18/06/2018, 15:57

Nguyên sử / Liệt truyện /Ngoại quốc /Tây Vực

Tích Dã dịch/ viethoc.org www.guoxue.com Tây Vực là đất Ba Tư, Chiêu Vũ Cửu Tính, Thổ Hỏa La thời Đường. Đầu thời Đường, Đại Thực diệt Ba Tư, tù trưởng của Ba Tư là A Lạt Tỉ Nhân nhận lễ giáo của Mô Hãn Mặc Đức [đạo Hồi], tự xưng là Cáp Lí Phát, đô ở Báo Đạt, ở đất phía ...

tay vực

Tích Dã dịch/ viethoc.org
www.guoxue.com

Tây Vực là đất Ba Tư, Chiêu Vũ Cửu Tính, Thổ Hỏa La thời Đường. Đầu thời Đường, Đại Thực diệt Ba Tư, tù trưởng của Ba Tư là A Lạt Tỉ Nhân nhận lễ giáo của Mô Hãn Mặc Đức [đạo Hồi], tự xưng là Cáp Lí Phát, đô ở Báo Đạt, ở đất phía tây của Ba Tư. Đến đất phía đông của Ba Tư thì không phải là đất của Cáp Lí Phát. Có người nói Báo Đạt là Ba Tư, không phải vậy. A Lạt Tỉ Nhân là người du mục ở Tây Lí Á, người Tây Lí Á xưng ông ta là Đại Ức, người Ba Tư xưng ông ta là Đại Hi, Hoàng hậu của ông ta là A Muội Ni Á Nhân, người Đột Nhĩ Cơ Tư Đan xưng ông ta là Tháp Khởi Khắc, đều cùng âm với Đại Thực. Tên của Đại Thực, có lẽ do đó mà có.

Đại Thực đã diệt Ba Tư, mở thêm đất đến phía đông, chia ra đặt tù trưởng để cai trị các đất ấy. Chưa đến ba trăm năm, thế lực mỗi ngày suy yếu, các tù trưởng thì kẻ mạnh chiếm kẻ yếu, lập bang mở cõi, các họ thường thay đổi, là Tha Hải Nhĩ, là Tát Pháp Nhĩ, là Tát Man, là Tái Bố Khắc Đích Cân, là Bố Diệp, là Tắc Nhi Trụ Khắc, tuy nhận chiếu lệnh của Cáp Lí Phát, nhưng là tên hão ràng buộc lỏng lẻo, chỉ có cờ, chiều của Hoàng đế và đúc tiền đều dùng tên của Cáp Lí Phát, chính sự của nước ra lệnh thì không tham dự.

Tắc Nhi Trụ Khắc, là tù trưởng của người Ô Cổ Tư, cũng viết là Ô Tư, lại viết là Cổ Tư, sống ở Tích Nhĩ Hà và vùng Hàm Hải, Lí Hải. Năm Trung Diệp thời Bắc Tống, chiếm đất tự lập. Cháu của Tắc Nhi Trụ Khắc thống lĩnh bộ tộc của mình diệt Bố Diệt, chiếm hết đất ấy, phía tây đến Địa Trung Hải.

Vương đời sau là Mã Kí Khắc Sa, có nô lệ là Nô Thế Đích Cân, nắm giữ quân cận vệ tả, hữu, rất được Nhà vua yêu thích, phong thêm Phó tịch, làm tù trưởng của Hóa Lặc Tự Di. Con của ông ta là Khố Thoát Bạt Đinh Mô Hãn Mặc Đức, thừa lúc Tắc Nhi Trụ Khắc suy yếu, các tù trưởng chia đất, tự làm Vương, cũng tiếng xưng là Hóa Lặc Tự Di Sa. Sa là tiếng xuăng của tù trưởng, Khả Hãn trở xuống của người Đột Quyết, Hồi Hột gọi là Thiết, là Sát, Tiếm gọi là Tát, đều là tên riêng của tù trưởng, tướng, là Sa vậy. Gia Luật Đại Thạch của nước Liêu đến phía tây, đánh bại quân của Tắc Nhi Trụ Khắc, lại sai Tướng đánh Hóa Lặc Tự Di. Lúc ấy Khố Thoát Bạt Đinh đã chết, con của ông ta là A Thiết Tư thua trận bị bắt làm tù binh, thề xưng thần với Tây Liêu [nhà Liêu bấy giờ tan rã chạy đến phía tây, lập nên Tây Liêu], hằng năm cống phương vật, mới được trở về. Con của A Thiết Tư là Y Nhi A Tư Lan. Con của Y Nhi A Tư Lan là Tháp Khách Thi, vào năm Thiệu Hi thứ năm thời Nam Tống, diệt Tắc Nhi Trụ Khắc, giết Vương của nước ấy là Thác Cổ Lạc Nhĩ, nhận tước phong của Lan Báo Đạt Cáp Lí Phát Na Tích Nhĩ, đó là Hóa Lặc Tự Di Vương, vốn là ông ta lấy tên của bộ lạc của mình làm tên, để phân biệt với Tắc Nhi Trụ Khắc.

Năm Khánh Nguyên thứ sáu, Tháp Khách Thi chết, con là A Lạp Ai Đinh Mô Hãn Mặc Đức nối nghiệp, lại hợp lại đất của các bộ lạc Ba Nhi Nhĩ, Hải Lạp Thoát, Mã Tam Đức Lan, Khởi Nhi Mạn, đánh bại Kì Bộc Sát Khắc. Tự nói là đất rộng quân mạnh. Nước này theo lễ giáo Mô Hãn Mặc Đức, nhưng Tây Liêu theo lễ giáo của họ Thích [đạo Phật], cho là phục thuộc lễ giáo khác là sự nhục nhã lớn. Thời này, tù trưởng của bộ lạc Tát Mã Nhĩ Can là Ngạc Tư Mãn cũng làm phản lại Tây Liêu. Tây Liêu sái sứ giả đến Hóa Lặc Tự Di, việc cũ, sứ gủa ngồi ở bên Vương; Vương làm nhục sứ giả, sứ giả giận, liền giết sứ giả. Đem binh đánh Tây Liêu, quân thua, Vương cùng Đại tướng của mình đều bị bắt, Vương bèn giả làm nô lệ của Đại tướng mới trốn thoát được. Nhưng trong cõi Hóa Lặc Tự Di đồn thổi là Vương đã chết, em của Vương là A Lập Hi Nhĩ cùng chú, bác của mình muốn chia nước tự lập. Vương trở về, loạn mới yên. Năm sau, lại cùng Ngạc Tư Mãn hợp binh đánh Tây Liêu, đánh bại quân Liêu, thắng trận trở về. Đem con gái gả cho Ngạc Tư Mãn. Rồi Tây Liêu đến Trị Quan, sai quân đánh Liêu. Chưa mấy lâu, Ngạc Tư Mãn cùng sứ giả không hợp nhau, giết sứ giả. A Lạp Ai Đinh đem binh đánh úp, phá bộ lạc Tát Mã Nhĩ Can, Ngạc Tư Mãn đem đao buộc ở cổ, lấy vải che mặt, để xin hàng. Con gái vì Vương lấy Ngạc Tư Mãn lấy vợ của Tây Liêu, giận chồng yêu Lễ Bất Tương, nên xin cha giết đi. Do đó đều có được đất Tát Mã Nhĩ Can, Bố Hà Nhĩ, lập đô mới ở Tát Mã Nhĩ Can, xưng thành Ô Nhĩ Kiện Xích của Hóa Lặc Tự Di là Cựu Đô.

Cổ Xuất Lỗ Khắc của bộ lạc Nãi Man chiếm ngôi vị của họ Trực Cổ Lỗ ở Tây Liêu, A Lạp Ai Đinh giúp, cho nên phạm vào đấy Nhĩ Cơ Tư Đam, hướng về Tây Liêu, cũng quay về với Hóa Lặc Tự Di. Đất phía đông nam của nước này có nước Quách Nhĩ, tù trưởng là Hi Cáp Bát Ai Đinh, cùng A Lạp Ai Đinh đánh nhau, bị thua chết. Cháu con của chú là Mã Hách Mô Đặc nối nghiệp lập bảy năm, bị người trong nước giết, có người nói là A Lạp Ai Đinh sai người hành thích giết ông ta. A Lập Hi Nhĩ lúc trước đồn thổi anh đã chết, chia nước tự lập và nghi ngờ, tránh đến thành Phi Lạc Tư Cố Đô của nước Quách Nhĩ. Đến đây, xin với anh, muốn được ngôi vị của Mã Hách Mô Đặc. A Lạp Ai Đinh sai sứ giả đến tặng mũ áo, thừa lúc ông ta đón nhận, xông tới giết đi, rồi chiếm lấy đất của nước Quách Nhĩ. Nước này phía đông bắc đến sông Tích Nhĩ, phía đông nam đến sông Ấn Độ, phía bắc đến Hàm Hải, Lí Hải, phía tây bắc đến A Đặc Nhĩ Bội Chiêm, phía tây gần Báo Đạt, phía nam kề biển Ấn Độ, bao trùm cả đất Ba Tư, Chiêu Vũ Cửu Tính, Thổ Hỏa La ngày trước, không lấy tên, noi theo tên cũ của thời Hán, xưng là Tây Vực.

Tây Vực Vương sau khi đã diệt nước Quách Nhĩ, giảm thuộc địa của mình gọi là Ca Tự Ni, tra xét văn thư bắt lấy sách của Cáp Lí Phát Na Tích Nhĩ và Quách Nhĩ, cáo nói là vì chí của người Hóa Lặc Tự Di ở Nang Hoạt Độ Quyển, nên đề phòng, mưu tính đến Tây Liêu, năm bắc hợp đánh, Ma Khả được chí. Lúc đầu biết trước Hi Cáp Bạt Ai Đinh dấy binh, lại có Cáp Lí Phát xúi dục, giận lắm. Sai sứ giả báo cho Báo Đạt, muốn như việc cũ ở Tắc Nhi Trụ Khắc, sai quan lại đến thống trị, chú ý lấy giáo sự thuộc Cáp Lí Phát, Kì Đảo Văn Tăng Dĩ, đều phong là Tô Nhĩ Than. Tô Nhĩ Than gòn gọi là Hoàng đế, thứ là là Sa, Hãn, Mã Lí Khắc. Na Tích Nhĩ không cgo phép.

Vương bèn tụ tập giáo sĩ, kể tội Na Tích Nhĩ không mở rộng giáo hóa, A Bạt Tư Thực của Báo Đạt đoạt ngôi vị của Hốt Tân, nay nên bỏ Na Tích Nhĩ, lập A Lí Hậu làm Cáp Lí Phát. Phần nhiều giáo sĩ nói là được. Rồi dấy binh trước tiên dẹp loạn ở Nghĩa Lạp Khắc, đánh bại quân của Pháp Nhi Tư, bắt tù trưởng của nước ấy là Sa Đặc A Tháp Tất, cắt đất chuyển tiền mà sau thua. Bộ tù của A Đặc Nhĩ Bộ Chiêm là Ngạc Tư Bá Khắc thua chạy, lại đến xin theo, rồi đến đánh Báo Đạt. Giữa đường gặp mưa tuyết lớn, quân mã ngã nhào, quân tiên phong ở giữa núi Khố Nhi Thắc bị người địa phương đánh, một đội quân chết hết. Bèn dẫn quân về, đến Nghĩa Lạp Khắc, chia đất ra phong cho các con. Lấy đất Nghĩa Lạp Khắc ban cho Ốc Khẳng Ai Đinh, lấy đất Khởi Nhi Mạn, Khắc Xích, Mai Khắc Lam ban cho Cát Á Đại Đinh, lấy đất Ca Tự Nhi, Bát Mê Yêm, Ba Tư Thắc, Quách Nhĩ ban cho Trát Lạt Lặc Đinh, lấy đất Ngạc Tư Lạp Khắc Sa làm đất của Vương Mẫu là Thổ Nhi Kham Tư Đôn, ban cho ba bộ Hóa Lặc Tự Di, Ô Lạp Thương, Mã Tam Đức Lan. Người trong nước đều chê bai việc riêng này.

Vương có binh bốn mươi vạn người, đều là người Khang Lí và Đột Quyết, cùng người trong nước không hòa thuận. Thổ Nhi Kham Đôn là con gái của bộ tù Cần Khắc Thạch của bộ lạc Khang Lí Ba Nha Ô Thoát, người Khang Lí phần nhiều đến Tây Vực làm quân sĩ, dãnh mãnh khi đánh trận, Vương kính trọng bọn họ, thường có công. Cho nên tướng của người Khang Lí phần nhiều ngang bướng, vì vậy quyền lực của Thổ Nhi Kham Đôn cũng ngang hàng với con của mình. Nước tuy lớn, nhưng lòng người trên, dưới không tin theo.

Trước là, Thái Tổ [Hãn Thành Cát Tư ] đánh nước Kim, làm cho nghiêng nước ở xa, chiếm Nãi Man, Miệt Nhi Khất được dễ dàng, lại đốt thành tro tàn, lửa cháy gần xa. Năm thứ mười một thời Thái Tổ, tự mình dẫn binh trở về phía bắc, lần lượt ra lệnh đánh dẹp Nãi Man, Miệt Nhi Khất, dẹp yên Ngốc Mã Đặc, tự mình đánh Tây Hạ, chiếm nước này, sai Triết Biệt đánh Cổ Xuất Lỗ Khắc, trong cõi Tây Liêu đều dẹp yên. Do đó, phía đông chỉ có Mông Cổ, phía tây chỉ có Hóa Lặc Tự Di, hai nước lớn đất đai tiếp nhau, cho nên quân chinh phạt phía tây nổi lên.

Lúc Tây Vực Vương từ Báo Đạt trở về, đã đặt đất phong cho các con, rồi đến Bố Cáp Nhĩ. Bấy giờ, đất Tây Liêu ở phía tây bắc của Thiên Sơn [tức là Hi Mã Lạp Sơn] đã nhập vào Mông Cổ, có ba người buôn bán ở Tây Vực tự đi về phía đông, đem lạc đà, lông cừu, xạ hương, đồ bạc, đồ ngọc cho Thái Tổ, kể với Thái Tổ, nói: “Ta biết qúy quốc là nước lớn, Quân cai trị nước tài năng đến biên giới xa, ta yêu thích Quân, giống như yêu con của mình, Quân cũng nên biết ta đã dẹp yên người Nữ Trực [bộ tộc Nữ Chân chạy về phía tây], vỗ về các bộ lạc. Binh của nước ta như kho khí giới, tiền của như hang vàng, ta sao phải chiếm đất của người khác! Muốn cùng Quân giao hảo, qua lại mua bán, giữ đất đai”. Liền buổi đêm, Vương gọi ba người đến, một trong đó là Mã Hắc Ma Đặc vào gặp, nói: “Ngươi là dân của ta, nên nói thật. Nghe tin nước đó chinh phục họ Đại Hạ, phải không?”. Nhân đó mở hộp đựng ngọc châu ban cho ông ta. Mã Hắc Ma Đặc nói là thật. Vương lại nói: “Hãn của Mông Cổ là người hạng nào, lại dám xem ta như con! Binh của ngươi kể ra có bấy nhiêu?”. Mã Hắc Ma Đặc thấy Vương có ý giận, lại nói: “Binh của nước ấy tuy đông, nhưng cùng Tô Nhĩ Than chống nhau, như ánh đèn so với anh mặt trời vậy”. Vương thích ý, ra lệnh đến báo theo hẹn.

Chưa bao lâu, lại có người buôn bán ở Tây Vực từ phía đông trở về, Thái Tổ ra lệnh cho thân vương, đưa tiền, sai người theo họ đi về phía tây mua đồ vật của Tây Vực, đông hơn bốn trăm người, đềulà người Úy Ngột. Đi đến thành Ngoa Thoát Lạt Nhi, tù trưởng của thành là Y Na Nhi Chỉ Khắc là em của Thổ Nhi Khâm Cáp Đôn, bắt hết bọn họ, lấy người Mông Cổ sai trở về báo cho Vuơng. Vương ra lệnh giết hết, chỉ có một người trốn về được.

Trước đây, nước Báo Đạt gặp nạn binh, Cáp Lí Phát ý muốn lại báo, phá vỡ, chia nước, không thể mưu tính. Nghe tin Mông Cổ lớn mạnh, bèn sai sứ giả đến, bàn chinh phạt phía tây. Nhưng Thái Tổ mới sửa việc giao hảo với nước ngoài, không muốn dùng binh. Lại nghe người trốn chạy trở về báo, cả giận, cởi dải mũ, quỳ vái tế trời, thề sẽ rửa hận. Lúc ấy tai hoạ từ Cổ Xuất Lỗ Khắc vẫn chưa yên, bèn trước tiên sai người Tây Vực là Ba Hợp Lạt làm sứ giả, cùng quan lại người Mông Cổ đến trách, nói: “Trước tiên cho phép buôn bán với nhau, sao lại làm trái lời ước? Nếu đây là việc làm của tù trưởng của thành Ngoa Thoát Lạt Nhi, không phải là ý của Vương, xin giết ông ta, lấy lại hàng hóa. Nếu không thì đem binh gặp nhau”. Vương giết chết Ba Hợp Lạt, cắt râu tóc của quân lại Mông Cổ, trả về để làm nhục Mông Cổ, tự tụ tập quân sĩ ở Tát Mã Nhĩ Can. Đến phía bắc sông Tích Nhĩ, người của bộ tộc Miệt Nhi Khất từ Khang Lí chạy vào trong cõi. Vương gấp theo đường Bố Cáp Nhĩ đến thành Chiên Đích, lại đi lên phía bắc đến giữa hai sông Hải Lí, Cáp Mê Trì, thấy người Miệt Nhi Khất bị giết bày la liệt trên đường, một người còn chưa chết. Hỏi người đó, thì nói: “Quân Mông Cổ giết bọn ta rồi đi về phía đông, vừa đi đi chưa xa”. Đem quân đuổi theo, qua một ngày đuổi đến. Tướng Mông Cổ sai sứ giả đến nói: “Ta có thù hận Miệt Nhi Khất, cùng nước khác không có gây hấn. Lúc đem quân đi nhận lệnh của Chủ là nếu gặp người Hoá Lặc Tự Di, phải đỗi đãi như bạn bè. Nay xin chia vật chiếm được để thưởng cho quân sĩ”. Vương coi thường quân Mông Cổ ít, bèn nói: “Ngươi tuy không thù hận ta, Thượng Đế ra lệnh ta thù hận ngươi”. Rồi đánh. Quân Mông Cổ đánh bại cánh quân phía trái của Vương, đánh đến cánh quân ở giữa. Trát Lạt Lặc Đinh đem cánh quân phía trái đánh bại quân Mông Cổ, đến giúp cánh quân ở giữa. Đến đêm, bắt đầu ngừng đánh, được mất như nhau. Quân Mông Cổ đốt lửa ở doanh trại, thừa lúc đêm tối đi nhanh đến. Vương cũng quay lại Tát Mã Nhĩ Can, biết Mông Cổ là kẻ địch lớn, có lòng e sợ, tụ tập các tướng bàn bạc, cho là đánh ở chỗ cánh đồng thì không lợi, không bằng đến chỗ rãnh sâu, luỹ cao mà tự giữ. Đã bàn bạc xong, bèn đem quân chia ra giữ các thành
ở sông Tích Nhĩ, A Mẫu.

Năm thứ mười bốn thời Thái Tổ, hội binh ở sông Dã Nhi Đích Thạch, đem theo ngựa, thóc, rơm, thong thả đem quân đến hẹn, quân chúng kêu lên là sáu mươi vạn người. Người dò xét về báo nói: “Quân Mông Cổ không thể kể xiết, đói thì uống sũa ngựa, dê, khát không cần phải uống nước, thì uống máu ngựa, dê, đi không mang theo lương thực, vạn người một lòng, có tiến lên không có lùi lại”. Vương cũng sợ hãi, không nghĩ ra kế gì. Có người Tây Vực là Bối Đạc Ai Đinh, vì cả nhà bị giết, trốn chạy đến Mông Cổ dâng kế sách, giả làm tướng của người Khang Lí, bảo Thành Cát Tư Hãn nói: “Bọn ta hết sức giúp Vương, là vì muốn nên nghiệp lớn, vì việc Thổ Nhi Kham Cáp Đôn vậy. Nay Vương lại không hiếu thuận với mẹ mình, nếu đại quân đến, thì bọn ta làm nội ứng”. Cho nên đưa thư cho ông ta, sai đến gặp Vương. Vương quả nhiên rất nghi ngờ, rồi không dám ở trong quân, cho nên chia đất tự giữ. Quân của Thái Tổ đến sông Tích Nhĩ, không có người chống giữ.

Mùa thu, đến gần thành Ngoa Thoát Lạt Nhi, chia quân làm bốn: Sát Hợp Thai, Oa Khoát Thai dẫn một đội quân ở lại đánh thành này; Thuật Xích dẫn một đội quân theo phía tây bắc đánh thành Chiên Đích; A Lạt Hắc, Tốc Khách Đồ, Thác Hải dẫn một đội quân theo phía đông nam đánh thành Bạch Nột Khắc Đặc, đều men theo sông Tích Nhĩ; Thái Tổ tự mình cùng Tha Lôi thống lĩnh đại quân, vượt qua sông Tích Nhĩ đi nhanh đến Bố Cáp Nhĩ, để cắt đứt quân cứu viện của nước ấy. Sát Hợp Thai, Oa Khoát Thai đến đánh Ngoa Thoát Lạt Nhi, quân bản bộ của Y Na Nhi Chỉ Khắc có mấy vạn người, quân bảo vệ giỏi đầy đủ, Vương chia quân vạn người, ra lệnh cho Tướng của mình là Cáp Lạp Trát thống lĩnh đội quân ấy, giúp bảo vệ thành Ngoa Thoát Lạt Nhi. Đại quân đánh thành năm tháng không chiếm đuợc, Cáp Lạp Trát vì sức lực khổ sở bàn xin hàng. Y Na Nhi Chỉ Khắc tự biết khó thoát, thề giữ đến chết. Cáp Lạt Trát nhân đêm tối đem quân thân cận phá vòng vây trốn ra, bị bắt, xin hàng. Nhân đó tra hỏi việc thật, giả ở trong thành, kể tội ông ta không trung thành mà giết đi. Rồi chiếm phía ngoài của thành này. Y Na Nhi Chỉ Khắc lui về giữ trong thành, một tháng sau, bắt đầu chiếm được thành, bỏ vào xe tù đưa đến Tát Mã Nhĩ Can, đại quân rót bạc vào tai miệng của ông để rửa thù cũ.

Thuật Xích dẫn một đội quân trước tiên đến Tát Cách Nạp Khắc, sai người Úy Ngột là Cáp Sơn Cáp Xích dụ hàng, bị giết. Ra sức đánh bảy ngày đêm, phá thành, bắt tù binh cắt tai, lấy con của Cáp Sơn Cáp Xích giữ đất này. Lại chiếm được ba thành Áo Tư Khẩn, Bát Nhi Chân, Át Thất Na Tư. Tướng giữ thành Chiên Đích bỏ trốn, dụ hàng, chưa đến theo mệnh lệnh, binh đã đến, dựng thang mây để vào, ra lệnh A Lí Hoả Giả giữ đất này, là một trong ba người buôn bán ở Tây Vực vậy. Phía tây cách Hàm Hải hai ngày đường, có thành Dưỡng Cát Can, cũng chiếm thành này.

Ba tướng là bọn A Lạt Hắc đến thành Bạch Nột Khắc Đặc, đánh ba ngày, hạ thành này. Chia quân Khang Lí cùng dân chúng ở hai nơi, giết hết quân Khang Lí, bắt thợ mộc, thợ đá theo quân, đuổi dân chúng, tráng đinh đến thành Hốt Chiên. Tù trưởng của thành là Thiếp Mộc Nhi Mã Lí Khắc giữ bãi đất ở giữa sông, tên, đá không thể bắn đến, cùng thành làm thế ỷ giốc cứu giúp lẫn nhau, làm thuyền mười hai chiếc, bọc len bôi bùn để chống tên lửa, hằng ngày đánh nhau với quân Mông Cổ. Ba tướng thấy quân không đủ, xin thêm quân. Quân đến, sai dân chúng chở đá ở núi, lấp sông đắp bờ, để đến tới châu. Thiếp Mộc Nhi Mã Lí Khắc thấy việc gấp rút, lấy thuyền bảy mươi hai chiếc chở quân sĩ, đồ khí giới, lương thực, bỏ thành Bạch Nột Khắc Đặc. Đại quân trước tiên lấy dây sắt khóa hai bờ sông. Thiếp Mộc Nhi Mã Lí Khắc cắt đức dây sắt, đường bắt đầu thông, rời thuyền lên bờ, vừa đánh vừa đi, quân chết, thương gần hết, chỉ còn hơn ba người, đuổi theo bắn tên trúng mắt, lại thoát được. Rồi đến Ô Nhĩ Kiện Xích, lấy binh ở thành này để đến thành Dưỡng Cát Can, giết quan giữ thành của Thuật Xích, lại trở về Ô Nhĩ Kiện Xích.

Đại quân của Thái Tổ trước tiên đến thành Tái Nhi Nô Khắc, sai Đan Ni Thế Môn dụ hàng, thêm tráng đinh làm quân. Theo bãi đất vượt qua đường vắng, Tướng tiền phong là Đại Nhĩ Ba Đồ chiêu dụ người trong thành ra hàng, trong thành không chuẩn bị chống giữ, liền ra hàng. Thái Tổ ra lệnh Tốc Bất Thai thu lại, ra lệnh đi thu hằng ngày, chở tiền vàng một nghìn năm trăm Để na [đơn vị tiền của người Tây Vực].

Mùa xuân năm thứ mười lăm, quân đến thành Bố Cáp Nhĩ, ngày đêm đánh thành. Trong thành có binh hai vạn người phá vây trốn ra, đuổi đến sông A Mẫu, giết hết đội quân này, dân chúng ra hàng. Thái Tổ vào đến nhà thơ, thấy người Hồi giáo cấm uống rượu, ra lệnh lấy túi rượu đặt trên nhà thờ, lấy kinh sách để chân ngựa giẫm xéo, lại sái giáo sĩ cầm cương ngựa, để làm ngục họ. Ra khỏi thành bắt giáo sĩ giảng giải ở trên đài, báo cho dân chúng biết vì phản lại lời ước giết sứ giả cho nên dấy binh rửa thù cũ, nói: “Thượng Đế sinh ra ta như người chăn nuôi cầm roi, dùng để đánh đập các bầy loại, không phải bọn ta mắc tội với Thượng Đế, trời sao sinh ra ta?”…

Mùa xuân năm thứ mười lăm, quân đến thành Bố Cáp Nhĩ, ngày đêm đánh thành. Trong thành có binh hai vạn người phá vây trốn ra, đuổi đến sông A Mẫu, giết hết đội quân này, dân chúng ra hàng. Thái Tổ vào đến nhà thờ, thấy người Hồi giáo cấm uống rượu, ra lệnh lấy túi rượu đặt trên nhà thờ, lấy kinh sách để chân ngựa giẫm xéo, lại sai giáo sĩ cầm cương ngựa, để làm nhục họ. Ra khỏi thành bắt giáo sĩ giảng giải ở trên đài, báo cho dân chúng biết vì phản lại lời ước giết sứ giả cho nên dấy binh rửa thù cũ, nói: “Thượng Đế sinh ra ta như người chăn nuôi cầm roi, dùng để đánh đập các bầy loại, không phải bọn ngươi mắc tội với Thượng Đế, thì trời sao sinh ra ta?”. Đan Ni Thế Môn phiên dịch lời này, để ra lệnh cho dân chúng, tịch thu người giàu, ra lệnh đưa tiền của chôn giấu ra. Lúc ấy vẫn có quân Khang Lí chống giữ ở luỹ trong thành, sai dân chúng lấp hào để vào. Ngày thứ hai mươi, luỹ bị phá, bắt dân ở đây làm nô lệ.

Đại quân men theo sông Tái Lạp Phủ Tán đến Tát Mã Nhĩ Can, cảy thảy năm ngày đường. Chia quân hạ trại làm luỹ ở bến sông. Vua Tây Vực trước tiên đi nhanh đến Tát Mã Nhĩ Can, đốc thúc dân chúng sửa thành đào ao, nghe tin quân đến, rất sợ, bảo là quân địch tinh nhuệ, ta không thể ở đây, liền bỏ đi trước. Trong thành có binh bốn vạn người, chuẩn bị đầy đủ. Thái Tổ thấy không dễ đánh, trước tiên hợp lại bao vây để làm khó thành này. Binh của bọn Thuật Xích từ ba đường cũng đều đến dưới thành. Binh trong thành là người Tháp Khởi Khắc có một phần ba, người Khang Lí ở hai phần ba trong số đó. Đến lúc rđa đánh, quân Tháp Khởi Khắc đi trước, trúng phải mai phục, quân Khang Lí không cứu giúp, rồi thua to. Người Khang Lí tự thấy mình là cùng chủng loại với người Mông Cổ, việc gấp rút thì xin hàng, cho nên không đánh nhiều. Thái Tổ khuyên bảo quân hàng này, sai trước tiên đem vợ con ra thành, dấy lên cực chẳng đã cũng hàng. Tướng giữ thành là A Nhi Bát Hãn dẫn quân thân cận phá vây trốn ra. Trong ngoài thành hai vòng, năm ngày chiếm hết được. Để quân Khang Lí ở riêng một chỗ, ra lệnh kết tóc, bảo cho viết sắp vào quân ngũ, buổi đêm bèn giết hết họ. Bắt lấy thợ, chia ra đến các trại. Dân đinh ba vạn người dùng để lao dịch, còn lại dân năm vạn người, ra lệnh đưa tiền ra cho mười lăm vạn, cho trở lại nhà cũ.

Ra lệnh Triết Biệt riêng theo đường phía bắc, Tốc Bất Thai theo đường phía nam, đều thống lĩnh vạn quân đuổi theo vua Tây Vực. Khuyên nói: “Gặp quân kia nhiều, thì không cùng đánh nhau, mà lại đợi quân ở sau. Quân kia trốn chạy, thì đuổi gấp không tha. Qua thành lũy nào, người ra hàng thì đừng cướp giết, không hàng thì đánh chiếm, bắt dân ở đấy làm nô lệ. Không dễ đánh, thì bỏ đi, không được đem binh đến dưới thành vững chắc”.

Vua Tây Vực chạy đến Tát Mã Nhĩ Can, đại quân mới vượt sông Tích Nhĩ. Tướng bày mưu kế, khuyên bảo họ nhanh chóng đánh quân của các xứ ở Hoá Lặc Tự Di, cùng lòng chống giặc, ra sức chống giữ sông A Mẫu, thì vùng sông Tích Nhĩ hiểm yếu dù mất, bên trong hiểm yếu vẫn có thể giữ. Có người khuyên đến Ca Tự Ni, nếu quân địch vào sâu thì đến Ấn Độ, đất này nắng nóng nhiều núi hiểm trở, người Mông Cổ không dám đi lên; Vương cho là kế này vẹn toàn, theo đó. Sai người đến Ô Nhĩ Kiện Xích, báo cho mẹ, vợ của mình, đến Mã Tam Đức Lan tránh binh. Vương vuợt sông A Mẫu, đi đến Ba Nhĩ Hắc, con của mình là Ốc Khẳng Ai Đinh từ Nghĩa Lạp Khắc sai sứ giả đến, đón cha từ phía tây đến, Vương lại đổi kế theo con. Trát Lạp Lặc Đinh lúc ấy theo cha, muốn giả làm chức thống lĩnh quân sĩ, giữ sông A Mẫu. Vương nói là còn nhỏ không trải qua sự việc, không hứa. Chốc lát nghe tin Bố Cáp Nhĩ bị hãm, tiếp theo lại nghe tin Tát Mã Nhĩ Can cũng bị hãm, Vương gấp đến Nghĩa Lạp Khắc. Quân đi theo đều là người Khang Lí, ngầm mưu tính bỏ đi. Vương có ý đề phòng, mỗi lần nghỉ thì đổi chỗ. Một đêm, dừng dời chỗ khác, mà lại để trướng trống không bị tên bắn đầy ghế. Đến Nhĩ Sa Bất Nhi, nghe tin đại quân đã vượt sông A Mẫu, giả nói là ra đi săn, bỏ đến Nghĩa Lạp Khắc.

Bấy giờ, hai tướng Triết, Tốc đến Phanh Xước Khắc, muốn vượt sông A Mẫu, nhưng không có thuyền. Chặt cây xếp làm hòm rương, bọc da trâu, dê ở ngoài, buộc ở đuôi ngựa, tướng sĩ vin vào để vượt sông. Đã vượt sông, chia đường đi lên. Triết Biệt vào Ô Lạp Thương, dân chúng Ba Nhi Hắc dâng tiền thiết đãi. Đến thành Bạt Tát Bá, theo dấu tích của Vương, chia ra sai người chiêu hàng các thành. Quân tiền phong đến Nhĩ Sa Bất Nhi, dân chúng tặng lương thực, xin đợi vua của mình đến thì bắt lấy để hàng. Triết Biệt đến dưới thành, dân chúng cũng tặng lương thực, ra lệnh cho người quyền qúy trong thành ra gặp, trao cho bản cáo thị của Thái Tổ, đại khái nói là trời đã ban đất Tây Vực cho ta, kẻ hàng thì đuợc yên ổn, kẻ không hàng thì giết không tha. Quân của Tốc Bất Thai đi qua các đất Đồ Tư, Khô Mẫu, Cát Bộ San, Y Tư Pháp Lăng, Tháp Mật Can, Tây Mô Nãng, không gặp vua Tây Vực, muốn đi về phía tây đến Nghĩa Lạp Khắc. Triết Biệt từ Mã Tam Đức Lan vượt núi đến phía nam, hai đội quân gặp nhau ở thành Hợp Nhi Lạp Nhĩ, quân lại hợp lại.

Vua Tây Vực cùng Ốc Khẳng Ai Đinh thống lĩnh mấy vạn người, giữ thành Khả Tư Phí Âm ở Nghĩa Lạp Khắc, quân Mông Cổ nhanh đến, cha con chia đường chạy trốn. Vương cùng Cát Á Đại Đinh vào lũy Khách Long, gặp quân đuổi theo, bắn thương ngựa của Vương. Ở trong luỹ một ngày, liền đi về phía tây đến Báo Đạt. Đổi đường về phía tây bắc, vào luỹ ở núi Tuy Nhi Triết Hàn, ở đây bảy ngày, đến Cơ Lan, lại đi về phía đông đến Mã Tam Đức Lan, đồ khí giới quân lương mất hết.

Đại quân cũng vào Mã Tam Đức Lan, phá thành A Mô Nhĩ ở đó, chiếm A Sĩ Đặc Lạp Đặc. Vương chạy đến náu ở bờ biển, lo buồn không thôi, mưu tính chạy vào biển, ghé thuyền để đợi. Ở Mã Tam Đức Lan ngày trước có tù trưởng, bị Vương giết, con của tù trưởng mưu tính trả thù, trình bày chỗ Vương ở. Đại quân chợt đến, Vương vội lên thuyền, có ba quân kị lội vào nước đuổi Vương, Vương dìm cho ngã, bắn tên cũng không đến. Thuyền đến đảo nhỏ ở phía đông nam, Vương lo lắng lại tức giận, toàn ngực mắc nghẽn, dân ở đảo cùng đem gạo thô đến lại không thể ăn, cũng không có thầy thuốc. Bệnh đổi, gọi con của mình là Trát Lạt Lặc Đinh, Ngạc Tư Lạp Khắc Sa, A Khắc Sa đến, ra lệnh Trát Lạt Lặc Đinh nối nghiệp, lấy kiếm đeo vào eo. Qua mấy ngày, chết, không liệm thây, táng ở trong đất.

Ốc Khẳng Ai Đinh trốn vào Khởi Nhi Mạn, ở được nửa năm, đem quân chúng đến Hợp Nhi Lạp Nhĩ, tướng Mông Cổ là Thai Mã Tư Thai Nạp Nhĩ đến đánh, thua chạy đến luỹ Tô Thôn A Bồn, đánh nửa năm, phá lũy, giết Ốc Khẳng Ai Đinh.

0