pháp, nhằm giúp cho cụ Nguyễn không bị mật vụ của Pháp theo dõi để bắt sau khi được thả ra khỏi nhà giam.

Chính do vậy, đến khi cụ Nguyễn lặn lội tới được nước Nga (cuối 1933 hoặc đầu 1934) thì tin này cũng… tịt. Phải đoàn cố vẫn Nga (bên cạnh chính phủ Trung Quốc) về nước năm 1927, nay (sau 5 năm) vẫn nhận ra Nguyễn Ái Quốc “bằng xương, bằng thịt”… chưa chết. Nhưng mà không; mãi tận 76 năm sau (1932-2008), ông phó giáo sư Hồ Tuấn Hùng ở Đài Loan, vẫn bắt Nguyễn Ái Quốc phải… chết hẳn, để đưa ông nội mình (là cụ Hồ Tập Chương) thay thế vai trò và chức vụ cụ Nguyễn Ái Quốc – lúc này lấy tên là Hồ Chí Minh. Hai luồng dư luận ăn theo là… 1) tiếp tay ông PGS Hùng chứng minh cụ Hồ Chí Minh không phải cụ Nguyễn Ái Quốc; và 2) gán tội ác cho cụ Hồ Tập Chương – bằng cách chứng minh rằng cụ này tìm mọi cách “diệt khẩu” tất cả những ai có điều kiện nhận ra Tập Chương đang đóng giả Ái Quốc (!).

Chú thích. 1) Chuyện tào lao (từ ngữ do cụ Vũ Thư Hiên dùng) về cụ Tập Chương đóng vai cụ Ái Quốc đến nay chưa hết. Chỉ cần gõ “hồ tập chương” sẽ được google cung cấp những kết quả đưa lên mạng internet rất gần đây: 2015.

2) Trong Báo Cáo nói trên, dù để truy điệu Nguyễn Ái Quốc, Cụ Hà Huy Tập vẫn không quên kể tội. Hãy đọc câu: “Công lao mà ông đã đóng góp cho Đảng chúng ta thật là lớn. Song các đồng chí chúng ta trong lúc này không được quên những tàn dư dân tộc chủ nghĩa của Nguyễn Ái Quốc…    

3) Nghiên cứu một nhân vật lịch sử, lẽ ra phải dựa vào chuỗi sự kiện (phát ngôn, bài viết và hành vi…) để xác định tư tưởng chủ lưu của nhân vật. Trong những tình huống cụ thể, nhân vật lịch sử có thể, hoặc buộc phải, có phát ngôn, hành động xa dời tư tưởng chủ lưu của mình. Đó chỉ là tạm thời. Nhưng do định kiến, người ta rất dễ cắt nghĩa các sự kiện sao cho phù hợp với ý riêng, với lòng yêu ghét… Cực đoan hơn nữa, đó là xét đoán sự kiện theo con mắt của người hầu phòng với những nhân vật mà chúng ta không ưa. Người hầu phòng rất thích tẩn mẩn khám phá những chuyện riêng tư của đối tượng. Và thích kháo chuyện; kích thích tò mò. Nếu đối tượng bị căm ghét, họ sẽ cắt nghĩa sự việc theo chiều hướng họ muốn. Các cụ nay trên 70 tuổi đều biết trước 1964 báo chí miền Bắc đã dùng con mắt của người hầu phòng mô tả cụ Ngô Đình Diệm, khiến người đọc hiểu rằng… có sự “tằng tịu” giữa cụ Ngô và bà em dâu (Lệ Xuân). Nghề hầu phòng không xấu. Nhưng trong chính trị thì khác. 

Mắc nạn ở Hồng Công

Dưới cái tên Tống Văn Sơ, khi hoạt động ở Hồng Công, cụ Nguyễn Ái Quốc bị cảnh sát phát hiện và bắt giữ (1931). Cảnh sát Pháp ở Đông Dương sẵn sàng chi tiền để được giao cụ Nguyễn – với cái án tử hình vắng mặt tuyên hai năm trước. May mắn, cụ được luật sư Loseby cãi trắng án (ngày 28 tháng 12 năm 1932) và giúp trốn khỏi nơi này. Vụ án này được tác giả Bùi Quang Minh tổng hợp và viết lại rất đầy đủ (Vụ án Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông năm 1931) hiện còn lưu trên Chungta.com – một website rất nổi tiếng và bổ ích. Thiết tưởng, không cần nói gì thêm.

Chú thích. Vì sao cụ Nguyễn thoát án? Câu trả lời đầu tiên hẳn phải là “nhờ tài năng và tấm lòng của cụ luật sư Loseby và các cộng tác viên của cụ. Vì sao vị luật sư tận tình với bị cáo đến vậy, mặc dù cãi miễn phí? Vì lương tâm nghề nghiệp và vì biết rõ bị cáo là người hoạt động cách mạng, muốn giải phóng dân tộc mình khỏi ách thực dân. Cụ Loseby cũng rất ý thức rằng nếu không thoát án lần này, bị cáo cũng hết đường sống… Còn có thể hỏi nhiều câu khác.

Tuy nhiên, chớ quên cái gốc: Tòa án nước Anh là độc lập; bộ Luật nước Anh được toàn dân chấp nhận. Nếu không thế, dẫu 100 cụ Loseby cũng không cãi nổi với 1 quan tòa.

Suýt chết ở Liên Xô và rồi thoát vòng cương tỏa (1934-1941)

Thoát chết ở Hồng Công, Nguyễn Ái Quốc chỉ còn đường quay lại Liên Xô. Sau Hội Nghị trung ương tháng 10-1930, uy tín cụ giảm sút. Ở lại Trung Quốc thì không còn danh nghĩa phái viên QTCS, hơn nữa mâu thuẫn Quốc-Cộng Trung Hoa đã thành nội chiến, không dễ hoạt động như trước. Chân ướt chân ráo, vừa tới Liên Xô lại bị cụ Hà Huy Tập không những viết bài phê phán (31-3-1935), mà còn tố cáo cái tội mất cảnh giác gây thiệt hại cho cách mạng. Ngay năm sau, Liên Xô tiến hành cuộc đại thanh trừng, số đảng viên bị bắt là 1,5 triệu (giết 50%, còn lại tù đầy). Hầu hết những người quen biết và cùng công tác với Nguyễn Ái Quốc đều bị khủng bố. Bản thân cụ Nguyễn bị tình nghi về chuyện “thoát án ở Hồng Công sao mà quá dễ dàng” (?). Sự việc lớn đến nỗi Quốc Tế CS phải thành lập Ban Kiểm Tra sự kiện Nguyễn Ái Quốc. Điều may mắn là Ban Kiểm Tra này khách quan và công tâm, mặc dù nhận được những văn bản “chết người” do cụ Hà Huy Tập gửi tới. Sau 5 năm, trong bối cảnh chiến tranh thế giới sắp xảy ra, đường lối của Quốc Tế 3 tỏ ra hòa dịu hơn. Cụ Nguyễn được phép sang hoạt động ở Trung Quốc. Quả là qua cơn ác mộng.

Chú thích. Thư ngày 31-3-1935 gửi QTCS, cụ Huy Tập viết: “… các tổ chức cộng sản đã tiến hành một cuộc đấu tranh công khai chống lại những tàn dư của tư tưởng dân tộc cách mạng pha trộn với chủ nghĩa cải lương của đảng Thanh niên và của đ/c Nguyễn Ái Quốc, những tàn dư ấy rất mạnh và tạo thành một chướng ngại nghiêm trọng cho sự phát triển chủ nghĩa cộng sản… Chúng tôi đề nghị đ/c Lin viết một quyển sách để tự phê bình những khuyết điểm đã qua”.

– Tư liệu về sự đe dọa sinh mạng chính trị (cũng như mạng sống) đối với cụ Nguyễn rất đủ và rất dễ kiếm. Ví dụ, có thư tố cáo Nguyễn Ái Quốc phải chịu trách nhiệm chính về việc hơn 100 Đảng viên của Đảng Cách mạng Thanh niên bị bắt do việc Nguyễn Ái Quốc biết Lâm Đức Thụ trước đây là kẻ phản bội mà vẫn tiếp tục sử dụng; Nguyễn Ái Quốc rất sai lầm khi yêu cầu mỗi học viên cung cấp hai ảnh, họ tên, địa chỉ, họ tên cha mẹ, ông bà nói chung những người sinh thành và địa chỉ chính xác của 2 đến 10 bạn thân. Những bức ảnh của các học viên do Nguyễn Ái Quốc và Lâm Đức Thụ yêu cầu đều vào tay mật thám... Xin nhắc lại một câu đã viết ở trên: Điều may mắn là Ban Kiểm Tra này khách quan và công tâm, mặc dù nhận được những văn bản “chết người” do cụ Hà Huy Tập gửi tới. Và cũng xin nói thêm: Cụ Hà Huy Tập cũng khách quan và công tâm, chớ không có thù riêng với cụ Nguyễn. Cụ Hà chỉ thật lòng vận dụng những gì cụ tiếp thu từ lý luận đấu tranh giai cấp và chuyên chính vô sản khi đối chiếu điều đã học với những gì do cụ Nguyễn Ái Quốc viết ra. Còn những tin tức “chết người” cũng không phải do cụ bịa đặt, mà là “nghe được” và có nhiệm vụ báo cáo lên cấp trên rằng “nghe được”.

– 1938 – 1941: sang Trung Quốc, về Việt Nam

– Năm 1938, cụ Nguyễn trở lại Trung Quốc. Tư liệu khá đầy đủ. Lần này, cụ đóng vai thiếu tá Bát Lộ Quân (đạo quân thứ 8 của đảng CS Trung Quốc) công tác ở Quế Lâm và vài nơi khác thuộc địa bàn mà đảng CS Trung Quốc còn có ảnh hưởng. Lúc này, Quốc-Cộng đã hợp tác chống Nhật. Điều may mắn, trong mấy năm hoạt động, cụ Nguyễn Ái Quốc gặp và được sự giúp đỡ của một chí sĩ yêu nước là cụ Hồ Học Lãm, lúc này là sĩ quan cao cấp của quân đội Quốc Dân Đảng. Trong Hồi ký về cha mình, bà Hồ Mộ La (nay còn sống, con gái chí sĩ) có nhiều chỗ đề cập đến quan hệ giữa hai cụ: Thân thiết, sâu đậm và tin tưởng. Một ví dụ. Cụ Nguyễn nhờ cụ Hồ Học Lãm xin cho một thanh niên là Lê Thiết Hùng vào học trường quân sự Hoàng Phố. Sau này ông Thiết Hùng thành con rể cụ Học Lãm, có nói với gia đình vợ về nhận định của cụ Nguyễn Ái Quốc: Cụ Hồ Học Lãm (lúc đó đang đứng đầu hội Việt Minh), rất thích hợp để làm chủ tịch nước khi chúng ta giành được độc lập. Nhưng cụ Hồ Học Lãm đã mất từ khá lâu, trước khi ông Lê Thiết Hùng được chính phủ cụ Hồ phong thiếu tướng sớm nhất (ngay năm 1945). Tác giả cuốn hồi ký (về cha mình) không nói tên hiệu của thân phụ là Hồ Chí Minh như dư luận bàn tán.

Chú thích. Cụ Hồ Học Lãm, do địa vị hợp pháp của mình, đã xin phép chính phủ Tưởng Giới Thạch thành lập một hội lấy tên là hội Việt Nam Độc lập Vận động Đồng minh Hội (gọi tắt là Việt Minh). Hiểu sang tiếng Việt, đây là hội của những người cùng hợp sức “vận động cho nên độc lập của Việt Nam”. Thực chất, đó là nơi an toàn để các nhà cách mạng Việt Nam có thể hoạt động ở Trung Quốc – dưới dang nghĩa hội viên Việt Minh. Vài năm sau, ở trong nước cụ Nguyễn Ái Quốc (lúc này là Hồ Chí Minh) cũng lập một Hội cùng tên; nhưng bỏ hai chữ “vận động”, vì thực chất đây là mặt trận rộng lớn, gồm nhiều đoàn thể, có phạm vi hoạt động cả nước. Dự kiến: sẽ tới lúc cụ Hồ Học lãm về nước, đứng đầu Hội này, để sau đó đủ danh nghĩa và uy tín trở thành chủ tịch nước. Nhưng dự kiến không thành.

Đầu tháng 1-1941, cụ Hoàng Văn Thụ, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng từ Việt Nam sang gặp cụ Nguyễn Ái Quốc để báo cáo kết quả xây dựng và củng cố “khu an toàn” Cao Bằng và đề nghị cụ Nguyễn về nước – cũng đúng với dự định của cụ Nguyễn.

Năm 1940: Kết thúc hẳn sự tồn tại Luận Cương 10-1930

Sau thất bại của cuộc bạo động ở Nghệ-Tĩnh, đảng CS Đông Dương thiệt hại rất nặng nề, rơi vào thời kỳ thoái trào. Có những năm, ở trong nước không có nổi ban chấp hành trung ương, mà “Ban Hải Ngoại” phải đóng vai trò này. Suốt 10 năm, đảng không tổ chức được cuộc nổi dậy vũ trang nào. May mắn, khi Mặt Trận Nhân Dân bên Pháp lên cầm quyền (1936), nhiều đảng viên ở VN được tha tù; một bộ phận hoạt động nửa công khai (ra báo, ứng cử vào các cơ quan dân cử…), nhờ vậy đảng phục hồi. Ban chấp hành trung ương do cụ Nguyễn Văn Cừ đứng đầu, trên thực tế đã thực hiện nhiều nội dung Luận Cương “đoàn kết” của Nguyễn Ái Quốc. Sức mạnh dân tộc hướng mũi nhọn vào đế quốc, thực dân, mà tạm quên mục tiêu diệt địa chủ, phong kiến. Nhưng tới năm 1940, một hành động tả khuynh lại gây thiệt hại lớn – nặng nề hơn thất bại trong cuộc bạo động Nghệ-Tĩnh trước đây. Đó là cuộc Khởi Nghĩa Nam Kỳ, do xứ ủy Nam Kỳ chủ trương. Qua đây, có nhận xét rằng cấp ủy Trung và Nam Kỳ tả khuynh rất nặng, so với Bắc Kỳ. Trung Ương đảng (đóng ở Bắc Kỳ) đã chỉ thị hoãn khởi nghĩa vì dự kiến sẽ thất bại (tình thế chưa chín, chuẩn bị chưa đủ), nhưng không kịp. Cuộc khởi nghĩa bị đàn áp. Không những các nhà lãnh đạo trực tiếp cuộc nổi dậy bị tử hình, lưu đầy, mà nhiều vị khác cấp cao khác cũng bị xử trí nặng nề vì “chịu trách nhiệm về mặt tinh thần”.

Mười năm tiếp theo: Trong 60 năm hoạt động cách mạng, thì 50 năm bất như ý, nhưng có 10 năm (1941-1951) cụ Nguyễn Ái Quốc, dưới tên Hồ Chí Minh, được toàn tâm và toàn quyền (huy động toàn lực dân tộc) thực hiện tư tưởng chủ đạo của mình. Đó là giành lại độc lập cho đất nước. Cụ cũng chịu trách nhiệm về dân trí, dân khí, dân sinh sao cho cho xứng với nền độc lập.    

Bài 13 (tiếp): Hồ Chí Minh từ 1941 đến 1951

 

0