18/06/2018, 16:00

Liên minh Ả Rập và Cộng hòa Ả Rập thống nhất

Trích từ sách Bán đảo Ả rập Nguyễn Hiến Lê Năm 1915 Lawrence hô hào cha con Hussein (giòng Hachémite) nổi dậy đánh Thổ, hết chiến tranh, Anh sẽ cho Ả Rập độc lập. Hussein có bốn người con trai: con cả là Ali, rồi tới Abdallah, Fayçal, người con út vô danh. Fayçal được ...

map-middle-east-735329

Trích từ sách Bán đảo Ả rập

Nguyễn Hiến Lê

Năm 1915 Lawrence hô hào cha con Hussein (giòng Hachémite) nổi dậy đánh Thổ, hết chiến tranh, Anh sẽ cho Ả Rập độc lập. Hussein có bốn người con trai: con cả là Ali, rồi tới Abdallah, Fayçal, người con út vô danh. Fayçal được Lawrence quý trọng hơn cả, đem quân vào chiếm được Damas (Syrie) năm 1918[47].

Hết chiến tranh, Anh nuốt lời hứa, chia Syrie cho Pháp, Pháp đuổi Fayçal ra khỏi Damas. Hussein, Lawrence chửi Anh không biết bao nhiêu. Sau Anh được Hội Vạn Quốc cho ủy trị Palestine, Iraq, Transjordanie; để an ủi cha con Hussein, Anh cho Fayçal (trong sử gọi là Fayçal I) làm vua Iraq và Abdallah làm vua Transjordanie; Ali ở Médine và La Mecque với cha.

Transjordanie là một xứ nghèo khổ, hai phần ba là cát, không trồng trọt được gì cả, dân số hồi năm 1919 độ 300.000 – 400.000, làm biếng mà thô bạo. Vậy mà Abdallah cũng chịu nhận, làm cho cha nổi quạu từ La Mecque lại Amman (kinh đô Transjordanie) sỉ vả thậm tệ. Anh phái một sỹ quan, Glubb, tới làm cố vấn quân sự, mỗi tháng cấp cho Abdallah một triệu bảng và Abdallah hoàn toàn làm tay sai cho Anh.

Sau chiến tranh với Israel năm 1949, Transjordanie được thêm một miếng của Palestine, phía đông con sông Jourdain, tên nước đổi thành Jordani. Thêm đất, thêm 600.000 dân Palestine nữa, mà chỉ thêm khổ cho Abdallah. Vì 600.000 dân tản cư đó, tiến bộ hơn thần dân của Badallah, lại bất mãn, chỉ đòi gây chiến với Israel để hồi hương, thành thử trong nước có hai phe chống đối nhau: phe thổ dân cố cựu, lạc hậu, bảo thủ, rất trung với vua, và phe tản cư có tinh thần tự do, sau này thân Nasser.

Năm 1951, Abdallah không biết có do Anh xúi hay không, muốn thương thuyết ngầm với Israel, nên bị ám sát ở Jérusalem. Con trai ông ta, Tallal, rất ghét Anh, Anh cúp viện trợ, rồi đưa qua Thụy sỹ giam một nơi, bảo là mắc bệnh thần kinh. Con trai Tallal, tên là Hussein[48], mười sáu tuổi, phải mục kích cảnh ông nội bị ám sát, chính mình cũng suýt toi mạng (may mà viên đạn sướt qua nút áo, không vào ngực), năm sau, 1952, mười bảy tuổi lên ngôi vua. Một thiếu niên chỉ ham lau chùi xe hơi cho láng bóng và lái xe đua chạy bạt mạng, mà phải từ giã trường võ bị Sandhurst (bên Anh) về trị dân một nước nghèo nàn, chia rẽ, luôn luôn bất an, thì còn làm được cái gì nữa.

Thống nhất Ả Rập ư? Viển vông quá. Hãy lo cái việc đoàn kết quốc dân, cho hai “lá óc” nó khỏi chống đối nhau kia đã. Liên kết với các nước láng giềng thì không khác gì tự tử. Ai Cập, Syrie, Iraq, Ả Rập Saudi sẽ nuốt Jordani một cái một. Biên giới cứ thẳng băng mấy trăm cây số chẳng theo địa hình địa thế gì cả thì làm sao mà chống đỡ? Tháng tháng phải ngửa tay xin tiền Anh – Anh cúp thì xin Ai Cập hoặc Ả Rập Saudi – tiền đó vừa đủ nuôi quân đội. Tiết kiệm từng đồng, mà cũng vẫn hụt. Làm gì có cung điện; chỉ có một biệt thự như một biệt thự trung bình ở Sài gòn. Nhưng có cả chục chiếc xe hơi Hoa Kỳ kiểu mới nhất của Anh, Mỹ và Saud cho. Xong việc nước rồi thì lái xe như bay. Ít nhất cũng được cái vui đó.

Giá cứ để mặc cho quốc gia đó sống theo lối trung cổ, đừng ai động gì tới, dân cày ruộng lấy mà ăn, cất chòi lấy mà ở thì có lẽ cả vua lẫn tôi có thể sướng đấy. Khốn nỗi ở thời đại văn minh này, không ai cho phép mình sống theo Lão Tử hay theo Thoreau. Người ta bắt phải sống theo người ta. Thiếu tiền thì người ta viện trợ cho mà! Chính cái sự viện trợ đó mới là độc địa! Ai mà viện trợ nhiều cho được? Chỉ cho vừa đủ sống, sống một cách nô lệ, rồi phải làm cái đê ngăn sự bành trước của Israel, làm cái việc che chở những mỏ dầu lửa của Anh ở Iraq, làm bức tường ngăn Ai Cập với Syrie, ngăn Ai Cập với Iraq. Bấy nhiêu nhiệm vụ trút lên vai chàng Hussein mười bảy tuổi (dĩ nhiên là có một thân vương làm phụ chính). Cho nên Jordani lúc nào cũng như một thùng thuốc súng. Năm 1962, Hussein viết một cuốn dịch ra tiếng Pháp nhan đề là Il est dit ficile d’être roi (Làm vua khó thay – nhà Buchet Chastel – Paris) để kể những gian nan của ông trên mười năm ngồi trên ngai vàng: cả chục lần đảo chính, có khi một tuần mà hai lần đảo chính, rồi mấy lần chết hụt.

Đọc cuốn đó tôi có cảm tưởng ông ta không ham cái nghề làm vua, giá được làm một kỹ sư chế tạo xe hơi cho hãng Renault hoặc hãng Ford và mỗi thứ bảy lái xe vùn vụt đưa vợ con về ngoại ô Paris hay New York nghỉ cuối tuần thì ông ta thích hơn. Nhưng ông ta cũng không oán cái nghề làm vua, coi nó là một nhiệm vụ với tổ tiên, giòng giống, và hình như thấy nó có một cái thú, thú mạo hiểm chống đỡ với các đảng phái, các lân bang, cũng như khi ông lái xe lên dốc rồi băng băng xuống đèo, quẹo những cái cua chữ chi ở bên một bờ vực thẳm.

Vì ông ta thông minh, phản ứng, quyết định rất mau và can đảm lạ thường. Lèo lái được cái “quốc gia bị bệnh loạn óc” đó, giữ vững được ngai vàng của ông nội, được danh tiếng cho giống Hachémite tới nay mười sáu mười bảy năm rồi, đáng phục lắm chứ, hơn cái bọn Farouk, Bảo Đại rất xa, hơn cả em họ ông ta là Fayçal II, (cháu nội Fayçal I) vua Iraq nữa. Tôi mến ông vua trẻ đó hơn Saud nhiều. Không biết ông ta còn giữ ngai vàng được bao lâu nữa.

Biến cố năm 1957 ở Jordanie

Biến cố ở trong vương quốc của ông nhiều quá, không sao kể hết được tôi chỉ xin nhắc qua vài vụ chính.

Ở trên tôi đã nói (cuối chương XIV) hồi em họ của ông là Fayçal II, vua Iraq vào hiệp ước Bagdad, ông cũng muốn vào theo vì Anh hứa nếu vào sẽ tăng trợ cấp từ 12 triệu lên 22 triệu bảng mỗi năm. Ông sống bình dị, ngoài cái thú lái xe không ham gì khác, nếu có thêm tiền thì có lẽ cũng là để phát triển kinh tế, nhưng bốn bộ trưởng chống Anh, đưa đơn từ chức ở Amman (kinh đô), ở Naplouse, dân chúng biểu tình, đốt phá, chém giết nhau. Ông thành lập nội các khác, chỉ vài ngày nội các bị lật; trong tám ngày ba nội các nối tiếp nhau mà nhào. Ông thấy rằng nếu cương quyết vào hiệp ước Bagdad thì tính mạng ông khó toàn. Một tờ báo Anh, tờ Illustrated ở London đúng lúc đó đăng một thiên phóng sự, gọi Glubb là vua không ngôi của Jordani, ông nổi quạu, cách chức Glubb, đưa tướng Abolll Nuwar thân Nasser lên thay. Tình hình trong nước tạm yên: Ai Cập và Ả Rập Saudi đều hài lòng. Do vụ kênh Suez, phái quốc gia tiến bộ, tức phái của các người Palestine tản cư ở phía đông, mạnh lên, buộc Hussein phải dùng Naboulsi làm Thủ tướng.

Naboulsi là một thương gia giàu có, hồi trẻ học ở Đại học Mỹ tại Beyrouth, rất có kiến thức lại ái quốc, cho Jordani là một quốc gia sớm muộn gì cũng bị thôn tính, không đứng nổi một mình, thà cho nó sáp nhập vào Ai Cập còn hơn là để cho nó bị Israel tiêu diệt. Ý đó rất hợp với ý Aboul Nuwar. Họ bèn ký một hiệp ước quân sự với Ai Cập và Syrie (tháng 10 năm 1956) rồi yêu cầu quân đội Anh rút hết đi.

Anh dọa cúp viện trợ. Rồi Israel tấn công Ai Cập. Syrie vội vàng đưa quân vào biên giới bắc Jordani để “bảo vệ xứ này”. Ả Rập Saudi sợ Syrie chiếm Jordani, cũng từ biên giới phía nam đưa quân vào.

Naboulsi thanh trừng các cơ quan, huyền chức một lúc ba chục đại thần tận trung với tiên vương Abdallah. Hussein phản ứng lại, đuổi ba vị tổng trưởng.

Tình thế tới đó thì Hussein lại Le Caire để nghe Saud trình bày về chuyến công du của ông ta ở Mỹ. Anh dọa cúp viện trợ nay Mỹ hứa viện trợ nước nào theo chính sách Eisenhower, mà viện trợ của Mỹ nhất định dồi dào hơn của Anh thì làm sao không xiêu lòng cho được. Về Amman, ông mời sứ thần Mỹ lại để hỏi cho đích xác “chính sách Eisenhower” đó áp dụng vào trường hợp Jordani được không.

Ở thời đại này, trên trường ngoại giao đổi trắng thay đen là chuyện thường, sá gì mấy chữ trên một đạo luật. Chẳng cần phải sửa, cứ hiểu rộng ra một chút là Mỹ có thể can thiệp vào nội bộ Jordani. Ông vua trẻ tuổi đó kỹ lưỡng quá, không biết rằng trong các hiệp ước luật lệ bất kỳ của quốc gia nào luôn luôn “ý tại ngôn ngoại”, ai muốn hiểu sao thì hiểu không quan trọng gì cả, vì tiếng nói cuối cùng vẫn dành cho họng đại bác kia mà.

Hussein yên tâm, định hễ bí quá sẽ cất tiếng kêu gọi Mỹ. Trước hết phải lo dẹp bọn thân Nasser đã: đuổi Thủ tướng Naboulsi đi, phải giải tán Quốc hội. Phe Naboulsi mạnh; Hussein trước khi ra tay phải cầu cứu vua Saud, họp kín với Saud ở giữa sa mạc, tại biên giới:

– Ngai vàng của tôi lung lay rồi. Tương lai của Jordani ở trong tay đại vương. Ai Cập và Syrie sắp nuốt nó rồi. Xin đại vương giúp tôi ngay đi, kẻo Jordani thành một quốc gia thân Nga ở sát biên giới Ả Rập Saudi đấy.

Từ trước dòng Hachémite và dòng Séoud vẫn thù nghịch nhau. Ibn Séoud đã đuổi ông cố Hussein ra khỏi La Mecque, mà bây giờ Hussein quên cả mối thù đó, cầu cạnh Saud thì con người “nghĩa Hiệp” như Saud làm sao không cảm động. Saud hứa giúp và đem quân vào Jordani.

Hussein mừng rỡ, trở về Amman, tính thay thế tất cả các tướng lãnh về phe Abou Nuwar. Abou Nuwar cũng đã chuẩn bị sẵn sàng. Ngày 7-4-1957, một đạo quân thiết giáp tiến về kinh đô, bao vây cung điện. Viên chỉ huy có sẵn trong túi một tờ chiếu thoái vị, định hễ vào được cung điện rồi, chìa ra cho Hussein ký, không ký thì sẽ bắt giam rồi đưa ra đảo Chypre. Không dám cho quân lính biết vì đa số còn trung thành với nhà vua.

Thấy chiến xa ầm ầm bao vây cung điện, Hussein can đảm tiến ra cửa, đứng ở thềm nhìn thẳng vào mặt các sỹ quan, hỏi:

– Các người về đây làm gì?

Họ lúng túng, có quân lính ở chung quanh, không thể chìa tờ chiếu thoái vị ra được. Viên chỉ huy ấp úng đáp:

– Hạ thần về để bảo vệ Thánh thể.

– Cảm ơn. Ta vẫn được an toàn. Quay về đi, và hễ không có lệnh của ta thì không được hành quân.

Thế là thoát được một cơn nguy.

Một tuần lễ sau, Hussein hay tin quân đội ở Zerka, cách kinh đô vài chục cây số chia làm hai phe đương thanh toán lẫn nhau: phe trung thành với ông bị phe tự do của Abou Nuwar tấn công. Nếu phe trung thành với ông bị phe kia diệt thì ngai vàng của ông sẽ đổ mà tính mạng ông e cũng khó còn. Ông phải tới nơi để dẹp cái loạn đó. Ông bảo: “Ta không ngăn được quân lính chém giết nhau thì không xứng đáng chỉ huy họ”. Ông nhẩy lên xe jeep, gọi Abou Nuwar đi theo rồi tự lái vùn vụt tới Zerka. Giữa đường gặp một đoàn xe nhà binh, ông tránh cho họ qua. Quân lính thấy ông, hoan hô: “Vạn tuế!”, rồi thấy Abou Nuwar. Họ hét lên:

– Tên phản quốc kìa, giết nó đi!

Hussein rất bình tĩnh, che chở cho Abou Nuwar, bảo về Amman trước đi, ông một mình tới chỗ hai bên bắn nhau. Ông xuống xe, hiên ngang tiến giữa hai đám quân, dang tay ra la lớn:

– Có kẻ bảo các người rằng ta phản quốc hả? Nếu các ngrười tin rằng ta phản quốc, thì đây, bắn ta đi. Ta thà chết vì viên đạn của các người còn hơn là bị các người khinh”.

Mọi người chưng hửng, bẽ bàng, lúng túng. Trong lịch sử Ả Rập, chưa có một ông vua nào can đảm như vậy. Bỗng có tiếng vang lên: “Vạn tuế quốc vương Hussein! Vạn tuế vị hậu duệ của đấng Tiên Tri[49]!”.

– Thôi về trại đi, và không có lệnh của ta thì không được ra khỏi trại.

Lần thoát nguy này còn vẻ vang hơn lần trước.

Liên minh Ả rập

Abou Nuwar bị cách chức mà không bị tội, được yên ổn qua sống ở Syrie. Hussein lập nội các khác, không ai chịu nhận chức Thủ tướng thay Naboulsi vì đảng Quốc gia của Naboulsi và Abou Nuwar chiếm đa số trong Quốc hội. Ông chỉ định đại mấy người trung thành với ông, rồi nắm hết quyến hành.

Quốc dân nổi loạn, biểu tình, đốt phá. Đảng Quốc gia đứng vào thế đối lập, đòi ông đuổi các vị đại thần đi và tuyệt giao với Mỹ. Ông làm thinh, mời Fayçal II, vua Iraq, lại giữa sa mạc yêu cầu Fayçal II giúp phi cơ và một đạo quân cơ giới. Fayçal II đưa quân vào Jordani liền.

Về Amman ông ra lệnh đàn áp thẳng tay phe đối lập. Nội loạn nổi lên ở khắp nơi, nhất là tại kinh đô. Lúc này ông mới hô hào Mỹ: “Tôi kêu gọi thế giới tự do giúp tôi bảo toàn được lãnh thổ Jordani!”.

Đây là một vụ nội chiến, Jordani không bị một quốc gia thân Nga nào xâm lăng cả. Nhưng Eisenhower giải thích chính sách của ông một cách rộng rãi, ra lệnh cho hạm đội thứ VI đương ở Côte d’Azur phía Nam nước Pháp phải cấp tốc lại hải phận Liban.

Hạm đội mạnh nhất thế giới, gồm hai hàng không mẫu hạm Forrestal 60.000 tấn, Lake Champlain 30.000 tấn, năm chục chiếc tàu lớn nhỏ nữa và 25.000 người; hai hàng không mẫu hạm chở trăm rưỡi phi cơ bảy kiểu khác nhau. Đáng kinh nhất là những khí giới nguyên tử của nó mà sức tàn phá trong vài phút mạnh hơn toàn thể những cuộc dội bom trong Thế chiến thứ nhì.

Hạm đội chưa kịp tới hải phận Liban thì Hussein đã dẹp xong nội loạn nhờ sự can đảm của ông và đạo quân của Saud.

Ngày 30-4-1957, Hussein tới Djeddah để cảm ơn Saud, ký với Saud một bản tuyên ngôn như sau:

“Quốc gia Jordani là tiền tuyến để bảo vệ tinh thần quốc gia Ả Rập. Hai quốc vương sẽ:

1) Hợp tác với nhau để củng cố sự độc lập của các quốc gia Ả Rập đã thoát khỏi mọi ảnh hưởng ngoại quốc.

2) Củng cố sự hợp tác quân sự của các quốc gia đó trước kẻ thù chung.

3) Không gia nhập một hiệp ước ngoại quốc nào.

4) Giúp các quốc gia Ả Rập còn bị ngoại quốc thống trị cởi được cái ách đế quốc mà được hoàn toàn độc lập.

5) Trung thành với Liên minh Ả Rập.

Điểm 2 và điểm 4 mù mờ khó hiểu. Kẻ thù chung của các quốc gia Ả Rập là nước nào? Chỉ có thể là Israel, nhưng sự thực họ muốn ám chỉ Ai Cập. Ai Cập là kẻ thù của Jordani, Iraq, Ả Rập Saudi, đâu phải là kẻ thù của Syrie, của Yemen, Liban mà bảo là kẻ thù chung của các quốc gia Ả Rập được?

Còn các quốc gia bị cái ách đế quốc là quốc gia nào? Họ muốn ám chỉ Ai Cập; có thể cho là Ai Cập bị Nga chi phối, thế nhưng Iraq chẳng bị Anh chi phối ư? Ngay Jordani mỗi tháng lãnh một triệu Anh bảng thì có bị Anh chi phối không?

Chúng ta không nên trách đường lối chính trị của Hussein. Jordani là “một nước loạn óc” như Benoist Méchin đã nói, Hussein không thể làm chính trị được, chỉ lo kiếm viện trợ cho khỏi đói: chống đỡ cho khỏi chết, thế thôi. Đáng trách là thực dân Anh đã thâm độc, tàn nhẫn tạo ra cái quốc gia kỳ cục đó, rồi lại trợ cấp theo cái lối nhỏ giọt cho nó sống lây lất mà tha hồ thao túng (cứ mỗi lần Jordani muốn thoát li Anh thì Anh lại ghì tay xuống bóp cổ: cúp viện trợ); có lẽ cũng nên trách ông nội Hussein đã nhục nhã nhận làm vua bù nhìn cái quốc gia lạ đời đó, để bây giờ Hussein phải bôn ba cầu cứu khắp nơi, xin tiền Anh, Mỹ, Ai Cập, Ả Rập Saudi, Iraq mà bảo vệ “sự nghiệp” của tổ tiên.

Chỉ có điểm thứ năm: “Trung thành với Liên minh Ả Rập” là minh bạch. Saud mừng rằng đã không phụ lòng Eisenhower. Eisenhower mừng vì tốn 250 triệu Mỹ kim cho Saud mà được kết quả như vậy để khoe với quốc dân, kể còn là rẻ.

Tội nghiệp Hussein đóng vai chủ động, mấy lần suýt toi mạng mà chỉ được Mỹ tặng cho 10 triệu Mỹ kim bần tiện, không đủ lấp những chỗ hổng trong ngân sách. Mà chắc không phải là tiền mặt; chỉ là sản phẩm thừa thãi để Hussein bán lại cho dân chúng lấy tiền tiêu. Saud thấy vậy thương tình, tặng ông ta ba chiếc Cadillac, ba chiếc Chrysler và ba chiếc Packard bóng loáng để an ủi. Ông “vua cung điện” thật là hiểu tâm lý ông “vua xe hơi”. Hussein nhớ lại cái hồi làm hoàng tử, nghèo tơi, có ông chú ông bác nào đó cho một chiếc xe máy, mừng quá đỗi, suốt ngày lau chùi, đánh bóng, bây giờ có cả chục chiếc xe hơi Hoa Kỳ hạng sang nhất, còn đòi gì nữa? Sa mạc mênh mông, đường sá vắng vẻ, lái một giờ hai trăm cây số cũng được. Thú tuyệt!

Trung tuần tháng 5, Saud lại Bagdad. Quốc vương Fayçal II, phụ chính đại thần Abdul Ilah và Thủ tướng Nouri Said đều lại phi trường đón rước để xí xóa hết cái thù cũ giữa hai giòng Saudi và Hachémite mà mở kỷ nguyên thân ái giữa các quốc gia quân chủ Ả Rập.

Súng chào, nhạc trỗi. Kị binh dàn hàng, dân chúng phất cờ hoan hô. Bagdad tưng bừng như thời các vua Ba Tư. Đêm nào pháo thăng thiên cũng làm sáng rực một khúc sông Tigre và sông Euphrate; tiếng ca vang lừng trong cung điện, tiếng tụng kinh lanh lảnh trong khắp các giáo đường. Tiếc rằng Hussein không tới dự được vì tinh hình trong nước chưa thật yên.

Mãi tới ngày 14-2 năm sau (1958), Hussein và Fayçal II mới liên hiệp với nhau. Hussein nhường cho em làm minh chủ và Fayçal đáp lại, hứa giúp một món tiền. Thời đó, công ty Iraq Petroleum của Anh phát đạt, mỗi ngày sản xuất 1.600.000 thùng dầu, nộp cho Fayçal 50% số lời – chính sách fifty – flfty của Aramco đã được mọi công ty áp dụng từ lâu – và còn tính tăng sức sản xuất lên gấp đôi trong năm năm sau.

Chỉ buồn một điều là lần này Saud không tới dự được; ông ta muốn lảng ra khỏi cái Liên minh Ả Rập. Tại sao ông ta lại thay đổi thái độ như vậy?

Tại em ông? Fayçal đã khỏi bệnh, từ New York về nước. Hay tin đó đảng bảo thủ của Saud lo lắng mà đảng tự do ủng hộ Fayçal hoạt động mạnh lên, kéo nhau lại Djeddah tiếp rước Fayçal, hô: “Vạn tuế vị vương hầu thân yêu của chúng ta!”‘, và rải truyền đơn ở khắp nơi mạt sát Saud:

“Saud! Dân chúng mong mỏi mi thức tỉnh, cầm đầu thánh chiến đế cứu vớt các huynh đệ Ả Rập, mà mi diệt tinh thần Ả Rập của chúng ta, tôn giáo của chúng ta? Mi muốn giết Nasser, một người không chịu làm nô lệ thực dân. Mi nên nhớ rằng hết thảy chúng ta nếu là Nasser chống lại mi”.

Dân sa mạc hung dữ thật! Giọng của họ còn hung hăng hơn giọng nông dân Ai Cập. Chúng ta nên nhớ ngay tại Dahran, căn cứ không quân của Mỹ ở Ả Rập Saudi, thần dân của Saud cũng coi Nasser như một vị thần. Lời này của Nasser chắc phải làm cho Saud lo lắng: “Dân chúng là tấm thảm trên đó kê ngai vàng. Tôi kéo tấm thảm về tôi thì ngai vàng phải đổ”.

Saud thấy ngai vàng của mình đã rung rinh. Quốc khố gần rỗng, mà Fayçal được dân chúng hoan hô gần như lần trước hoan hô Nasser. Ông ta khôn ngoan, em vừa về là giao lại việc nước cho em liền. Fayçal khuyên anh lui vào hậu cung một thời gian. Không mất ngai vàng đâu mà sợ, nhưng hãy tạm đừng ló mặt ra. Fayçal đòi trao hết quyền hành cho mình: Thủ tướng kiêm bộ Quốc phòng, bộ Nội vụ, bộ Ngoại giao và bộ Kinh tế. Có vậy mới cứu vãn được tình thế.

Saud do dự: bộ Kinh tế mà giao cho em thì rầu quá: Nhưng đành vậy vì đã mắc một lỗi nặng: âm mưu ám sát Nasser đã hụt[50], bây giờ lẩn mặt là phải.

Vì vậy Fayçal thực sự cầm quyền còn Saud chỉ giữ cái hư vị, ngày 14-2-58 không qua Bagdad ký hiệp ước hẹn minh với Iraq được.

Liên minh Ả Rập đó loạc choạc chẳng ra sao cả: Hussein ký riêng với Saud tháng 5 năm trước, tháng 2 năm sau lại ký riêng với Fayçal II, không thành một bộ ba, như cái kiềng ba chân mà gần gãy mất một.

Ngày Hussein ký với Saud ở Djeddah và ngày ký với Fayçal ở Bagdad, dân chúng Amman thản nhiên: không treo cờ, không biểu tình, cứ lặng lẽ như không.

Trái lại, không khí ở Le Caire và ở Damas sôi nổi khi thành lập nước Cộng hòa Ả Rập thống nhất để chống với Liên minh Ả Rập của phe quân chủ.

Tình hình Syrie sau Thế Chiến – Dầu lửa Anh & dầu lửa Mỹ vật nhau

Nước cộng hòa Ả Rập thống nhất thành lập ngày 1-2-1958, chín tháng sau liên minh Jordani – Ả Rập Saudi và 13 ngày trước liên minh Jordani – Iraq. Hai nước Ai Cập và Syrie kết hợp với nhau làm một: chính phủ chung, tổng thống là Nasser, phó tổng thống là cựu thủ tướng Syrie Sabri El Assali; quân đội chung, tổng tư lệnh là thống chế Ai Cập Hakim Amer.

Sau Thế chiến thứ nhì, Syrie có không đầy ba triệu dân mà phải hy sinh một trăm ngàn người mới giành lại được độc lập. Thực dân Pháp thật tàn nhẫn và vô liêm sỉ. Theo đuôi Mỹ, Anh, lấy lại được độc lập rồi, De Gaulle dùng ngay chính sách Hitler đối với dân Pháp để chiếm lại các thuộc địa cũ. Tôi nhớ trước ngày Nhật đầu hàng Đồng minh, đương lúc người mình chuẩn bị chống Pháp thì có tin quân đội của Pháp tự do (!) đổ bộ lên Liban, Syrie, tàn sát dân chúng, thả bom xuống quốc hội Syrie. Lúc đó chúng tôi thấy ngay dã tâm của bọn De Gaulle rồi. Biết không khi nào chúng chịu nhả Việt Nam ra, và chúng tôi chờ đợi những cảnh đổ máu như ở Syrie. Quả nhiên tên thầy tu dã man D’Argenlieu được phái qua và dân tộc ta đã phải đổ máu gấp chục lần dân tộc Syrie.

Cuối năm đó Syrie được độc lập, thành một nước Cộng hòa, ba bốn năm đầu chính quyền rất bê bối thối nát, đảng phái chia rẽ. Tổng thống Choukri Kouatly có tinh thần quốc gia, từ năm 1947 đã thành lập phong trào “Thanh niên Ả Rập”, nhưng không đủ tài, nên tình trạng mỗi ngày một thêm rối.

Tháng ba năm 1949, một nhóm quân nhân do Husni-Zaim cầm đầu, ở mặt trận Palestine (chiến tranh độc lập Israel) trở về, thừa cơ kéo tuốt vào Damas, bắt giam Choukri Kouatly và các bộ trưởng. Cuộc đảo chính đó không tốn một giọt máu, không nhờ ngoại bang giúp sức, nên được dân chúng hoan nghênh. Tướng Zaim được bầu làm Tổng thống (726.116 lá phiếu bầu cho ông mà tổng số cử tri là 730.731); Mohzen Barazi làm Thủ tướng.

Zaim rất phục Mustapha Kémal, muốn thực hiện mọi cải cách về kinh tế, điền địa, luật pháp, giáo dục… để canh tân quốc gia. Ông ta cũng dùng chính sách mạnh tay như Kémal nên hơi thất nhân tâm. Nhưng lỗi lớn của ông là nhận sáu triệu Mỹ kim (trả làm mười năm) của Ibn Séoud, nghĩa là của Mỹ, vì lúc ông cầm quyền thì quốc khố không còn một đồng. Để đáp lại, ông cho phép Ibn Séoud đặt ống dẫn dầu qua địa phận Syrie, tới Beyrouth. Như vậy dầu lửa của công ty Aramco khỏi phải đi vòng ra vịnh Ba Tư, Ấn Độ Dương, vào Hồng Hải, kênh Suez để lại châu Âu, phí tổn sẽ nhẹ, dầu lửa của Anh ở Iraq không sao cạnh tranh nổi. Thế là “dầu lửa Mỹ kim” thắng màn đầu.

Anh uất ức, tìm cách phản công. Ngày 14-8 năm đó, hồi ba giờ sáng, ba chiếc xe thiết giáp đậu ở trước thềm dinh Tổng thống Syrie ở Damas. Sỹ quan trên xe bước xuống, nói mấy lời với lính canh rồi xông vào phòng của Zaim. Zaim bị hạ sát. Chính bạn thân của ông là Hennaoui đã giết ông. Đồng thời một nhóm sỹ quan khác giết nốt Thủ tướng Mohzen Barazi. Hennaoui lên cầm quyền, Hachem Atassi thành lập nội các khác. Hiệp ước cho Ibn Séoud đặt ống dẫn dầu bi xé bỏ. Vua Abdallah xứ Jordani hoan hô nhiệt liệt vụ đảo chính đó làm cho Anh đâm ngượng, bảo ông ta kín đáo một chút.

“Dầu lửa Anh bảng” thắng màn nhì. Ả Rập quả là đế quốc của dầu lửa.

Bi kịch chưa hạ màn. Ngày 19.12 cũng năm đó, đại tá Adib-Chichakly, bạn thân của Zaim và bà con của Barazi bắt giam Hennaoui, Atassi và một đám bộ trưởng. Ít bữa sau, Hennaoui, vừa được tự do tạm thì bị một người bà con khác của Barazi hạ sát.

“Dầu lửa Mỹ kim” lật lại được “dầu lửa Anh bảng”.

Cuối năm sau, ống dẫn dầu từ Ả Rập Saudi bò ra tới Địa Trung Hải. Thực là một công trình vĩ đại. Dài non 1.800 cây số, trực kính một thước, phí tổn 280 triệu Mỹ kim. Một đường trải nhựa chạy theo ống dẫn dầu. Trong khi xây cất, suốt ngày đêm có phi cơ bay dò xét ở chung quanh. Công ty Aramco phải đào bốn mươi cái giếng lấy nước dùng cho nhân viên, thợ thuyền xây cất.

Lại phải cất năm trạm bơm dầu ở giữa sa mạc, mỗi trạm như một thị trấn nhỏ.

Nhờ ống dẫn dầu đó, công ty Aramco rút đi được 65 tàu dầu, giảm giá dầu xuống, tăng sức sản xuất lên gấp năm, và Ibn Séoud ăn thêm vô số đô-la nữa. Mỹ đã hoàn toàn thắng Anh, nhưng bi kịch vẫn chưa dứt.

Ngày 16.7.1951, một cựu bộ trưởng Liban lại Amman thương lượng bí mật gì đó với Abdallah, ông nội của Hussein, vừa xong, sắp ra về thì bị ám sát, rồi ba ngày sau chính Abdallah cũng bị mấy phát súng sáu trong một giáo đường ở Jérusalem, lần này Hussein chết hụt.

Anh lại thua thêm một màn nữa, biết phép rồi, tìm cách kết thân với Ibn Séoud.

Đầu năm 1954 Tổng thống Syrie Adib-Chichakly bị ám sát hụt, nhưng giữ quyền được cho tới hết khóa.

Khối Cộng hòa Ả rập thống nhất

UAR-MAP

Khóa sau, chức Tổng thống lại về Choukri Kouatly. Ông này cùng một chủ trương với Nasser nên khi cầm quyền nghĩ ngay tới việc thống nhất khối Ả Rập, ngày 31-1-1958 bay qua Le Caire và hôm sau hai quốc gia Ai Cập, Syrie kết hợp làm một, lấy tên là nước Cộng hòa Ả Rập thống nhất.

Cái nước thống nhất này cũng kỳ cục như nước Pakistan? có hai phần đông (Syrie) và tây (Ai Cập) cách nhau ba trăm cây số, vì ở giữa là Israel và Jordani. Ngày Nasser tới Damas, dân Syrie hoan hô nhiệt liệt và ông ta tặng họ một tin giật gân không kém tin quốc hữu hóa kênh Suez ông tặng dân Alexandrie một năm rưỡi trước. Phải nhận rằng ông ta có tài ăn nói và đóng trò. Ông ta đứng ở bao lơn điện Ai Diafa, tuyên bố:

– Anh em, hôm nay, ở chỗ này đây, chúng tôi ban hành hiến pháp tạm thời của nước Cộng hòa Ả Rập Thống Nhất, trong khi chờ đợi thảo xong một hiến pháp được quốc dân chấp thuận. Nó giản dị nhưng có ý nghĩa thâm thúy (vân vân). Thành lập được nước Cộng hòa của chúng ta là các bạn đã thắng, và được Allah phù hộ, các bạn sẽ thắng nữa (…) Nhưng tôi xin cho các bạn hay rằng kẻ thù vẫn âm mưu để đâm cả tôi lẫn các bạn đấy!…”.

Mọi người sửng sốt, nín thở.

Rồi ông ta kể chuyện có kẻ muốn mua chuộc một sỹ quan để sỹ quan này ám sát ông: năm triệu Anh bảng. sỹ quan đó làm bộ nhận lời, đòi đưa trước một số và nhận được một chi phiếu số 85.902, ngày 20.2.1958 của Ngân hàng Ả Rập ở Ryhad (kinh đô Ả Rập Saudi) với hàng chữ: Xin trả cho người cầm chi phiếu này một triệu Anh bảng.

Mọi người nhao nhao lên. Đợi cho họ im lặng, Nasser kể nốt:

– Nhận được chi phiếu đầu rồi, sỹ quan đó đòi nộp thêm nữa. Kẻ âm mưu đã lỡ đâm lao phải theo lao, ký thêm hai chi phiếu nữa, một chi phiếu 700.000 Anh bảng số…, một chi phiếu 200.000 Anh bảng số… Cả ba chi phiếu đó đều được để ở ngân hàng Damas, trong ngân mục của ông A. S. Các bạn có muốn biết ông A. S. là ai không?

Mấy ngàn người hét ầm lên:

– Muốn, muốn!

Làm thinh một lát cho quần chúng hồi hộp, rồi Nasser mới trỏ một đại tá đứng bên cạnh ông ta:

– Ông ấy đây, các bạn biết mặt mà: đại tá Abdul Hamid Sarraj[51]. Thực đáng mừng cho chúng ta, có những người không ai mua chuộc được, dù là với giá năm triệu Anh bảng.

Quần chúng Damas hò hét vang dội cả một góc châu thành, y như lần ở Alexandrie về vụ kênh Suez.

Không thể là chuyện bịa được. Chi phiếu có rành rành đó, của ngân hàng Ryhad. Ai ở Ryhad mà có hằng triệu Anh bảng như vậy? Mọi người đoán là vua Saud vì chỉ có Saud mới oán Nasser và có được bấy nhiêu tiền.

Người ta coi chi phiếu, biết ngay rằng người ký chi phiếu là một trong các nhạc phụ của Saud. Âm mưu đó của Saud làm cho đảng tự do ở Ả Rập Saudi càng khinh Saud, càng trọng Nasser. Và danh của Nasser càng vang trong khắp bán đảo Ả Rập. Vì vậy mà Saud ngượng không dám ló mặt ra khỏi cung điện, Ngày 14.2 không qua Bagdad ký hiệp ước liên minh với Iraq.

Ngay từ ngày 3-2, El Badr đông cung thái tử mà cũng là Thủ tướng của Yemen bay lại Le Caire tiếp xúc với Nasser, rồi ngày 16 trở về nước, bàn với cha là Hamed gia nhập Cộng hòa Ả Rập. Cuối tháng đó Ai Cập thêm được một nước huynh đệ nữa: Yemen chịu sự bảo trợ của Ai Cập nhưng vẫn giữ chế độ quân chủ và những phong tục rất lạc hậu như chế độ nô lệ. Saud rất bất bình thấy Yemen thoát ra khỏi ảnh hưởng của mình.

Liban ở sát Syrie dĩ nhiên cũng bị khuấy động. Xứ đó nhỏ, chịu ảnh hưởng của Pháp từ thời Thập tự quân, dân số một nửa theo các phái Ki Tô giáo, một nửa theo Hồi giáo. Thời trước, tổng thống Naccache ráng giữ cái thế quân bình giữa hai xu hướng theo Tây phương của Ki Tô giáo và theo Ả Rập của Hồi giáo mà nước được tạm yên và buôn bán được thịnh vượng.

Nhưng năm 1958, tổng thống Chamoun vốn có tinh thần thân Tây phương, lại thấy ảnh hưởng của Nasser mỗi lúc mỗi tăng (tờ báo Télégraphe thân Nasser có giọng quá khích), nên lo ngại, nhờ Mỹ can thiệp. Mỹ còn do dự vì Liban nhỏ quá, không có lợi gì mấy, chỉ gây thêm oán ở Ả Rập, nhất là vì Kroutchev đã tuyên bố rằng nếu Mỹ nhúng tay vào thì Nga sẽ phải hành động. Việc cứ lằng nhằng, sau cùng tướng Fouad Chehad, tổng tư lệnh quân đội, thuyết phục quân đội không làm hậu thuẫn cho phe nào hết, nhờ vậy trong nước được yên và ông được toàn dân bầu làm Tổng thống, mà Liban giữ được đường lối trung lập.

Ở Oman và Aden, dân chúng cũng muốn noi gương Ai Cập, thoát li ảnh hưởng của Anh. Nhưng Oman có nhiều mỏ dầu của Anh, Aden là một địa điểm quan trọng trên đường qua Ấn Độ, cả hai nơi đó lại lạc hậu, xa Ai Cập, nên phong trào thất bại, bị Anh dẹp một cách tàn bạo: phi cơ dội bom napal xuống Oman, chiến hạm nã đại bác lên Aden, năm đại đội súng ống tối tân đổ bộ lên, gặp ai cũng giết, và Aden từ tháng năm, Oman từ tháng tám 1958 lại tạm yên và dầu lửa Anh lại tiếp tục chảy vào các tàu dầu.

Ở Sudan một đảng thân Ai Cập được thành lập từ thời tướng Néguib cầm quyền ở Ai Cập vì tổ tiên Néguib gốc gác Sudan. Khi Néguib mất chức Tổng thống (1954), đảng đó phải lùi vào bóng tối vì Ai Cập và Sudan xích mích với nhau về vấn đề chia nước sông Nile trong chương trình xây đập Assouan. Sự xích mích đó cũng do bàn tay của thực dân Anh gây ra.

Đầu tháng 11 năm 1958 đảng thân Ai Cập hoạt động trở lại, đòi hợp nhất với Ai Cập. Quốc trưởng Sudan là Abdallah Khalill thân Anh, tìm cách dẹp. Tướng Abboud, tổng tư lệnh, đảo chính rồi nắm quyền, giữ thế trung lập giữa Anh và Ai Cập.

Tóm lại hậu quả của vụ kênh Suez là dân tộc Ả Rập noi gương Ai Cập, dưới sự lãnh đạo của Ai Cập, nổi lên chống thực dân Tây phương.

Mỹ phản công, đưa ra chính sách Eisenhower, dùng đô-la mà thành lập được Liên minh Ả Rập để địch với Cộng hòa Ả Rập của Nasser.

Nasser thắng ở Syrie và Yemen, hòa ở Liban và Sudan, thua Anh ở Oman và Aden, nhưng làm cho ảnh hưởng của Mỹ, Anh lung lay. Nhất là Anh phải đối phó ở khắp mặt.

Liên minh Ả Rập không chặt chẽ như trên tôi đã nói, mà Cộng hòa Ả Rập cũng loạc choạc vì ba nước Ai Cập, Syrie, Yemen không có chung biên giới, chính thể Yemen lại khác chính thể hai nước kia, nhưng tinh thần mạnh hơn nhiều, nhất là từ tháng bảy năm đó, nền quân chủ Iraq sụp đổ, liên minh Ả Rập tan rã thì thế của Cộng hòa Ả Rập càng vững.

0