Núi xanh nay vẫn đó (biên khảo lịch sử)
Tác giả: Nguyễn Duy Chính MỞ ĐẦU Thanh sơn y cựu tại Kỷ độ tịch dương hồng1 青山依舊 在 幾度夕 陽紅 Núi xanh như cũ còn đây, Chiều buông ráng đỏ đã thay bao lần. Nhìn vào cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam, những vương quốc bị xâm lấn không hẳn đã vì ...
Tác giả: Nguyễn Duy Chính
MỞ ĐẦU
Thanh sơn y cựu tại
Kỷ độ tịch dương hồng1
青山依舊 在
幾度夕 陽紅
Núi xanh như cũ còn đây,
Chiều buông ráng đỏ đã thay bao lần.
Nhìn vào cuộc Nam Tiến của dân tộc Việt Nam, những vương quốc bị xâm lấn không hẳn đã vì kém văn minh, mà trái lại có những thời đại huy hoàng sớm sủa hơn chúng ta nhiều. Những công trình gần đây nghiên cứu về người Chiêm Thành (Chăm) và người Chân Lạp (Khmer) đã chứng tỏ điều đó.
Riêng về người Chăm, những di tích của vương quốc này cho thấy họ đã hình thành được một xã hội qui mô khá sớm sủa. Vào thế kỷ 17, 18 khi quốc sử coi như đã đặt một dấu chấm hết cho vương quốc Chiêm Thành thì trong các tài liệu của những nhà nghiên cứu ngoại quốc, người ta vẫn còn ghi nhận một khu vực được coi như giang sơn riêng của người Chăm – ít ra cũng bán độc lập với giang sơn của chúa Nguyễn được gọi là Đàng Trong. Một điều chắc chắn, sự tan biến của quốc gia này không đơn giản chỉ là xoá sổ một chính quyền như nhiều trường hợp trong quá khứ, cũng không phải chỉ là thay tên đổi họ của một triều đại.
Tuy ngày nay cái tên Chiêm Thành chỉ còn trong sách vở, ảnh hưởng của văn hoá Champa còn tồn tại hầu như khắp mọi sinh hoạt, hiển hiện cũng có, lẩn khuất cũng có nơi một phần lớn văn hoá miền trung và miền nam. Ảnh hưởng đó ít ai để ý vì trong các nghiên cứu, chúng ta đặt nặng việc khai thác các tài liệu của người Việt (thường gọi là người Kinh) mà ít quan tâm đến văn minh và di sản của các dân tộc khác đã một thời sống chung trên cùng một mảnh đất.
Có tác giả cho rằng mặc dầu người Việt đã đồng hoá được nhiều dân tộc khác bằng tiếng nói nhưng ngược lại, trong khía cạnh sinh hoạt và văn hoá chúng ta lại thu nhập khá rộng rãi tập quán của nơi quê hương mới đến cư ngụ, biến đổi cho phù hợp thành tài sản của mình.
Gần đây, một số học giả trong nước cũng như ngoài nước đã bắt đầu những khảo sát tương đối khoa học hơn về vương quốc Champa, không chỉ giới hạn vào những công trình mỹ thuật còn tồn tại mà đào sâu vào văn hoá đặc thù của người Chăm để lượng định lại những đóng góp trong hơn 1000 năm lịch sử của họ.
LỊCH SỬ
Nghiên cứu về Chiêm Thành bị nhiều giới hạn. Tuy đế quốc Champa đã tồn tại trong một thời gian dài để lại nhiều công trình qui mô đáng chú ý nhưng phần lớn đã bị hủy hoại theo thời gian và cả những triệt hạ cố ý của nhiều triều đại người Việt nên ngày nay tài liệu về họ còn rất ít. Tổng hợp những ghi chép trong sử nước ta, Campuchia, Trung Hoa và một số văn bia bằng tiếng Sanskrit còn sót lại chỉ cho chúng ta một khái lược về lịch sử dân tộc Chăm, nhiều thời kỳ bị đứt quãng chưa có câu trả lời thoả đáng. Tuy chưa đầy đủ mọi chi tiết nhưng những công trình nghiên cứu gần đây cũng giúp chúng ta cũng hình dung được phần nào thời oanh liệt của một dân tộc nay chỉ còn là thiểu số trên chính quê hương họ.2
Đế quốc Champa trước nay vẫn được coi là một quốc gia trong khối bị Ấn hóa (Indianized states) ở Nam Á bao gồm một khu vực rộng từ Miến Điện sang Vân Nam dọc xuống Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Java, Cambodia, và Champa. Khu vực đó có nhiều đặc tính chung, về mỹ nghệ cũng như văn học. Nhìn một các tổng quát, ngay cả khu vực miền Bắc Việt Nam thời thái sơ cũng có chung một mẫu số và có lẽ chỉ biến dạng sau khi khu vực này bị sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa trong hơn 1000 năm và liên tiếp bị pha trộn bởi nhiều đợt di cư của người Hán tràn xuống nảy sinh nhiều xung đột giữa dân bản địa với dân di cư.
Trong một thời gian dài, các sắc dân vùng Đông Nam Á liên tục nổi lên chống lại, đáng kể nhất là các dân tộc ở tây và nam Trung Hoa khiến các triều đình đời Hán, Đường phải hao binh tổn tướng rất nhiều. Các dân tộc ở miền nam cũng thường tấn công lên vùng đất mới của Trung Quốc – tức miền Bắc nước ta ngày nay – để giành đất và người Trung Hoa ghi lại như những đám giặc bể “vào cướp pháGiao Chau” được nhắc đến trong sử nước ta thời Bắc thuộc.3
Thời kỳ đó, dọc theo duyên hải Việt Nam có rất nhiều dân tộc khác nhau sinh sống, bao gồm cả những nhóm thiểu số trên một vùng cao nguyên rộng lớn phía tây giáp tới sông Mékong, nên khi tập hợp được để hình thành một quốc gia đã mang vẻ dáng của một cộng đồng hợp chủng. Ưu điểm của cơ chế này là khi một chính quyền sử dụng được sức mạnh tổng hợp thì rất mạnh nhưng nếu chia rẽ đánh lẫn nhau thì lại dễ dàng bị người ngoài thôn tính. Những sinh hoạt cơ bản của họ cũng gần gũi hơn với văn hoá hải đảo chứ không bị ảnh hưởng nặng từ phương bắc.
Trong nhiều thế kỷ nội thuộc nước Tàu, Việt Nam bị giam hãm trong vai trò phụ thuộc về địa lý và chính trị, một khu vực để khai thác tài nguyên cung ứng cho chính quốc nên tuy trên danh nghĩa là một quận huyện của Trung Hoa nhưng vẫn bị coi là man di chứ không bình đẳng với họ. Trái lại, bên kia “cot đong Ma Vien”4 ở biên giới cực nam, những dân tộc sống ngoài vòng cương toả của người Tàu đã có cơ hội phát triển khá cao về thương mại và kinh tế. Nhiều chứng tích cho thấy ngay từ những thế kỷ đầu tiên của Công Nguyên thương nhân Nam Á đã qua lại buôn bán dọn đường cho ảnh hưởng Ấn Độ về chính trị, tôn giáo và sinh hoạt xã hội. Sự thịnh vượng vật chất cũng giúp cho họ có điều kiện phát triển trên lãnh vực tinh thần trong đó mỹ nghệ, điêu khắc, kiến trúc, âm nhạc có nhiều nét nổi bật.
Carte du Royaume de Siam (bo phan) (Placide de Sainte Hélène, 1649-1734)
Bản đồ vương quốc Xiêm La do Placide, một giáo sĩ dòng Augustine hoạ tại Paris năm
1686 (hiện tàng trữ tại Paris)
Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 108
Insulae Mollucae (bo phan) (Petrus Plancius, 1552-1622)
Bản đồ Quần đảo Molucca do Plancius, một chuyên gia bản đồ ở Amsterdam hoạ tại
Hoà Lan năm 1594 (hiện tàng trữ tại Amsterdam)
Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 88
India quae Orientalis dictitur et Insulae Adiacentes (bo phan)
(Willem Gianszoon Blaeu, 1571-1638)
Bản đồ Ấn Độ và các đảo lân cận vùng Viễn Đông của Blaeu, thuộc Công Ty Đông Ấn
Hà Lan vẽ năm 1635, hiện tàng trữ tại Amsterdam.
Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 96
Partie Meridonale de l’Inde (bo phan)
(Nicolas Sanson d’Abbeville, ?-1667)
Bản đồ Miền Nam Ấn Độ do Nicholas Sanson, một chuyên gia về bản đồ người Pháp
vẽ năm 1654 (hiện tàng trữ tại Paris)
Mapping the Silk Road and Beyond, tr. 101
LẬP QUỐC
Các sử gia đã nhận thấy tất cả khu vực là một quần thể giữa đất, núi và biển với hàng chục ngàn đảo lớn nhỏ mà nhiều nơi thổ dân còn giữ được những sinh hoạt cổ xưa khắc trên các trống đồng ở khắp vùng Đông Nam Á 5. Tuy nhiên, người ta vẫn chưa đưa ra một nhận định rõ rệt về sự chuyển biến từ sinh hoạt bộ lạc sang một xã hội qui mô hơn, điển hình là vương quốc Champa đã hình thành ra sao, vào thời kỳ nào. Nhiều người cho rằng dân tộc Chăm là một giống người thuộc nhóm Austronesian và Champa là hậu thân của vương quốc Phù Nam6.
Champa cũng là một trong những nước ảnh hưởng văn minh Ấn Độ rất sớm của vùng Viễn Đông. Việc Ấn hoá đó có thể coi như một cuộc canh tân vĩ đại vì vào đầu công nguyên, thời đại Gupta (Gupta Era 320-550 CE) được coi là thời kỳ hoàng kim (Golden Age) của văn minh, đứng đầu thế giới trong nhiều mặt kể cả khoa học, kỹ thuật và tổ chức chính trị, là khuôn mẫu cho các dân tộc vùng Đông Nam Á vừa thoát khỏi thời kỳ bộ lạc.7
Ngay từ thời cổ, người ta đã ghi nhận rằng vương quốc Champa bao gồm hai hạng người, người Chăm và người mọi (savages), tuy về nhân chủng đều là một giống Austronesian nhưng người mọi bị coi rẻ, được gọi dưới những tên như Mlecchas hay Kiratas.8 Việc phân chia giai cấp đó là một thường tình trong mọi xã hội nhưng cũng có thể do ảnh hưởng của Ấn Độ, nền văn minh đề cao những người lãnh đạo thần thánh, những vua chúa có sức mạnh siêu nhiên (supernatural god-kings) và thứ bậc trong xã hội là ý nguyện và sắp đặt của thần linh.
Vị trí các khu vưc Champa cổ
Tâm Quách-Langlet: “The Geographical Setting of Ancient Champa”
(Proceedings of the Seminar on Champa, 1994) tr. 25
Theo nghiên cứu của Tâm Quách-Langlet, Champa cổ bao gồm 5 phần, mỗi phần có một trung tâm văn hóa.
– Ở phía bắc có Indrapura, nay thuộc Bình Trị Thiên tức là các châu Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính mà Chế Củ đã nhượng cho vua Lý Thánh Tông để xin chuộc mạng. Ngoài ra còn phải kể thêm hai châu Ô, Rí là phần đất Chế Mân dùng làm sính lễ để xin cưới công chúa Huyền Trân đời Trần.
– Kế đó là Amaravati, nay là Quảng Nam và Quảng Ngãi, có trung tâm văn hóalà Trà Kiệu (Simhapura hay Indrapura).
– Khu vực thứ ba là Vijaya, tức Bình Định ngày nay, thủ đô là Chà Bàn9, có cửa bể Cri-Bonei (Thị Nại), phía nam chấm dứt ở đèo Cù Mông.
– Khu vực thứ tư là Kauthara, nay thuộc Khánh Hòa, có hai con sông chính là sông Cái và sông Đà Rằng. Nơi đây có đền Po Ngar tượng trưng cho vương quyền Chiêm quốc.
– Vùng đất cuối cùng là Panduranga, nay là Bình Thuận, Ninh Thuận.10
Y phục của miền Nam khi đó ảnh hưởng của người Chăm rất nhiều
Ngoài khu vực dọc theo duyên hải, vùng ảnh hưởng của vương quốc Champa còn bao gồm cả vùng cao nguyên trong đó nhiều giống dân khác sinh sống như Chru, Roglai, Stieng, Rhadé, Jarai … trước đây rất gần gũi với người ở miệt dưới (lowland people). Nhiều tác giả đã đề cập đến những di tích còn sót lại ở bắc Cambodge và Nam Lào và cho rằng vùng đất này trước đây cũng thuộc vương quốc Champa11.
Một điểm quan trọng là ngày xưa ranh giới quốc gia không rõ rệt, ngoài những khu vực có mốc thiên nhiên như sông, biển, phần lớn người ta miêu tả lãnh thổ theo định nghĩa một vùng ảnh hưởng (sphere of influence), co dãn, linh động tuỳ từng thời kỳ và khi Champa mạnh, các bộ lạc hay tiểu quốc ở đông bộ sông Mékong cũng thần phục và biên giới phía tây của Champa kéo dài tới Xiêm La. Nói chung ra họ là một vương quốc đa chủng trên phương diện nhân văn và là một tập hợp nhiều vương quốc nhỏ trên phương diện hành chánh. Tuy các tiểu quốc đó đều nằm dưới quyền một triều đình nhưng mỗi khu vực có tổ chức xã hội, kinh tế, tín ngưỡng và văn hoá ít nhiều khác biệt.
Po Dharma khẳng định rằng “Champa khong phải là mot quoc gia duy nhat mà là mot lien hơp của nam địa khu Indrapura, Ameravati, Vijaya, Kauthara và Panduranga, moi khu vưc có mot thủ đo rieng”.12
Người Chăm sống dọc theo bờ bể thường trao đổi buôn bán, một mặt các sản phẩm núi rừng với người thượng du, một mặt với các thương nhân đi thuyền ngang qua đó. Đã có những thời kỳ vùng biển miền Trung nước ta là một khu vực sầm uất mà nhiều thương nhân Âu Châu đã có ý định dùng làm một đầu cầu thay thế cho các sản phẩm họ vẫn lệ thuộc vào Trung Hoa như gia vị, đồ gốm, tơ lụa … Chiến tranh và loạn lạc đã khiến cho họ phải từ bỏ ý định đó.
Vì đất đai nhỏ hẹp không sản xuất đủ gạo lúa cho nhu cầu nên muốn sinh tồn, cả ba mặt, nông nghiệp, thương mại và ngư nghiệp phải phát triển đồng bộ. Những năm mất mùa, người Chăm thường tổ chức những đoàn thuyền sang mua, đổi hay có khi ăn cướp thực phẩm của lân bang. Chính vì thế, đời sống và sinh hoạt của họ đa dạng hơn, có máu phiêu lưu hơn và họ đã giao thiệp với nhiều quốc gia Nam Á ngay từ thời thượng cổ. Người Chăm cũng nằm trong những thương nhân đầu tiên mạo hiểm đi thuyền đến những vùng đất xa xôi như Úc Châu và Đông Phi. Thổ dân sống trên đảo Madagascar được xác định có gốc từ Đông Nam Á. Theo tài liệu của Trung Hoa, những thương nhân này được gọi dưới cái tên “k’un lun”, da đen, tóc quăn đã dùng thuyền buôn bán khắp vùng biển đông. Điều đáng chú ý nhất là theo miêu tả, người k’un lun chỉ thoải mái khi ở trên núi hay ở dưới biển mà thường đau ốm khi ở vùng đồng bằng, rất phù hợp với địa lý miền Trung nước ta là nơi đất hẹp, núi chạy dài ra sát biển.13
Theo Maspéro, người Chăm có 14 triều đại. Triều đại thứ nhất từ thế kỷ thứ 2 tới thế kỷ thứ tư sau Tây Lịch. Những vua Chăm thường được ghi lại trong sử Tàu (rồi ta chép lại) họ Phạm mà Majumdar cho là dịch từ chữ Varman là đế hiệu của các vì vua Champa, cũng như chữ Shri (Sovereign Lord) người Việt dịch ra thành Chế.
Người Trung Hoa đặt cho tiểu quốc này cái tên Lâm Ấp, Chiêm Thành và là một trong số rất ít các vương quốc hình thành sớm nhất trong vùng Đông Nam Á.
Để giảm thiểu áp lực từ Trung Hoa, người Việt dần dần lấn xuống đất đai của Chiêm Thành, khi thì bằng võ lực, lúc bằng ngoại giao và hai bên đã có nhiều cuộc giao tranh đẫm máu. Theo Việt sử, người Chăm thường hay tràn lên cướp phá chủ động tạo ra những xung đột giữa hai vương quốc nhưng rất có thể đó chỉ là cái cớ để biện minh cho những cuộc Nam chinh và Nam tiến là lối thoát duy nhất để người Việt có thể sinh tồn – hiểu nôm na là “dùi đanh đuc, đuc đanh sang”. Khi so sánh với Nam Chiếu, một quốc gia khác mặc dù hùng mạnh hơn nhưng vì không có đường lùi nên đã bị xâm lăng và tiêu diệt, C. P. Fitzgerald đã nhận định một các chua chát như sau:
Lịch sử Viet Nam và Nam Chiếu chạy theo hai con đường song song nhưng rồi đổi hướng. Cả hai quốc gia đều vì bị nước Tàu thôn tính nên chịu ảnh hưởng văn hoá của họ; cả hai đều thành công trong việc đánh đuổi đươc chính quyền đô hộ kia đi mà vẫn giữ đươc bản sắc; Nam Chiếu thu hoi đoc lap trước Viet Nam đen hai tram nam. The nhưng ngay khi vừa đươc thoát cui so long, người Viet lap tức “tien ve phương Nam”, mởrong bờcoi với muc tieu lau dài làcho dan định cư và thuoc địa hoá, mac dau viec thong nhat chính trị van còn long leo. Ho khong chiem đat của Trung Hoa, trong lịch sử chưa có mot vì vua Viet Nam nào lai lơi dung khi nước Tàu suy yếu để xâm lăng họ.
Còn Nam Chiếu thì ngươc hẳn. Họ không the Nam Tiến vì chỉ có mot khoang đat trong đe chiem. Banh trương ve phía Trung Hoa có nghĩa là phải đoi phó với mot cương quoc ngay cảkhi suy thoái cung van rat là ghe gớm và mot khi ho thong nhat đươc thì khong sao chống nổi.14
Cũng vì dân Việt quen sinh nhai bằng nghề nông nên chỉ thẩm nhập được những khu vực đồng bằng, đẩy lùi những người sống dọc theo duyên hải lên vùng cao chứ không chiếm lĩnh được toàn bộ lãnh thổ phụ thuộc vương quốc này. Những sắc dân địa phương bị triệt đường ra biển suy tàn dần để trở thành thiểu số, trở thành những đơn vị hành chánh của triều đình Đại Việt nhưng vẫn sống biệt lập và tự trị trong một số qui mô nhất định, không bị câu thúc một cách triệt để. Mãi đến khi người Pháp chiếm được toàn bộ Đông Dương, các khu vực cao nguyên mới dần dần có thêm người Kinh di cư lên sinh sống.
Xung đột Việt – Cham
Năm Thiên Phúc thứ 3 đời Lê Đại Hành (982 sau TL), vua Lê thân chinh đi đánh, giết được vua Chiêm Paramesvaravarman, đốt phá kinh thành ở Đồng Dương và bắt về 100 cung nữ, một nhà sư Thiên Trúc cùng vô số bảo vật. Người Chiêm vội vàng gửi người sang kêu nài nhà Tống nhưng vua Tống vẫn sợ uy nước Nam không dám can thiệp.
Tới đời nhà Lý, nước Chiêm nội tình hỗn loạn, tranh giành xâu xé lẫn nhau, nhiều người trong hoàng tộc chạy sang nương nhờ Đại Việt. Năm 1061, vua Rudravarman III (Việt Nam gọi là Chế Củ còn Po Dharma viết là Pudravarman III15) lên ngôi, có chí báo thù nên chăm lo chuẩn bị để đánh nước Nam, lại thông hiếu với nhà Tống để cô lập Đại Việt, mặt khác vẫn giả vờ triều cống hàng năm để che dấu chủ tâm. Đến khi sự thể đã rõ ràng, vua Lý Thánh Tông liền thân chinh đem quân đi đánh. Ngày 16 tháng 2 năm 1069, quân Việt tiến đến cửa Tu Mao, hai bên giao tranh, quân Chiêm chết vô số kể, vua Rudravarman đem gia đình chạy xuống Chân Lạp nhưng Lý Thường Kiệt đuổi theo bắt được.
Sau khi đãi yến và múa hát ở kinh đô Trà Bàn, vua Lý Thánh Tông cho đốt hết cung điện rồi rút về, đem theo vua Chiêm và gia quyến cùng khoảng 5 vạn tù binh.16 Rudravarman xin dâng ba châu ở phía bắc là Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính để chuộc mạng. Lãnh thổ nước Nam tới đây kéo dài đến tận cửa Việt và sau đó người Chăm vẫn nhiều lần đánh phá để đòi lại vùng đất này nhưng không thành công.
Năm 1074, một ông vua mới lên ngôi lấy hiệu là Harivarman IV, lập ra vương triều thứ
9. Năm 1075, Lý Thường Kiệt thống lãnh quân Đại Việt lại tiến đánh nhưng bị thua phải rút về. Vua nhà Lý xuống chiếu chiêu mộ di dân vào lập nghiệp ở những vùng đất mới để củng cố bờ cõi. Nhiều làng vùng Quảng Bình lập ra từ thời này.
Vua Harivarman có ưu điểm là bên cha thuộc dòng Dừa17, bên mẹ thuộc giòng Cau18 vốn là hai đại gia tộc vẫn kình chống nhau của người Chăm. Thành thử ông có khả năng thu phục cả hai bên, tạo thành một thời kỳ hùng mạnh, tu bổ nhiều đền đài, lập nhiều bia đá còn lưu lại đến ngày nay, nhờ đó chúng ta biết được phần nào lịch sử của họ. Trong một tấm bia tìm thấy ở Mỹ Sơn có khắc như sau:
Bên địch đã tiến vào kinh đô nước Champa và chúng tự coi là chủ nhân ông, chiếm đoat moi tài sản của hoàng gia và các báu vật của chư thần, cướp bóc đen chua, tu vien, salas (?), mieu mao, an cư, lang mac và các lau đài đem theo ngưa, voi, trau bò thóc lua, tàn phámoi thứ trong các tỉnh lỵ của vương quoc Champa bắt đi cả những người giữ đền, vũ công, nhạc sĩ
Tấm bia viết tiếp:
Thế rồi hoàng thương Vijaya Sri Harivarmadeva, Yan Devatamurti lên ngôi. Ngài đánh bại hoàn toàn quân địch, đuổi chúng đến ậan Nagara Champa và khôi phục lại đền Srisanabhadresvara.19
Người Chiêm mất của lại đem quân xuống phương nam cướp người Chân Lạp đem về xây lại các đền đài của mình, tái lập thời thịnh trị trước đây. Từ năm 1074 đến năm 1080, người Chăm tiến chiếm Sambor, phá huỷ đền đài cung điện và bắt nhiều dân chúng làm tù binh. Người Khmer phục thù tiến đánh chiếm được kinh đô Vijiya vào khoảng từ 1145 đến 1149.
Sang đến năm 1177, Champa đem thuỷ quân đi theo đường sông Mékong và đại chiến với quân Khmer tại Tonle Sap, chiếm được Angkor. Năm 1190, vua Khmer Jaya- varman VII đem quân chiếm Champa, chia ra hai phần và sáp nhập thành một tỉnh của Khmer trong khoảng từ 1203 đến 1220. Tuy nhiên sau đó, hai nước Champa và Khmer phải nương tựa vào nhau để chống lại Xiêm La và Đại Việt nên tình hình tương đối ổn định, có những liên hệ mật thiết về kinh tế và chính trị.20
Chiến tranh kháng Nguyên
Khi nghiên cứu về những lần kháng chiến chống quân Nguyên, dường như các sử gia Việt Nam hoàn toàn bỏ quên đại chiến lược của nhà Nguyên và khung cảnh chung của vùng Đông Nam Á ở thời kỳ này, đồng hoá đoàn quân tiến sang nước ta với những đội kỵ binh chạy ào ào như gió cuốn trên các vùng thảo nguyên và sa mạc cực bắc, chinh phục một khu vực bao la từ Á sang Âu. Việc hạn chế bối cảnh nghiên cứu đó khiến cho nhiều người vô tình hay cố ý cường điệu – nếu không nói là khoa trương một cách lố bịch – về thành quả của nhà Trần nói riêng và của dân tộc Việt Nam nói chung, bỏ quên vai trò của những dân tộc khác có cùng một quyết tâm chiến đấu không chịu thần phục người Mông Cổ.
ĐẾ QUỐC NGUYÊN MÔNG
Ngay từ thời thượng cổ, những dân tộc phía bắc đã là một mối đe dọa lớn cho người Trung Hoa. Những bộ lạc phía bắc là giống dân du mục, sống bằng chăn nuôi rất thiện chiến. Mỗi khi đói kém, họ tràn xuống miền nam quấy phá và cướp bóc lương thực. Người du mục sinh sống trên lưng ngựa ngay từ khi còn nhỏ nên khi trưởng thành nam cũng như nữ đều thiện nghệ về cung tên, quen với chém giết vì đó là sinh hoạt gần như tự nhiên để sinh tồn. Không những họ tàn nhẫn với người Tàu ở phương nam mà cũng luôn luôn tranh giành giữa bộ lạc này với bộ lạc khác, đánh lẫn nhau để cướp gia súc, đàn bà, tài vật. Thành thử một khi họ liên kết được với nhau thì trở thành một sức mạnh khủng khiếp. Sức mạnh chủ yếu của họ trong chiến đấu là sự di động. Ngựa miền mạc bắc tuy nhỏ con nhưng dai sức, chạy rất nhanh21. Mỗi chiến sĩ thường đem theo hai ba con ngựa và đi bộ để dưỡng sức, chỉ khi nào tới gần quân địch mới nhảy lên xông thẳng vào trận địa. Vũ khí chính yếu của họ là cung tên, họ có thể vừa phi ngựa vừa bắn cung bách phát bách trúng. Theo sách vở, mỗi kỵ binh Mông Cổ thường mang hai loại cung, một loại bắn gần và một loại để bắn xa (có thể tới 300 mét). Túi đựng của họ mang được đến 60 mũi tên, có loại bắn thủng được áo giáp, có loại khi bắn ra có tiếng rít dùng để truyền tín hiệu. Quân sĩ của họ lại rất có kỷ luật và nhạy bén trong chiến trận. Đời Đường người Khiết Đan thành lập nước Liêu, mặc dù chỉ bao gồm độ mươi bộ tộc, dân số chỉ độ non một triệu nhưng cũng đã khiến cho người Trung Hoa điêu đứng. Cũng ở phía bắc, người Nữ Chân (tức Mãn Châu) tuy luôn luôn bất hòa với người Khiết Đan nhưng lại cũng đe dọa nước Tàu. Người Nữ Chân lại có trình độ kỹ thuật quân sự khá cao, biết sử dụng những loại chiến xa và súng bắn đá nên đã tiến đánh những thành thị của Tống triều ở miền bắc một cách dễ dàng.
Tới cuối thế kỷ thứ 12, khí hậu miền quan ngoại trở nên khắc nghiệt. Nhiều vùng bị hạn hán lâu năm khiến cho các thảo nguyên bị khô cháy, thiếu thực phẩm cho những bầy gia súc. Để sinh tồn họ chỉ còn nước nhòm ngó cái kho thực phẩm ở phương nam và người khai thác được cơ hội là Thành Cát Tư Hãn (Chinggis hay Ghengis Khan 1162-1227) một nhân vật nổi danh trong lịch sử thế giới. Thành Cát Tư Hãn là một con người khát máu, thích chém giết và chinh phục. Ông ta đã từng tuyên bố rằng “Nỗi vui sướng nhất của con người là đánh bại được kẻ thù, săn đuổi họ, cướp tài vật, chứng kiến thân nhân họ khóc than, cưỡi ngựa của họ và đoạt lấy vợ con họ làm tài sản của mình”22. Sau khi thống trị được nhiều bộ lạc gồm nhiều sắc dân khác nhau, Thành Cát Tư Hãn xây dựng một đội quân tinh nhuệ và trở thành một lãnh tụ. Năm 1206, các bộ tộc tôn ông ta lên làm Đại Hãn (Universal Ruler) nghĩa là chúa tể của các bộ lạc khác. Thành Cát Tư Hãn liền tổ chức lại lực lượng, thay vì để cho mỗi bộ lạc theo cơ chế riêng, ông tập trung lại thành một quân đội duy nhất theo hệ thống thập phân, cứ mỗi 1000 kỵ sĩ thành một đơn vị, người chỉ huy được cha truyền con nối và chỉ tuân hành quyền lực duy nhất của Đại Hãn mà thôi.
Ngoài việc khai thác được sở trường của mình là sự di động nhanh và kỹ thuật chiến đấu, Thành Cát Tư Hãn còn thiện nghệ trong việc điều quân, áp dụng được binh pháp một cách tài tình, kể cả ba mặt giáp công, trá bại, trá tẩu và biết liên minh đúng lúc với kẻ thù. Ông ta cũng biết sử dụng nội gián (espionage and intelligence) để thu lượm tin tức trước khi tấn công. Thành Cát Tư Hãn cũng qui định lại pháp chế, chữ viết và tỏ ra là một người có tài tổ chức, lấy kỷ luật sắt và nghiêm hình để cai trị. Ông tự chỉ huy một đoàn thân binh chừng một vạn người là những binh lính có khả năng nhất tuyển chọn trong các bộ lạc. Sau khi củng cố thực lực rồi, Thành Cát Tư Hãn sai người chiêu hàng các bộ lạc, ai thần phục thì được yên còn nếu chống lại sẽ bị tàn sát không thương tiếc. Chỉ trong hai năm 1212-1213 có đến hơn chín mươi thành bị san thành bình địa. Khi họ chiếm kinh đô nước Kim của người Nữ Chân năm 1215, thành phố này bị đốt cháy đến hơn một tháng mới hết. Năm 1218, một đoàn thương nhân người Hồi được Thành Cát Tư Hãn bảo hộ bị cướp tại nước Khwarizm (Hoa Thích Tử Mô) dẫn đến việc quân Mông Cổ tiến vào Trung Đông rồi tràn qua tận Đông Âu. Trong ba năm nhiều triệu người bị tàn sát, kể cả đàn bà con trẻ, thậm chí cả súc vật cũng bị giết sạch. Chính chiến dịch này đã làm cho người Mông Cổ nổi tiếng về sự dã man và những nơi nào kháng cự lại họ sẽ bị tiêu diệt không thương tiếc. Hai người con trai thứ hai và thứ ba của Thành Cát Tư Hãn là Chagatai và Ogedei chỉ huy đoàn quân này và quân đội đem về những bao đầy tai người làm chứng tích chiến thắng. Sau khi hạ thành Nishapur, bao nhiêu cư dân đều bị giết sạch, đầu của họ được chất thành ba đống, đàn ông, đàn bà, trẻ con. Các sử gia đã tổng kết cuộc viễn chinh này là 700,000 trong thành Merv, 1,600,000 người tại Heart và 1,747,000 người tại Nishapur.23
Chỉ trong gần 20 năm cho tới khi Thành Cát Tư Hãn chết (1227), đế quốc Mông Cổ đã bành trướng gần khắp châu Á suốt từ Mãn Châu đến tận Trung Đông. Khi Thành Cát Tư Hãn đột ngột từ trần, những người con ông ta tranh nhau ngôi vị nhưng sau cùng, người thứ ba là Oa Khoát Đài (Ogodei) đánh bại những người khác và trở thành Đại Hãn. Oa Khoát Đài tiến đánh phần còn lại của nước Kim tràn xuống phương Nam cũng như bành trướng qua phía Tây, chiếm cả Moscow, Kiev và Đông Âu. Tuy người Mông Cổ lúc đó chỉ độ 1.5 triệu, họ trở thành sức mạnh vô địch vì biết sáp nhập những đạo quân của các bộ lạc hay dân tộc khác dưới quyền chỉ huy của họ. Họ khai thác được những ưu điểm của đối phương trong đó phải kể các chiến xa của người Nữ Chân và thủy quân của người Hán, sử dụng những võ khí mới thu được làm phương tiện tấn công. Trong những lần tiến đánh nước ta, người Mông Cổ đã dùng những chiến thuyền của nhà Tống.
Trong khi những cận thần muốn du mục hóa người Hán, biến miền Bắc nước Tàu thành đồng cỏ cho gia súc thì vị tể tướng của Oa Khoát Đài là Gia Luật Sở Tài (Yelu Qucai, gốc hoàng tộc Khiết Đan) đã khuyên ông ta theo đuổi một chính sách văn minh hơn. Đó là đánh thuế nông dân bằng vàng bạc, lụa là, thóc lúa. Những sắc dân du mục theo đạo Hồi ở vùng Trung Á được giao nhiệm vụ thu thuế và chính vì thế họ bị cả người Hoa lẫn người Mông Cổ ghét bỏ.
Khubilai (Hốt Tất Liệt) chinh phục Trung Hoa
Quân Mông Cổ dưới quyền chỉ huy của Mangu (tức Mông Kha, con của Tule, cháu nội Thành Cát Tư Hãn) thực hiện chiến dịch đánh xuống Trung Hoa. Tuy không mạnh nhưng nhà Tống vẫn còn làm chủ một khu vực Hoa Nam rộng lớn. Mangu một mặt chia binh nhiều mặt tấn công, mặt khác sai em là Khubilai đem quân vòng qua phía tây đi ngang Tây Tạng, theo thượng lưu sông Dương Tử vào Vân Nam chiếm Đại Lý năm 125324. Đến lúc này, nhà Tống bị tấn công từ hai mặt bắc và tây và người Mông Cổ tìm cách chiếm luôn cả Việt Nam để từ miền nam đánh ngược lên hậu phương nhà Tống.
Chiến thắng đầu tiên của Việt Nam vào năm 1257 đã khiến cho người Mông Cổ không thực hiện được ý định.
Năm 1259, Mangu từ trần, Kublai lên kế vị nhưng vì có những tranh chấp nội bộ nên trong suốt 8 năm liền, quân Mông Cổ không thể tiến hành việc chinh phục Trung Hoa. Kublai thiên đô từ Karakorum ở Mông Cổ về Bắc Kinh, khi đó có tên là Đại Đô.
Mãi đến năm 1267, Bayan, một tướng giỏi của Kublai mới đem đại quân đánh xuống. Trước đây, sông lạch miền Nam Trung Hoa vẫn là những chiến lũy thiên nhiên ngăn chặn bước chân của đoàn kỵ binh Mông Cổ nhưng sau khi chiếm được miền Bắc, họ đã để tâm xây dựng một đội chiến thuyền.
Năm 1268 họ vây hãm thành Tương Dương (Xiangyang), một thành phố ở Hồ Bắc, cửa ngỏ huyết mạch xuống miền hạ lưu sông Dương Tử. Cuộc công hãm kéo dài đến năm năm, sử dụng hàng ngàn thuyền bè và hàng vạn binh sĩ. Các chuyên viên hải quân người Hán, Triều Tiên, Nữ Chân, Hồi Hột và Ba Tư được điều động vào việc chế tạo các loại chiến thuyền. Kỹ sư người Muslim chế tạo những súng bắn đá có thể ném những tảng đá nặng hàng trăm pounds. Hai bên đều phải dựa vào thuyền bè để chuyên chở quân nhu, thực phẩm và tiếp liệu.
Năm 1271, Kublai đổi quốc hiệu là Nguyên, tổ chức triều đình và hành chánh theo lối của nhà Tống.
Tuy vẫn là một triều đại từ bên ngoài, nhà Nguyên nay đã thực sự là một chính quyền Trung Hoa và người ta có thể coi như một cuộc đuổi hươu tranh đỉnh giữa hai thế lực bắc nam vì tuyệt đại đa số lực lượng của hai bên cũng đều là người Hán.
Về phía nhà Tống ở miền nam, vấn đề chỉ huy tương đối lỏng lẻo. Nhà vua lúc đó còn nhỏ tuổi và các đại thần mỗi người một ý, không thống nhất. Sau khi quân Mông Cổ vượt qua được Trường giang, bà Thái Hậu xuống chiếu Cần vương nhưng người Mông Cổ sử dụng chiến thuật tàn sát thị uy giết sạch những thị trấn nào chống trả lại họ nên sau cùng triều đình phải đầu hàng để tránh đổ máu25. Những tôn thất nhà Tống chạy về vùng duyên hải cố gắng chống trả thêm được ba năm nhưng tới năm 1279 thì bị hoàn toàn tiêu diệt.
Sau khi chiếm được toàn bộ Trung Hoa và cả khu vực Vân Nam, nhà Nguyên mưu tính việc tiến chiếm toàn bộ biển phía đông và phía nam trước là kiểm soát con đường hàng hải, sau là làm bàn đạp đánh Ấn Độ. Năm 1277, nhà Nguyên đem quân tấn công Miến Điện, năm 1281 lại chủ mưu đánh Chiêm Thành. Tuy trên danh nghĩa, người Chăm cũng như người Việt đã bằng lòng thần phục nhà Nguyên nhưng vua cả hai nước đều không chịu sang chầu ở Đại Đô như họ yêu cầu mà chỉ mang đồ tiến cống. Nguyên chúa liền sai người sang giám quốc Đại Việt và sai Sagatou (Toa Đô) và Lưu Thâm sang Chiêm Thành đặt nền móng cai trị.
Vào thời kỳ đó tuy vua Indravarman đã già yếu nhưng thái tử Harijit là người quật cường không chấp nhận sự đô hộ khiến cho quan lại nhà Nguyên phải quay trở về nước. Hốt Tất Liệt liền sai Sagatou chuẩn bị binh thuyền sang đánh Chiêm Thành (vì đường bộ đã bị Đại Việt từ chối không cho mượn). Năm 1282, Sagatou đem 1000 chiến thuyền đổ bộ bờ biển, thái tử Harijit đem quân chống giữ. Một vạn quân Chiêm chiến đấu trong 6 giờ nhưng chịu không nổi phải rút lui, quân Mông Cổ vào thành giết sạch dân cư trong đó. Vua Indravarman cho đốt kinh đô rồi rút vào rừng núi.
Ngày hôm nay, khi nói đến việt triệt binh lên cao nguyên chúng ta khó có thể hình dung được sự khác biệt giữa một sự rút lui để bảo toàn lực lượng, thay đổi từ chiến tranh trận địa ở đồng bằng sang chiến tranh tiêu hao sử dụng các căn cứ trên núi. Nhìn vào thành quả của cuộc chiến đấu kháng Nguyên của Champa, chúng ta có thể tin được rằng đã có những chuẩn bị lâu dài và những tương quan mật thiết giữa các dân tộc trong lãnh thổ Chiêm Thành. Tâm Quách-Langlet nhấn mạnh là chính vì có những liên hệ giữa dân chúng trên thượng du và vùng duyên hải nên nhiều vua Chăm gốc từ rừng núi và mỗi khi loạn lạc châu báu thường được đưa lên gửi nơi các bộ lạc ở cao nguyên và trốn lên rừng mỗi khi bị bên ngoài tấn công.26
Quân Mông Cổ tiến chiếm những thành thị khác, vua Chiêm cho người điều đình nhưng Sagatou đòi nhà vua phải đích thân xuống chầu. Indravarman cho người cậu là Bhadradeva đem lễ vật tiến cống, lấy cớ là đang bị bệnh không thể thân hành tới được. Hai bên qua lại giằng co cho đến khi Sagatou nghe tin vua Chiêm đã dàn 2 vạn quân và cho người sang Đại Việt, Chân Lạp và Java xin liên binh để cùng kháng cự, quân Mông Cổ liền tiến lên, tuy thắng trận lúc đầu nhưng bị người Chiêm Thành dùng chiến thuật du kích quấy nhiễu khiến cho họ phải tổn thất nặng nề.
Nguyên chủ phải cho thêm quân sang tiếp viện và quân Mông Cổ phản công đánh bại quân Chiêm vào ngày 14 tháng 6 năm 1283. Vua Indravarman lại rút vào rừng tiếp tục chiến thuật du kích. Quân Mông Cổ ở lâu bị thiệt hại nặng, quân lính chán nản bỏ trốn rất đông khiến Hốt Tất Liệt phải gửi thêm 15,000 quân nữa. Ngờ đâu thuyền của quân Mông Cổ bị bão khiến một số bị mất tích, phần còn lại khi đổ bộ được vào cửa bể Sri Banoy (Thị Nại) thì Sagatou đã đốt doanh trại đem quân quay về rồi.
Đoàn quân tiếp viện vì thế như rắn mất đầu không còn có thể uy hiếp triều đình Chiêm Thành được nữa. Vua Indravarman gửi sứ giả đến than phiền rằng Sagatou đã tàn phá nước Chiêm nên không còn gì để dâng cho thiên triều, hẹn sang năm sẽ sai con đem lễ vật tiến cống, tạm thời cho cháu nội sang chầu nhà Nguyên. Ba tháng sau, vua Indravarman cho người đem dâng Nguyên đế bản đồ nước Chiêm và bằng lòng thần phục nếu quân Mông Cổ rút về. Tuy vậy quân Mông Cổ vẫn tiếp tục chiếm đóng khiến người Chiêm Thành phải chiêu tập binh mã, lập những căn cứ phòng ngự trong rừng núi. Chẳng bao lâu vì khí hậu khắc nghiệt, không quen thủy thổ nên quân Nguyên bị thiệt hại nhiều và Nguyên đế phải mượn đường bộ nước Nam cất binh từ trên đánh ép xuống.
Vua nhà Trần cũng theo đường lối của người Chiêm Thành nhất quyết không sang chầu, chỉ sai người chú họ là Trần Di Ái thay mặt. Một câu hỏi cũng cần được đặt ra là tại sao nhà Nguyên lại đặt chủ điểm đánh xuống miền nam bằng cách xâm lấn Chiêm Thành và tập trung một lực lượng khá lớn để tấn công tiểu quốc này. Dưới nhãn quan chiến lược của triều đình Mông Cổ, Đại Việt không phải là một mối lo tâm phúc mà họ cho rằng Chiêm Thành mới thực sự là một bao lơn đóng vai trò quan trọng trên hải trình thương mại giữa Trung Hoa, các nước miền Nam Á tới tận Trung Đông.
Nếu nhà Nguyên hoàn thành kế hoạch chinh phục Chiêm Thành và các đảo quốc khác thì lúc đó Đại Việt bị bao vây tứ phía, nằm lọt trong vùng ảnh hưởng của họ, không đánh cũng tan. Chính vì thế, khi đề cao những chiến thắng của nhà Trần, chúng ta chớ quên rằng những chiến thắng đó phần lớn chính vì nhà Nguyên đã thất bại trong việc chiếm lĩnh những tiểu quốc ở phía nam và công đầu trong việc ngăn chặn sự bành trướng của đế quốc Mông Cổ là triều đại Indravarman của người Chăm. Đại Việt chỉ có thể phản công sau khi quân Mông Cổ đã hoàn toàn thất bại ở Chiêm Thành và quân ta có thể tập trung lực lượng để tấn công vào những đơn vị Mông Cổ đồn trú hay tập kích những tàn quân đang trên đường rút lui.
Nếu người Chăm thất bại trong việc ngăn chặn quân Mông Cổ trở thành một phần của đế quốc Nguyên Mông thì cánh quân của Sagatou sẽ vươn ra bắt tay được với thế lực của Esen Temur tại Pagan (Miến Điện) thì nước ta không đánh cũng bị nuốt chửng. Sau một trăm năm dưới quyền cai trị của nhà Nguyên, khi Chu Nguyên Chương lên ngôi, Đại Việt sẽ mặc nhiên trở thành lãnh thổ của nhà Minh và việc đứng lên giành quyền tự chủ sẽ vô vàn khó khăn. Trường hợp nước ta cũng giống như những tiểu quốc ở miền tây nam và tây Trung Hoa, sau đời Nguyên đã hoàn toàn biến mất.
Chúng ta cũng không thể bỏ qua một thực tế, thoạt đầu khi nhà Trần áp dụng lối đánh chính qui, dùng đại quân đối phó trực diện với quân Mông Cổ theo cách của nhà Tống đã không mang lại kết quả khả quan nên phải chuyển sang lối đánh du kích, vườn không nhà trống kiểu Chiêm Thành, dùng tiêu hao chiến để cho địch tự huỷ. Lẽ dĩ nhiên, triều đình và tướng lãnh Đại Việt đã rút tỉa từ kinh nghiệm của chính mình nhưng cũng có thể tham bác thêm những kinh nghiệm của các quốc gia khác, điển hình là Miến Điện Chiêm Thành, và Chân Lạp trong một cuộc chiến trải rộng khắp vùng Đông Nam Á châu.
Cao triều và tàn lụi
Năm Tân Sửu (1301), vua Trần Nhân Tông (khi ấy đã đi tu và làm Thái Thượng
Hoàng) sang Chiêm Thành du ngoạn, có ước gả công chúa Huyền Trân cho vua Chiêm là Chế Mân và vua Chiêm đem dâng hai châu Ô, Lý làm sính lễ năm Bính Ngọ (1306). Năm sau Chế Mân từ trần, vua Trần Anh Tông sai người giả tiếng vào điếu tang rồi tìm cách cứu công chúa về nước. Người Chiêm bị lừa nên luôn luôn tìm cách đòi lại những vùng đất đã nhường cho Đại Việt gây ra nhiều cuộc xung đột trong suốt từ 1311 đến 1360 là năm Chế Bồng Nga lên cầm quyền. Tới đây, bang giao Việt – Chiêm bước vào một giai đoạn mới khi Champa có một minh quân nên đi lên trong khi Đại Việt lại lâm vào cảnh suy thoái bởi một số vua chúa bất tài.
Chế Bồng Nga, ông là ai?
Có thời kỳ người Chiêm Thành là một nỗi đe dọa lớn cho người Việt. Đó là triều đại thứ 12 dưới quyền cai trị của một ông vua rất dũng lược trong khoảng 30 năm cuối thế kỷ thứ 14. Ông vua đó người Trung Hoa gọi là Ngo-ta Ngo-cho (mà người Trung Hoa dịch âm thành A Đáp A Giả – ????) còn chúng ta gọi là Chế Bồng Nga. Chế Bồng Nga lên ngôi vào khoảng 1360 và ngay sau đó liên tiếp đem quân ra đánh Đại Việt trong suốt 30 năm liền, nhiều lần đại thắng cho đến khi ông ta bị giết vì một người đầy tớ làm phản.
Năm 1361, Chế Bồng Nga đem quân tiến đánh cửa biển Đà Lý (nay là Quảng Bình) khiến quan quân Đại Việt phải bỏ chạy. Quân Chiêm cướp phá và tàn sát dân chúng rồi quay trở ra biển. Vua Trần Dụ Tông lập tức ra lệnh cho phòng thủ. Đến năm sau, người Chăm lại sang quấy phá Hóa châu, đốt cháy nhiều nhà cửa. Vua Trần sai Đỗ Tử Bình đem binh chống giữ, củng cố và tái tổ chức các binh đội vùng Thuận Hóa.
Vài năm sau, nhân dịp nam thanh nữ tú vui chơi ngày xuân Ất Tị (1365) người Chăm đã phục kích sẵn ở các vùng đồi núi chung quanh bất ngờ xông ra bắt cóc thanh niên rồi chạy mất. Năm sau họ lại giở trò cũ nhưng tướng Phạm A Song đã dự bị nên phản công đánh đuổi được họ. Tháng giêng năm 1368, Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình được lệnh đem quân đi bình Chiêm. Vừa lúc đó Chế Bồng Nga sai sứ sang cầu hòa xin trả lại đất đai đã lấn chiếm. Sứ giả bị đuổi về và Chế Bồng Nga đã chuẩn bị mai phục sẵn ở một nơi tên gọi là Chiêm Động (nay thuộc Thăng Bình), đánh tan quân nhà Trần, Trần Thế Hưng bị bắt còn Đỗ Tử Bình phải rút về.
Cũng năm đó, bên Trung Hoa Chu Nguyên Chương đánh đuổi được người Mông Cổ lập nên nhà Minh, xưng đế niên hiệu Hồng Võ, đặt thủ đô ở Nam Kinh. Chế Bồng Nga sai sứ là Hổ Đô Man (???) sang mừng đem voi, hổ và các sản vật tiến cống. Minh đế sai Ngô Dụng (??), Nhan Tông Lỗ (???), Dương Tải (??) đưa tiễn về nước, phong cho làm Chiêm Thành quốc vương, ban ấn tín, 1 quyển lịch Đại Thống và 50 tấm lụa thêu vàng (??). Trong sắc thư gửi Chiêm vương có viết:
Ngày mồng bốn tháng hai năm nay, Hổ Đô Man đem voi và hổ đến, tấm lòng thành của vương trẫm rất hoan hỉ. Thành thử Đô Man chưa đến nơi, trẫm đã sai sứ lên đường. Trẫm đang định sai sứ đến báo cho vương hay là Trung Quốc bị người Hồ chiếm cứ một trăm năm nay, di địch ở khắp mọi chốn làm hư hỏng cả luân thường. Vì thế trẫm phải phát binh đánh dẹp, mất hai mươi năm mới bình được di địch.
Nay trẫm làm chủ Trung Quốc, thiên hạ đều yên ổn, e rằng các nước phiên di chưa biết nên sai sứ đi báo cho các nước. Ngờ đâu sứ giả của quốc vương đã đến trước rồi, thành ý rất mực, trẫm quả là vui mừng. Nay ban cho một bản Đại Thống Lịch, kim ỷ, vải sa năm mươi tấm để vương biết đạo mà phụng mệnh trời, dân chúng Chiêm Thành an cư lạc nghiệp, vương cũng mãi mãi bảo tồn được lộc vị, phúc đến cháu con.
Mong thượng đế chứng giám cho, vương chớ bê trễ.27
Từ đó người Chăm hàng năm mang cống phẩm sang Trung Hoa được vua nhà Minh cho người sang tế sơn xuyên và giám khảo các kỳ thi.
Về phần Đại Việt, nhân loạn Dương Nhật Lễ, mẹ y chạy sang Chiêm Thành cầu cứu, báo cáo tình hình biên giới và sự suy yếu của nước Nam. Được dịp vào tháng 3 năm 1371 Chế Bồng Nga tập trung chiến thuyền tiến vào cửa Đại An tấn công Đại Việt. Theo sử thuật lại, ông ta đi thẳng vào kinh đô “như đi chơi mát”28, không nơi nào có quân chống giữ. Vua Nghệ Tông bỏ chạy khỏi kinh đô khiến quân Chiêm vào Thăng Long lấy hết vàng bạc châu báu, bắt cả đàn bà trẻ con rồi đốt sạch cung điện, sách vở.
Năm sau, vua Chiêm lại dâng biểu lên Minh đế kể tội Đại Việt trong đó có câu:
… Ngày nay người An Nam lại đem binh sang chiếm đất chúng tôi, cướp bóc nhân dân tôi. Vì thế thần xin Bệ Hạ giúp cho chúng tôi vũ khí, nhạc khí và nhạc sư để người An Nam thấy Chiêm Thành là phiên thuộc của Bệ Hạ mà không quấy nhiễu nữa.29
Tuy nhiên theo Việt sử, nhà Trần không hề động binh trong thời kỳ này và đây là một sự vu cáo của Chế Bồng Nga, chỉ cốt sao nhà Minh để yên cho người Chiêm Thành lộng hành. Chu Nguyên Chương sau đó đã “hạ chỉ” bắt hai nước không được gây can qua và đồng ý cho người Chăm được sang “du học” về âm nhạc tại Phúc Kiến.
Cũng vào thời đó, biển đông có rất nhiều hải khấu, Chế Bồng Nga đem binh thuyền ra đánh chìm và cướp về hai mươi thuyền chở 70,000 pounds gỗ quí 30đưa sang tiến cống nhà Minh khiến vua Hồng Võ rất hài lòng, ban thưởng hậu hĩ.
Người Chiêm lại tiếp tục quấy phá khiến vua Nghệ Tông phải truyền ngôi cho em là thái tử Kính, tức vua Duệ Tông. Trần Duệ Tông quyết đoán hơn anh nhất định đem binh trả thù. Chế Bồng Nga vội vàng viết thư kể tội nhà Trần với Minh đế khiến nhà Minh lại phải xuống chiếu yêu cầu hai bên bãi binh.
Đầu năm 1374, Trần Duệ Tông quyết định thân chinh đi đánh Chế Bồng Nga nên sai Lê Quí Ly luyện tập quân sĩ, đóng chiến thuyền và tích trữ lương thảo, sửa sang đường sá. Đến tháng giêng năm 1377, Duệ Tông thân tiên sĩ tốt đem 12 vạn quân tiến sang. Chế Bồng Nga hoảng sợ vội vàng sửa soạn hai 31 mâm vàng đem tiến cống nhưng Đỗ Tử Bình dấu đi rồi dâng sớ nói dối rằng Chế Bồng Nga ngạo mạn vô lễ, xin vua cử binh sang đánh.
Quân ta tiến theo bờ biển vào cửa Nhật Lệ, đóng tại đó hơn một tháng tập luyện để chờ Lê Quí Ly đem lương thảo theo đường thủy. Ngày 23 tháng giêng, đại quân vào đến sông Shri Banoy, đóng lại đồn Ỷ Mang sát với chiến lũy (palisade) Chế Bồng Nga dựng lên để bảo vệ kinh đô Vijaya.
Một người Chăm trá hàng đến tâu với Duệ Tông là kinh đô hiện đang bỏ trống, vua Chiêm đã bỏ chạy và nếu đánh nhanh sẽ bắt được Chế Bồng Nga. Đại tướng Đỗ Lễ hết sức ngăn cản, xin cho người đi thám thính trước nhưng vua Duệ Tông không nghe còn mắng Đỗ Lễ nhát như đàn bà.
Ngày 24, nhà vua mặc nhung phục đen, cưỡi ngựa đen, theo sau là Ngự Câu Vương Húc, mặc đồ trắng cưỡi ngựa trắng dẫn binh tiến vào. Đột nhiên phục binh người Chăm đổ ra, vua Duệ Tông giật mình ngã ngựa chết ngay tại chỗ. Đại tướng Đỗ Lễ, Nguyễn Nạp Hòa và hành khiển Phạm Huyền Linh bị giết. Đỗ Tử Bình và Lê Quí Ly ở hậu quân bỏ chạy về. Ngự Câu Vương bị bắt.
Chế Bồng Nga đem quân đánh đuổi đến tận Thanh Nghệ, đánh tan quân nhà Trần rồi