18/06/2018, 15:56

Từ Quốc Gia Việt Nam đến Việt Nam Cộng Hòa 1946-1955

Vận động trưng cầu dân ý năm 1955 đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền GS Lê Xuân Khoa Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba 1946 được ký kết, Pháp đã chuẩn bị cho ra đời một Chính phủ Nam kỳ Tự trị nhằm chống lại điều khoản đầu tiên của hiệp định dự liệu tổ chức một cuộc trưng cầu dân ...

Vận động trưng cầu dân ý năm 1955 đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền

Vận động trưng cầu dân ý năm 1955 đưa Ngô Đình Diệm lên nắm quyền

GS Lê Xuân Khoa

Ngay sau khi Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba 1946 được ký kết, Pháp đã chuẩn bị cho ra đời một Chính phủ Nam kỳ Tự trị nhằm chống lại điều khoản đầu tiên của hiệp định dự liệu tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để cho nhân dân ba miền ở Việt Nam tự quyết định về vấn đề thống nhất lãnh thổ. Ngày 12 tháng Ba, ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Nam Jean Cèdile tuyên bố Hiệp định 6 tháng Ba chỉ có tính cách địa phương giữa ủy viên Cộng hòa Pháp ở miền Bắc là Sainteny và Việt Minh, không có giá trị đối với phần lãnh thổ ở phía Nam vĩ tuyến 16. Lời phủ nhận của Cèdile trái ngược với quyết định của chính phủ Félix Gouin chấp thuận hiệp định này. Trong cùng một ngày, Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, đại biểu Hội đồng Tư vấn Nam kỳ, đề nghị với Cèdile cho Nam Kỳ tiến đến tự trị bằng cách được hưởng những điều kiện tương tự như Hiệp định Sơ bộ 6 tháng Ba cho miền Bắc.1

Sau một chiến dịch bằng báo chí như tờ Tân Việt và Le Populaire, và một loạt những cuộc biểu tình do Đảng Dân Chủ Nam Kỳ và Mặt Trận Bình Dân Nam Kỳ tổ chức, Cédile sắp đặt cho một phái đoàn do Nguyễn Văn Xuân cầm đầu sang Pháp ngày 23 tháng Tư để vận động cho Nam Kỳ tự trị. Đây là âm mưu của d’Argenlieu và Cédile nhằm mục đích phá Hội nghị Việt-Pháp về vấn đề thi hành Hiệp định Sơ bộ khai mạc ngày 19 tháng Tư tại Đà-lạt. Phái đoàn Nguyễn Văn Xuân tới Paris ba ngày trước khi một phái đoàn Quốc Hội Việt Nam do Phạm Văn Đồng hướng dẫn sang viếng thăm thiện chí Quốc hội và Chính phủ Pháp. Ngày 11 tháng Năm, hội nghị Đà-lạt không đạt được kết quả, phải hoãn vô thời hạn. Hồ Chí Minh quyết định sang Paris để hỗ trợ cho phái đoàn Việt Nam tại Hội nghị Fontainebleau như một nỗ lực cuối cùng cho việc thi hành hiệp định sơ bộ. Phái đoàn Việt Nam đáng lẽ do Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Tường Tam cầm đầu, nhưng ông Tam vào ngày chót cáo bệnh không đi nên Phạm Văn Đồng, khi đó đang ở lại Paris để chờ phái đoàn, được chỉ định làm trưởng đoàn. Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng phái đoàn lên đường ngày 31 tháng Năm thì ngay ngày hôm sau, 1 tháng Sáu, Chính phủ Tự Trị Nam Kỳ được thành lập.2

Chính phủ Nam kỳ Tự trị do Nguyễn Văn Thinh cầm đầu được Pháp cho ra đời chính là để phủ nhận Hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba và phá hoại những cố gắng cứu vãn hòa bình của Hồ Chí Minh tại Hội nghị Fontainebleau. Chính phủ ấy gồm một số trí thức và nghiệp chủ thân Pháp đích thực là một chính phủ bù nhìn dựa vào thế lực của Pháp, hoàn toàn không có một cơ sở chính đáng nào về chủng tộc và lịch sử, và đi ngược lại nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nghĩ cho cùng, những người chủ trương Nam kỳ tự trị không hẳn là những người phủ nhận gốc rễ chủng tộc và sự toàn vẹn lãnh thổ của tổ quốc. Ngoài cảm tình và lòng ngưỡng mộ văn hóa Pháp mà họ chịu ảnh hưởng sâu đậm hơn do quy chế thuộc địa, họ còn có những quyền lợi vật chất và tinh thần cần được bảo vệ trước viễn tượng của một nước Việt Nam thống nhất dưới chế độ cộng sản. Do đó, chủ trương Nam kỳ tự trị cần được hiểu như một nhu cầu chính trị, một phản ứng tự vệ của một địa phương trước sự đe dọa bị chiếm đoạt và trừng phạt của một chính quyền cộng sản trung ương từ miền Bắc. Muốn tự vệ và bảo vệ quyền lợi của mình, giới trí thức và nghiệp chủ ở miền Nam không có đủ khả năng chống lại làn sóng cách mạng do Việt Minh lãnh đạo nên bắt buộc phải dựa vào đồng minh là Pháp để hai bên cùng có lợi. Lúc này Bảo Đại chưa xuất hiện như một giải pháp và một cơ hội cho các đảng phái quốc gia có thể liên kết với nhau thành một lực lượng chính trị đối phó với Việt Minh.

Bác sĩ Nguyễn Văn Thinh, Thủ tướng Chính phủ Nam Kỳ Tự Trị, được biết là một người có lòng tốt và không có đầu óc kỳ thị Nam-Bắc, ngoài nhu cầu chính trị trước mắt. Khi miền Bắc bị nạn đói năm 1945, ông đã đáp ứng lời kêu gọi của chính phủ Trần Trọng Kim, thành lập một tổ chức quyên được khá nhiều tiền cứu giúp nạn nhân đói kém. Vụ ông treo cổ tự tử sau hơn bốn tháng làm thủ tướng, dù vẫn còn là một nghi vấn chưa được giải đáp rõ rệt, được nhiều người tin là vì ông bất mãn với những lời hứa hẹn không thực hiện của Pháp về những quyền lợi chính trị và kinh tế của miền Nam, và ông hối hận vì đã tin tưởng sai lầm vào chính phủ Pháp. Cựu Hoàng Bảo Đại cũng xác nhận như vậy.

Sau khi Lê Văn Hoạch được Hội Đồng Tư vấn Nam Kỳ bầu làm Thủ tướng thay thế Nguyễn Văn Thinh, vai trò của Bảo Đại càng ngày càng được nhắc đến như một giải pháp thích hợp, có thể được Pháp và Hoa Kỳ hỗ trợ để đối phó với cộng sản và xây dựng một nước Việt Nam độc lập, dân chủ thân Tây phương. Giữa tháng Hai 1947, Mặt Trận Quốc Gia Liên Hiệp (MTQGLH)3 họp ở Nam Kinh ra tuyên ngôn ủng hộ Cựu Hoàng Bảo Đại để thành lập một chính phủ đoàn kết quốc gia. Các nhân vật chính trị miền Nam như Nguyễn Văn Tâm, Trần Văn Tỷ, Nguyễn Tấn Cường, Trần Văn Hữu bắt đầu chuyển hướng sang lập trường thống nhất ba kỳ. Ngày 23 tháng Tám, Thủ tướng Lê Văn Hoạch tiếp xúc với Bảo Đại ở Hong Kong và khi trở về muốn cải tổ chính phủ theo chiều hướng của MTQGLH nhưng gặp khó khăn từ phía Pháp và một số người trong Hội đồng Tư vấn Nam kỳ. Ngày 9 tháng Chín, Bảo Đại triệu tập ở Hong Kong hội nghị tham khảo MTQGLH và đại diện các đảng phái chính trị và tôn giáo từ ba miền ở trong nước. Hội nghị ra tuyên cáo chung yêu cầu Bảo Đại ra cầm quyền và mở cuộc đàm phán với Pháp nhằm đem lại hòa bình và độc lập cho Việt Nam. Ngày 18 tháng Chín, Bảo Đại ra tuyên cáo với quốc dân, nhắc đến việc hai năm trước ông đã từ bỏ ngai vàng của tổ tiên để tránh một cuộc đổ máu giữa người Việt và người Việt. Ông cho biết đã chọn cuộc sống lưu vong để không gây trở ngại cho chính quyền mới mà đa số nhân dân khi đó đã lựa chọn vì tin tưởng sẽ đem lại được hòa bình và hạnh phúc cho dân tộc. Tuy nhiên sau hai năm kinh nghiệm đau thương, nhân dân mong mỏi đất nước thoát khỏi nạn chiến tranh và được sống dưới một chế độ chính trị mới. Vì vậy, ông long trọng tuyên bố:

“Đáp lời kêu gọi của quốc dân đồng bào, tôi nhận lãnh nhiệm vụ được quốc dân giao phó và sẵn sàng tiếp xúc với nhà cầm quyền Pháp. Tôi sẽ cùng với họ xem xét một cách khách quan những đề nghị đã nhận được.

Trước hết, tôi muốn đạt được độc lập và thống nhất đúng với nguyện vọng của đồng bào, tiến đến các thỏa hiệp về những đảm bảo giữa đôi bên, và có thể đoan chắc rằng lý tưởng mà chúng ta đã anh dũng theo đuổi trong một cuộc chiến khốc liệt sẽ phải đạt được.

Như vậy, tôi sẽ tận lực hòa giải mối mâu thuẫn giữa các nhóm với nhau, bởi vì một khi chúng ta đã đạt được mục đích thì không có gì có thể chống lại việc vãn hồi hòa bình. Tôi muốn duy trì nền hòa bình này để đem lại an ninh và thịnh vượng cho đồng bào. Thời gian sẽ làm dịu bớt những tình cảm mãnh liệt. Trong tình đoàn kết, tất cả mọi người Việt Nam sẽ xây dựng lại xứ sở đẹp đẽ của chúng ta trên những nền tảng mới, khơi nguồn sinh lực trong những truyền thống mạnh mẽ của chúng ta.”4

Vì Pháp vẫn muốn duy trì chính phủ Nam kỳ tự trị, ngày 29 tháng Chín, chính phủ Lê Văn Hoạch từ chức. Nguyễn Văn Xuân được Hội đồng Tư vấn ủy cho lập chính phủ mới. Đây là một lỗi lầm rất lớn của Pháp vì phá hoại chính nghĩa quốc gia của các chính phủ do Bảo Đại cầm đầu sau này.

Điều đáng tiếc là phe quốc gia đã bỏ lỡ những cơ hội tốt đẹp nhất cho giải pháp Bảo Đại có thể đạt được mục tiêu độc lập và thống nhất cho đất nước. Hội nghị 9 tháng Chín 1947 do Bảo Đại triệu tập ở Hong Kong lần đầu tiên quy tụ được khá đầy đủ đại diện các đảng phái và tôn giáo ở trong và ngoài nước, gây được nhiều tiếng vang và có triển vọng được sự ủng hộ rộng rãi của mọi giới. Theo sử gia Joseph Buttinger, trong một cuộc gặp gỡ ở Hong Kong với William Bullitt, cựu Đại sứ Mỹ ở Pháp và Liên Xô, Bảo Đại được biết là Hoa Kỳ sẽ ủng hộ một chính phủ Việt Nam không cộng sản.5 Những chính khách chủ trương Nam Kỳ tự trị cũng đã nhận thấy cơ sở chính đáng cho một liên minh chính trị toàn quốc và đã bắt đầu ủng hộ hoặc tham gia vào MTQGLH. Kỳ Ngoại Hầu Cường Để cũng viết thư cho Chủ tịch Quốc Hội Pháp yêu cầu thương thuyết với Bảo Đại. Như vậy, nếu các đoàn thể quốc gia đại diện cho cả ba miền có thể kết hợp thành một lực lượng hậu thuẫn cho Bảo Đại để tranh đấu với Pháp thì chính nghĩa quốc gia sẽ được sáng tỏ và có nhiều hi vọng được Hoa Kỳ và quốc tế ủng hộ. Tuy nhiên, cơ hội này đã bị làm hỏng vì hai nguyên nhân chính:

Thứ nhất, là sự phá hoại của Pháp bằng việc lung lạc Hội Đồng Tư Vấn Nam Kỳ và xây dựng vai trò Nguyễn Văn Xuân trong ý đồ thành lập một Liên Minh Ba Kỳ. Theo sự tiết lộ của Bảo Đại, khi thấy chính phủ Nam Kỳ Tự Trị không có hi vọng tồn tại, các giới chính trị Pháp nghĩ đến một giải pháp “trung đạo”, giữa giải pháp mác-xít và giải pháp quân chủ, nghe có vẻ phù hợp với triết lý Khổng-Mạnh. Ý đồ của ông Xuân là trong giai đoạn đầu thành lập Liên Minh Ba Kỳ: miền Bắc với Hồ Chí Minh, miền Trung với Bảo Đại, và miền Nam với Nguyễn Văn Xuân. Giai đoạn thứ nhì là loại bỏ Hồ Chí Minh cộng sản và Bảo Đại quân chủ để xây dựng một chính thể cộng hòa tiến bộ. Cuộc khủng hoảng chính trị ở Pháp đưa đến sự sụp đổ của chính phủ Ramadier và dư luận bất lợi ở trong nước đã khiến cho ý đồ liên minh ba Kỳ không thể tiến hành được. Nguyễn Văn Xuân đổi tên “Chính phủ Cộng Hoà Nam kỳ Tự trị” thành “Chính phủ Lâm thời miền Nam,” nhưng ý niệm ly khai vẫn còn đó.6

Thứ hai —và đây mới là nguyên nhân chính— là sự bất đồng ý kiến giữa các lãnh tụ chính trị quốc gia. Giải pháp Bảo Đại có nhiều triển vọng thành công trong những năm 1947-1949 khi lực lượng Việt Minh còn yếu kém vì chưa được Liên Xô và Trung Quốc viện trợ. Ý thức được vai trò cần thiết và thời cơ thuận lợi của mình, Bảo Đại đã đòi Pháp những điều kiện có lợi cho Việt Nam hơn là bản hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba hay bản tạm ước 14 tháng Chín 1946 giữa Hồ Chí Minh và Marius Moutet. Trong một buổi hội kiến với Dân biểu Walter H. Judd và các thành viên trong Tiểu ban Ngoại vụ của Hạ viện Mỹ thăm Việt Nam vào cuối tháng Mười Một, 1953, Bảo Đại kể lại rằng buổi tối trước ngày ký Hiệp ước Élysée 8.3.1949, Việt Minh đã cử đại diện tới gặp chính phủ Pháp, đặt vấn đề: “Tại sao các ông lại nhượng bộ nhiều thế? Chúng tôi sẽ ký với các ông một hiệp định ngưng bắn khác theo những điều khoản của hiệp định 1946.”7 MTQGLH có triển vọng trở thành một liên minh chính trị có uy tín, quy tụ được đông đảo các đảng phái chính trị, các tổ chức tôn siáo và đoàn thể quần chúng trên toàn quốc để hậu thuẫn cho Bảo Đại trong những cuộc thương nghị đem lại độc lập, thống nhất và hòa bình cho xứ sở. Khi đó, Hồ Chí Minh cũng muốn điều đình với Pháp, nhưng cần phải ngăn chặn MTQGLH lôi cuốn những phần tử yêu nước không cộng sản trong Mặt trận Việt Minh. Kết quả là một số lãnh tụ quốc gia bị ám sát như Huỳnh Phú sổ, giáo chủ Phật giáo Hòa Hảo, Nguyễn Văn Sâm, một trong những người cầm đầu MTQGLH, và Trương Đình Tri, Chủ tịch Hội Đồng An Dân Bắc phần và là cựu Bộ trưởng Y tế trong Chính Phủ Liên Hiệp của Việt Minh.

Nhược điểm cố hữu của phe quốc gia là không thể nào kết hợp được với nhau thành một khối, vì khác biệt ý kiến hoặc vì quyền lợi cá nhân hay bè phái. Tất cả các nhà lãnh đạo đảng phái hay đoàn thể tôn giáo, xã hội đều thấy mình quan trọng như nhau, không có một lãnh tụ nào vượt trội có đủ uy tín và quyền lực để mọi người tuân phục như Hồ Chí Minh đối với Mặt trận Việt Minh. Các lãnh tụ chính trị cùng một Đảng như Đại Việt cũng có năm ba phe, chẳng hạn phe Nguyễn Tôn Hoàn (miền Nam) không ưa phe Phan Huy Quát (miền Bắc). Thủ Tướng chính phủ trung ương Trần Văn Hữu chống Thủ hiến miền Trung Phan Văn Giáo, và cuộc vận động của Phan Văn Giáo với Bảo Đại để ông kiêm nhiệm Tư lệnh Sư đoàn miền Trung đã khiến tư lệnh người Pháp Lorillot nhận xét rằng Thủ hiến Giáo muốn tạo ra “một quốc gia trong một quốc gia.”8 Trần Văn Hữu cũng chống Thủ hiến Bắc Việt Nguyễn Hữu Trí vì ông Trí chỉ trích ông Hữu tham nhũng và kiêm nhiệm quá nhiều bộ.9và đòi hỏi các Bộ Quốc phòng, Kinh tế và Giáo dục cho đảng Đại Việt. Tướng de Lattre phải can thiệp và hòa giải. Phe Công giáo ở Bùi Chu, Phát Diệm dưới sự lãnh đạo của Giám mục Lê Hữu Từ và Phạm Ngọc Chi thì muốn tồn tại trong tư thế độc lập nên khai thác cả hai phía Hồ Chí Minh và Bảo Đại, tức là vừa kháng chiến chống Pháp vừa nhận viện trợ của chính phủ quốc gia. số giáo dân khi ấy đi theo Việt Minh cũng còn khá nhiều. De Lattre phải sang Vatican vận động Đức Giáo Hoàng nên vào đầu tháng Mười Một 1951, Khâm Mạng Tòa Thánh tại Đông Dương John Dooley triệu tập Hội Nghị các Giám Mục Đông Dương tại Hà Nội và ra thông cáo chung gửi các tín hữu Ki-tô, nhấn mạnh rằng:

Đức Thánh Cha của chúng ta đã tuyên cáo rằng tuyệt đối không bao giờ có thể vừa theo Cộng sản vừa theo Ki-tô giáo được, và người Ki-tô nào gia nhập đảng cộng sản thì thực tế tách rời khỏi Giáo hội. Chẳng những Đức Thánh Cha cấm các giáo dân không được gia nhập đảng cộng sản mà còn không được cộng tác với họ hay giúp đỡ họ nắm chính quyền dù dưới hình thức nào….10

Bảo Đại không phải là một lãnh tụ chính trị có khả năng tổ chức và chỉ huy một Mặt Trận tranh đấu với tinh thần cách mạng, mà chỉ là một khuôn mặt tượng trưng, được kính nể với tư cách một cựu hoàng đế và cựu “cố vấn tối cao” của chính phủ Hồ Chí Minh. Bảo Đại cần có một chính phủ gồm những người yêu nước có uy tín. Trong khi đó, MTQGLH hay bất cứ hình thức liên minh nào khác của các tổ chức quốc gia đều chỉ được thành lập do yêu cầu nhất thời của tình thế, nhưng không thể nhất trí trong đường lối, thống nhất trong cơ cấu tổ chức và kỷ luật làm việc. Với quan niệm lãnh đạo phong kiến cổ truyền, các lãnh tụ chính trị không chấp nhận ý kiến khác biệt hay đối lập và cũng không tuân hành nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số. Bởi thế, các liên minh chính trị quốc gia luôn luôn có một cơ cấu lỏng lẻo, thiếu lãnh đạo, chỉ có bề ngoài dân chủ mà không có tinh thần dân chủ, và vì vậy có thể tan rã dễ dàng.

Các nhà lãnh đạo chính trị quốc gia, vì cạnh tranh với nhau, cần phải chứng tỏ tinh thần ái quốc cao độ của mình nên thường không chịu chấp nhận cả những giải pháp ôn hòa vì không muốn để cho đối phương có lý do chỉ trích hay kết tội là “phản quốc”. Một lãnh tụ có tầm cỡ như Hồ Chí Minh, sau khi ký hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba 1946 trong một tình thế phải nhượng bộ để tồn tại, cũng đã phải long trọng thề với quốc dân là “Hồ Chí Minh này không bán nước!” để trấn an lòng bất mãn trong nội bộ Việt Minh và những lời cáo buộc của các đảng phái quốc gia. Khác với Hồ Chí Minh là người cộng sản nhưng sẵn sàng hợp tác với người quốc gia như một phương tiện để đạt tới cứu cánh, Nguyễn Hải Thần và Nguyễn Tường Tam rút ra khỏi MTQGLH sau hội nghị 9 tháng Chín ở Hong Kong vì thấy có một số người thân Pháp từ miền Nam sang tham dự. (Nguyễn Tường Tam là một trí thức không thuộc phái cổ truyền nhưng có tinh thần quốc gia quá khích.) Thái độ không chấp nhận khác biệt và sợ bị mang tiếng nhượng bộ làm bế tắc mọi cuộc thảo luận, làm cùn nhụt tinh thần linh động và sáng tạo, yếu tố cần thiết để đạt được đồng thuận. MTQGLH thay vì được tăng cường lại suy yếu dần đến chỗ tan rã. Ngô Đình Diệm ủng hộ giải pháp Bảo Đại và đã thuyết phục được nhiều nhóm công giáo kháng chiến rời bỏ Việt Minh, rốt cuộc đã từ chối lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ hồi tháng Năm 1949, cũng chỉ vì không thỏa mãn với bản Hiệp ước Élysée giữa Auriol và Bảo Đại.

Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường Tam và Ngô Đình Diệm đại diện cho nhóm yêu nước quá khích, không coi việc thỏa thuận với Pháp vào những năm cuối thập kỷ 1940 như bước đầu cần thiết để tiến đến độc lập và thống nhất hoàn toàn. Trong khi đó, Hồ Chí Minh là một chính trị gia thực tế và mưu lược, sẵn sàng tạm chấp thuận những điều kiện kém thuận lợi để có đủ thời gian xây dựng lực lượng. Thái độ bất hợp tác của những người chống Pháp cực đoan và tình trạng phức tạp của những đoàn thể quốc gia làm cho Bảo Đại càng ngày càng trở nên cô đơn trước trách nhiệm lịch sử nặng nề. Thêm vào đó là những hoạt động phá hoại của Pháp và những đại điền chủ miền Nam vừa mua chuộc vừa chia rẽ các lực lượng Bình Xuyên, Cao Đài và Hòa Hảo. Việt Minh, dưới sự điều động của tướng Nguyễn Bình, cũng triệt để khai thác cơ hội này. Nhiều nhân vật có khả năng và uy tín không muốn tham gia chính phủ và chọn thái độ “chờ xem”, tạo thành một lớp người mà thuật ngữ đương thời gọi là những “nhân sĩ trùm chăn.” Tình hình đó đã làm cho phe quốc gia không được Hoa Kỳ tin tưởng và ủng hộ mặc dù Hoa Kỳ rất bất mãn với chính sách thực dân của Pháp ở Đông Dương. Thái độ lạnh nhạt của Hoa Kỳ làm cho Bảo Đại rất thất vọng vì, theo nhận định của Bộ trưởng Quốc phòng Phan Huy Quát, “Bảo Đại không thể xác định được chính sách của Mỹ đối với Việt Nam thật ra như thế nào. Mặc dù ông hiểu, và chấp nhận việc Mỹ cần trông cậy vào Pháp trong công cuộc phòng thủ Tây Âu, Bảo Đại thắc mắc không hiểu tại sao Mỹ không hết lòng ủng hộ cho Việt Nam đạt được nguyện vọng gần như hoàn toàn độc lập, đặc biệt là về quân sự, vì một nước Việt Nam mạnh sẽ rất có lợi chẳng những cho Pháp mà còn cho toàn thể khối Tây phương.”

Vốn không phải là một người làm cách mạng cho nên khi gặp hoàn cảnh khó khăn và phức tạp, Bảo Đại dễ chán nản với đời sống chính trị và dễ bị lôi cuốn vào những lạc thú sa đọa của một cựu hoàng thất thế. Kể từ khi được Bảy Viễn mua chuộc bằng tiền của sòng bạc Đại Thế Giới ở Chợ Lớn ngoài số tiền lương bổng, trương mục ngân hàng và bất động sản ở Pháp, Bảo Đại càng ngày càng tránh né trách nhiệm và không còn uy tín của một vị nguyên thủ quốc gia.12 Tương lai chính trị của Bảo Đại coi như chấm dứt khi ông nhận hối lộ của Bình Xuyên, đồng ý với Pháp ủng hộ tập đoàn mafia này và còn muốn đưa Bảy Viễn ra làm Tổng trưởng.

Đại sứ Mỹ Collins, dù đồng ý với Cao ủy Pháp Ely chống Ngô Đình Diệm, cũng là người không chịu chấp nhận Bảy Viễn trong sinh hoạt chính trị miền Nam.

Một cơ hội thứ hai rất lợi cho giải pháp Bảo Đại là Quốc Dân Đại Hội họp tại Sài-gòn từ 10.10 đến 17.10.1953 với hơn hai trăm đại biểu của ba miền đất nước. Trần Trọng Kim, cựu Thủ tướng không đảng phái, được bầu làm Chủ tịch. Đại Hội này đã làm cho Pháp bị “sốc” bất ngờ vì ra quyết định dứt khoát tuyên bố “nước Việt Nam độc lập không gia nhập Liên Hiệp Pháp” và sau khi thâu hồi đầy đủ chủ quyền “sẽ ký với Pháp một hiệp ước liên minh trên căn bản bình đẳng…”13 Với tinh thần ái quốc và khí thế hăng say của các đại biểu toàn quốc vào lúc đó, đáng lẽ Đại Hội đã có thể giương cao ngọn cờ chính nghĩa trước dư luận trong nước và thế giới để áp lực Pháp phải nhượng bộ và yêu cầu Mỹ giúp đỡ. Một Hội Đồng hay Ủy Ban Thường Vụ đáng lẽ phải được thành lập ngay sau đó để thiết lập một chương trình hành động giúp cho Bảo Đại có thêm uy thế điều đình, đòi Pháp thực hiện cụ thể những điều cam kết để cho nhân dân trong nước đều thấy rõ. Đáng tiếc là sau Quốc Dân Đại Hội chỉ thấy có những vận động từ phía Pháp nhằm sửa đổi quyết định “quá khích” ngày 17 tháng Mười. Đại sứ Mỹ Heath lúc đó cũng không muốn làm cho Pháp bị mất mặt trong khi các tổ chức chính trị quốc gia chưa tập hợp được thành một lực lượng đáng kể. Cựu Thủ tướng Trần Trọng Kim đã lớn tuổi và suy yếu, sau Đại Hội phải lên Đà Lạt dưỡng bệnh hơn một tháng sau đó thì mất. Không có người lãnh đạo, không có tổ chức phối hợp các hoạt động hậu Đại Hội, các lãnh tụ quốc gia mất dần khí thế và mất luôn cơ hội tốt đẹp này.

Các chính quyền quốc gia sau 1954 cũng không làm nổi bật được chính nghĩa tranh đấu cho tự do dân chủ và không chứng tỏ được bằng những hành động cụ thể sự quan tâm đến an sinh hạnh phúc của nhân dân. Thời Đệ nhất Cộng Hòa, Tổng thống Ngô Đinh Diệm đã có công lấy lại được nền độc lập thật sự cho miền Nam Việt Nam, dẹp tan được cuộc nổi loạn của Bình Xuyên, và đem lại tình trạng ổn định chính trị và xã hội cho dân chúng. Ông đã tạo dựng được cơ sở cho một chế độ dân chủ với triển vọng làm cho vùng lãnh thổ phía Nam vĩ tuyến 17 trở nên phồn thịnh và tự do. So với chế độ cộng sản miền Bắc, chế độ dân chủ ở miền Nam có triển vọng trở thành tương tự như tình trạng giữa Tây Đức và Đông Đức hay Nam Hàn và Bắc Hàn. Tuy nhiên, do quan niệm trị nước lỗi thời đưa đến độc tài gia đình trị, Tổng thống Diệm đã làm mất sự ủng hộ của nhân dân trong nước và chống lại các khuyến cáo của Hoa Kỳ một cách thiếu khôn ngoan đến độ bị đảo chánh và hãm hại.

Ngô Đình Diệm (1901-1963) là một nhân vật có nhiều đức tính đáng khâm phục nhưng cũng có những nhược điểm lớn trong vai trò của một nhà lãnh đạo chính trị. Ông là con thứ tư trong một gia đình chín anh chị em mà bốn người đã bị giết vì lý do chính trị. Thân phụ là Ngô Đình Khả làm Thượng thư bộ Lễ trong triều đình Thành Thái, nhà vua Việt Nam đã bị Pháp lưu đày sang đảo Réunion năm 1916 cùng với hoàng tử kế vị là vua Duy Tân vì cả hai đều mưu đồ chống Pháp. Ngô Đình Khả có hai thành tích đáng kể: thứ nhất là sáng lập trường Quốc Học là trường trung học đệ nhất cấp đầu tiên (thời Pháp gọi là École Primaire Supérieure tức Cao đẳng Tiểu học) vừa dạy bằng tiếng Việt vừa dạy bằng tiếng Pháp ở Huế; thứ hai là không chịu cùng với các đại thần trong triều đình tuân lệnh Khâm sứ Ferdinand Lévecque ký tên chung trong tờ biểu yêu cầu vua Thành Thái thoái vị năm 1907. Vì việc này, ông bị giáng chức và phải về hưu khôngđược lãnh tiền hưu dưỡng. Cũng do việc này, ông đã được dân gian truyền tụng trong câu: “Đày vua không Khả, đào mả không Bài.”14

Ngô Đình Diệm học rất giỏi, làm luận văn tiếng Pháp ở trường Quốc Học được chấm hạng nhì. Sau khi đậu bằng Thành Chung Trung học đệ nhất cấp), ông trở về nhà học thêm La-tinh và chữ Nho, hai năm sau 18 tuổi được mời vào dạy trường Quốc Tử Giám. Xăm 20 tuổi thi và được nhận vào trường Hậu Bổ tức là trường đào tạo quan chức. Ba năm sau ông đậu thủ khoa trong số hai mươi người tốt nghiệp, đi tập sự trong hai năm thì được cử làm tri huyện Hải Lăng tỉnh Quảng Trị. Năm 1929, mới 28 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Tuần phủ tỉnh Phan Thiết. Ông Diệm làm quan nổi tiếng thanh liêm và cương trực, được nhiều người kính phục.

Năm 1932, khi Bảo Đại về nước chính thức cầm quyền dưới chế độ bảo hộ của Pháp, Ngô Đình Diệm được bổ nhiệm làm Thượng thư bộ Nội Vụ với sứ mạng thực hiện cải cách bộ máy hành chánh để thiết lập nền quân chủ lập hiến. Chỉ ba tháng sau, ông xin từ chức vì đề nghị của ông thành lập Viện Dân Biểu với quyền lập pháp không được chính quyền bảo hộ chấp thuận. Hành động này cho thấy thái độ không nhân nhượng về chính trị của ông Diệm khiến giới ngoại giao Mỹ thường gọi ông là con người “all-or-noth- ing” (được tất cả hay không có gì, nói theo kiểu Việt Nam là ‘được ăn cả ngã về không’), một cá tính mà ông đã duy trì cho đến ngày bị hạ sát ba mươi năm sau. Sau khi từ chức Thượng thư, ông lui về sống cuộc đời ẩn dật nhưng vẫn ngấm ngầm ủng hộ các hoạt động chống Pháp của Hoàng thân Cường Để từ bên Nhật. Ông cũng liên lạc cả với những nhà ái quốc Á châu khác như Subha Chandra Bose của Ấn độ và Soekarno của In-đô-nê-si-a là những chính trị gia cũng đang trông cậy vào Nhật trong công cuộc giải phóng đất nước của họ. Do những hoạt động này, ông bị mật thám Pháp nghi ngờ và lùng bắt. Theo Nguyễn Phú Đức, “Ông Diệm trốn thoát và ẩn náu trong nhà của một viên chức toà lãnh sự Nhật ở Huế. Nhiều năm sau, khi đã trở thành Tổng thống miền Nam Việt Nam, ông đã trả ơn cho người bạn Nhật, khi đó đã về hưu khỏi Bộ Ngoại Giao Nhật, bằng cách bổ nhiệm ông ta làm một viên chức không chính thức của Đại Sứ Quán Việt Nam tại Tokyo.”15 Tháng Ba 1945, sau khi Nhật lật đổ Pháp ở Đông Dương, Bảo Đại muốn tìm Ngô Đình Diệm để trao chức Thủ tướng, nhưng có lẽ để tránh quá lộ liễu trong việc ủng hộ phe Cường Để, Nhật đã đề nghị với Bảo Đại mời Trần Trọng Kim đứng ra lập chính phủ. Nếu ông Diệm ra làm Thủ tướng vào lúc đó thì năm 1954 ông hẳn khó lòng được Hoa Kỳ nhiệt tình hỗ trợ, và cơ hội chính trị có thể đã vào tay ông Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ.

Ở đây có một nghi vấn cần được giải đáp về lý do ông Diệm không được mời hay không nhận lời làm thủ tướng. Theo Trần Trọng Kim, ông Diệm rất ngạc nhiên về việc người Nhật không cho ông biết chuyện Bảo Đại đang thành lập chính phủ. Ông Kim cũng nhắc lại lời Bảo Đại trả lời ông là đã không liên lạc được với ông Diệm, và khi ông hởi cố vấn Nhật thì lúc đầu được trả lời là chưa biết ông Diệm ở đâu sau lại nói ông Diệm đau chưa về được.16 Nhưng theo bản hồi ký riêng của cố vấn Nhật Marc Masayuki Yokoyama thì Ngô Đình Diệm đã được mời lập chính phủ nhưng từ chối vì lý do sức khỏe, nhưng ít lâu sau thì Yokohama được biết thật ra ông Diệm từ chối vì hai “lý do bí mật”: thứ nhất là ông đã thề trung thành với Kỳ Ngoại Hầu Cường Để và không muốn phục vụ Bảo Đại mà ông cho là thân Pháp; thứ hai là ông muốn lấy lại Nam bộ và ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng mà lúc này Nhật chưa muốn trả lại cho Việt Nam.17 Tài liệu của Trần Trọng Kim xem ra đáng tin cậy hơn vì Yokohama viết bản phúc trình cho nhà cầm quyền Pháp dưới dạng hồi ký cá nhân không công bố, còn Trần Trọng Kim viết Một Cơn Gió Bụi năm 1949 được xuất bản công khai khi Ngô Đình Diệm, Bảo Đại và những chứng nhân khác như Hoàng Xuân Hãn và Tùng Hạ đều còn sống, và không có người nào đính chính. Chắc hẳn Yokohama không muốn nhìn nhận lý do ông đã không liên lạc với ông Diệm vì chính phủ Nhật khi đó không muốn bị chỉ trích là ủng hộ phe thân Nhật.

Tháng Chín 1945, sau khi Việt Minh đã nắm được chính quyền ở miền Bắc và miền Trung, Ngô Đình Diệm khi đó đang ở Vĩnh Long với bào huynh là Giám mục Ngô Đình Thục. Ông bỏ ra Huế chưa rõ vì mục đích gì nhưng đến Tuy Hoà thì bị Việt Minh bắt đem ra giam giữ ở Tuyên Quang. Chính trong thời gian này ông được tin ông Ngô Đình Khôi bị giết và đến tháng Hai 1946 thì có cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh-Ngô Đình Diệm ở Hà Nội như đã được tường thuật trong chương trước. Bernard Fall ghi nhận hai nét nổi bật trong con người Ngô Đình Diệm: lòng can đảm không chịu thỏa hiệp dù biết rằng mình có thể bị giết, và tinh thần gia đình đến độ cố chấp vì đã đặt tình nghĩa anh em lên trên quyền lợi chung của quốc gia. Nhiều người có thể nhận xét Ngô Đình Diệm không phải là một chính trị gia khôn ngoan biết thích ứng với tình thế và sử dụng thời cơ nhưng không thể không thán phục lòng can đảm của ông. Vấn đề Ngô Đình Diệm từ chối hợp tác với Hồ Chí Minh cũng không hẳn vì lòng cố chấp đó chuyện ông Ngô Đình Khôi bị giết mà có thể vì ông hiểu rõ dụng tâm chính trị của ông Hồ. Tuy nhiên, tinh thần vì gia đình của ông như được chứng tỏ trong thời gian làm Tổng thống VNCH quả thật là một nhược điểm lớn khiến cho ông trở thành một nhà độc tài gia đình trị.

Năm 1949, sau khi hiệp định Ếlysée được ký kết, Ngô Đình Diệm được Bảo Đại yêu cầu đứng ra thành lập chính phủ mới, nhưng ông từ chối vì không đồng ý với nền độc lập nửa vời mà Pháp trao trả. Thay vì làm Thủ tướng, ông cùng với Giám mục Ngô Đình Thục và bào đệ Ngô Đình Nhu thành lập đảng Xã Hội Thiên Chúa Giáo vừa chống Việt Minh vừa đòi Pháp trả lại độc lập và thống nhất cho Việt Nam. Khi thấy hoạt động trong nước còn gặp nhiều khó khăn và đang bị Việt Minh lùng bắt, ông phải bỏ ra nước ngoài để tìm cách vận động sự giúp đỡ của Hoa Kỳ. Năm 1950, ông cùng Giám mục Ngô Đình Thục sang Nhật tìm cách tiếp xúc với tướng Douglas MacArthur, nhưng không được MacArthur ủng hộ. Do lời khuyên của Wesley Fishel, giáo sư chính trị tại Đại học Michigan, ông Diệm sang Hoa Kỳ để vận động trực tiếp với chính quyền Eisenhower nhưng cũng không thành công vì Hoa Kỳ vừa bận tham chiến ở Triều Tiên vừa không muốn làm mất lòng nước Pháp. Trong khi đó, Giám mục Ngô Đình Thục được Hồng Y Spellman tiếp kiến và nhận lời ủng hộ Ngô Đình Diệm. Năm 1951, sau khi cùng Giám mục Thục sang Rôma, Pháp và Bỉ, ông Diệm trở lại Mỹ và ngụ tại Chủng viện Maryknoll ở Ossiming, New York, sau rời sang Lakewood, New Jersey. Ông được nhiều trường Đại học mời nói chuyện về chiến tranh chông Pháp ở Việt Nam, nhấn mạnh rằng cuộc chiến tranh chống Cộng sản ở Việt Nam sẽ không thể thắng lợi nếu Pháp không chịu trao trả độc lập hoàn toàn cho Quốc Gia Việt Nam. Nhờ sự giới thiệu của Hồng Y Spellman, ông Diệm có nhiều dịp gặp gỡ các nhân vật trong Chính phủ và Quốc hội Mỹ. Dân biểu Walter H. Judd và các Thượng Nghị sĩ Mike Mansfield và John F. Kennedy là những người nhiệt tình ủng hộ ông.

Tháng Năm 1953, Ngô Đình Diệm sang Bỉ, ngụ tại nhà dòng Bénédictine ở Saint-André-les-Bruges. Tại đây ông gặp Linh mục Raymond de Jaegher, tác giả cuốn The Enemy Within (Kẻ Nội Thù), là người có nhiều hiểu biết về hoạt động cộng sản ở Á châu. Linh mục Jaegher sau trở thành cố vấn của chính phủ Diệm. Đầu năm 1954 trước tình hình nguy ngập của Pháp ở Điện Biên Phủ, Bảo Đại lại yêu cầu Ngô Đình Diệm về nước lập chính phủ mới, nhưng ông vẫn từ chối vì Pháp chưa chịu bỏ vai trò chủ động. Cho đến khi hiệp ước Laniel-Bửu Lộc được ký kết ngày 4 tháng Sáu 1954 công nhận Việt Nam hoàn toàn độc lập,18 ông Diệm mới thấy có điều kiện thuận lợi. Ngày 16 tháng Sáu, ông nhận lời yêu cầu của Bảo Đại thành lập chính phủ với điều kiện được trao toàn quyền về chính trị và quân sự. Ngày 7 tháng Bảy (song thất), Ngô Đình Diệm chính thức cầm quyền với một nội các 18 người.19

Ngay từ những ngày đầu, chính phủ Ngô Đình Diệm đã gặp phải nhiều trở ngại quá lớn khiến không một quan sát viên nào dám tin rằng ông có thể vượt qua và tồn tại được. Chưa kịp ổn định cơ cấu chính quyền, thủ tướng Diệm đã bị tướng Nguyễn Văn Hinh, thứ trưởng Quốc phòng kiêm Tổng Tham mưu trưởng, công khai chống đối và tính chuyện đảo chánh. Lê Văn Viễn, tức Bảy Viễn, cầm đầu lực lượng Bình Xuyên, dọa tấn công bằng vũ lực nếu ông Diệm không cho tham gia chính quyền. Do sự mua chuộc các giáo phái của Hoa Kỳ,20 chưa đầy hai tháng sau ngày thành lập chính phủ. ông Diệm đã phải cải tổ chính phủ với sự tham gia của một số đại diện của Cao Đài và Hoà Hảo.21 Tuy nhiên, ông cương quyết không chấp nhận Bình Xuyên mặc dù bị áp lực của Bảo Đại. Tinh trạng bấp bênh của Ngô Đình Diệm trong thời gian đầu tiên nắm chính quyền đã được hai sử gia người Pháp Jean Lacouture và Philippe Devillers nhận xét rất đúng như sau:

Các giáo phái Cao Đài, Hoà Hảo và lực lượng Bình Xuyên đã thiết lập được những giang sơn riêng: Cao Đài kiểm soát vùng lầy Bắc, Hoà Hảo vùng Tây Nam, Bình Xuyên vùng ngoại thành Saigon. Ngay trong chính phủ, Diệm cũng phải dành chỗ cho những nhân vật của hai giáo phái. Trong hang ngũ quân đội cũng có những đơn vị của Bình Xuyên. Sau hết, quân đội viễn chinh Pháp, từng bảo vệ đắc lực những người tiền nhiệm của Diệm, đã công khai bày tỏ thái độ không ưa ông… Hơn nữa, các viên chức người Pháp đang còn nắm giữ nhiều chức vụ then chốt trong chính quyền đã không chịu tha thứ cho người kế vị hoàng thân Bửu Lộc về những phương cách đối xử không thân thiện đôi với những điều mà ông coi là “tàn tích của thực dân”. Sau hết, việc Việt Minh nắm chính quyền ở miền Bắc đã đẩy vào miền Nam hàng trăm ngàn dân tị nạn, phần đông là người Công giáo, để cho miền đất nước đã tám năm bị tàn phá vì chiến tranh và kiệt quệ về kinh tế, nay phải chịu thêm gánh nặng. Một xứ sở tan nát, ung thối, ngất ngư, đã bị kết án tử hình nhưng đang được hoãn thi hành, đó là tình trạng Việt Nam khi Ngô Đình Diệm đứng ra lèo lái.”22

Tình trạng bất ổn định vẫn tiếp tục vì Pháp không ngừng vận động Hoa Kỳ thay thế Diệm. Bảo Đại cũng theo Pháp chống Diệm, muốn đưa Nguyễn Văn Xuân ra làm Thủ tướng hoặc ít nhất cũng là Phó Thủ tướng với Nguyễn văn Hinh trở lại chức Tổng Tham mưu trưởng và Bảy Viễn làm Bộ trưởng Nội vụ. Các giáo phái cũng đi hàng hai. Trần Văn Soái đi với Diệm nhưng vẫn liên lạc và giúp đỡ Ba Cụt. Chính phủ Diệm chỉ có thể tồn tại nhờ áp lực của Hoa Kỳ đối với Pháp và Bảo Đại mặc dù chính Đặc sứ J. Lawton Collins cũng muốn thay Ngô Đình Diệm. Ngày 19.11, Hinh phải rời khỏi Việt Nam sau khi kế hoạch đảo chánh bị Lansdale phá vỡ. Khi các giáo phái Cao Đài, Hòa Hảo và lực lượng Bình Xuyên dưới danh nghĩa Mặt trận Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia ra tối hậu thư yêu cầu Diệm phải cải tổ chính phủ trước ngày 26.3.1955, Nguyễn Thành Phương và Trình Minh Thế đều có ký tên. Collins phải triệu Phương và Thế đến gặp để khiển trách và dọa cắt tiền trả lương quân đội Cao Đài. Được sự ủng hộ của Cao ủy Pháp Paul Ely, Bình Xuyên gia tăng các hoạt động đe dọa lật đổ chính phủ. Ngày 30 tháng Ba, Bình Xuyên bắt đầu những hoạt động khiêu khích như tấn công Bộ Tổng Tham Mưu và pháo kích Dinh Độc Lập. Diệm cho quân nhảy dù tấn công Tổng Nha cảnh Sát do Bình Xuyên kiểm soát. Ely cố thuyết phục Collins áp lực Diệm phải nhượng bộ nhưng Diệm vẫn cương quyết không chấp nhận Bình Xuyên. Ngày 1 tháng Tư, Collins đề nghị với Washing­ton cho tiến hành kế hoạch thay thế Diệm. Sau khi tham khảo Thượng Nghị sĩ Mansfield, ngoại trưởng Dulles chỉ thị cho Collins ủng hộ Diệm trong việc loại trừ Bình Xuyên nhưng yêu cầu ông mở rộng thành phần chính phủ, nếu không Mỹ sẽ cúp viện trợ. Collins và Ely dàn xếp được cuộc hưu chiến giữa Bình Xuyên và quân đội chính phủ.

Trước tình trạng căng thẳng và bế tắc giữa cuộc vận động chống Diệm của Pháp-Bảo Đại và lập trường không khoan nhượng của ông Diệm đối với Bình Xuyên, ngày 20 tháng Tư Collins trở về Washington để thuyết phục chính phủ thay thế Ngô Đình Diệm bằng Phan Huy Quát hay Trần Văn Đỗ. Ngày 26, ông Diệm cách chức Tổng Giám đốc cảnh sát Công an của Lại Văn Sang (Bình Xuyên) và thay thế bằng Đại tá Nguyễn Ngọc Lễ của Quân đội Quốc gia. Sang không chịu bàn giao, tuyên bố chỉ nhận lệnh của Bảo Đại. Bảo Đại cũng yêu cầu Mỹ có biện pháp trong vòng 24 tiếng đồng hồ nếu không sẽ quyết định đơn phương. Sau khi gặp Collins ngày 27.4, Dulles đồng ý gửi điện cho Sứ quán Mỹ ở Sài- J0n tiến hành kế hoạch thay thế Diệm.23 Sáng hôm sau, Lansdale gửi điện về Washington yêu cầu tiếp tục ủng hộ Diệm. Vào buổi trưa, Bình Xuyên tấn công Thành Cộng Hoà và pháo kích bằng súng cối vào Dinh Độc Lập. Cuộc chiến giữa lực lượng nổi loạn và quân đội chính phủ chính thức bắt đầu. Bảo Đại cử Nguyễn Văn Vỹ làm Tổng Tư lệnh quân đội và ra lệnh cho thủ tướng Diệm qua Pháp hội kiến. Diệm không chịu tuân hành. Lansdale gửi khẩn điện về Mỹ xác quyết là không có thủ tướng thân Pháp nào chống được cộng sản và Ngô Đình Diệm vẫn là người xứng đáng nhất. Dulles chỉ thị cho Sứ quán ở Sài-gòn hủy bỏ công điện thay thế Diệm và Tổng Thống Eisenhower triệu tập phiên họp của Hội Đồng An ninh Quốc gia. Kết quả là Hoa Kỳ quyết định tiếp tục yểm trợ miền Nam Việt Nam và chỉ trích Pháp không chịu hợp tác.

Một số tác giả cho rằng Hoa Kỳ vội vã hủy bỏ ý định thay thế Ngô Đình Diệm khi thấy ông đánh thắng được Bình Xuyên. Thật ra, Dulles chỉ ra lệnh cho Sứ quán Mỹ ngưng xúc tiến kế hoạch thay thế Diệm để chờ xem kết quả việc ông đối phó với phe nổi loạn. Chỉ đến khi Diệm đã dẹp yên được loạn quân thì Hoa Kỳ mới thực sự ủng hộ và đề cao ông như một đại lãnh tụ. Biên bản phiên họp thứ 246 của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ thuật lại lời của Ngoại trưởng Dulles như sau:

…Những khó khăn hiện thời là do hai nguyên do chính: Thứ nhất là những giới hạn của Thủ tướng Diệm với tư cách lãnh đạo một chính phủ. Trong khi Diệm có những ưu điểm đã được nhiều người biết khỏi cần phải nói tới, thực tế là ông xuất phát từ miền Bắc và ông không tin cậy ở những người khác, có thể với lý do chính đáng. Hơn nữa, ông không muốn trao quyền cho ai. Mặc dù những khuyết điểm ấy, ông Diệm lẽ ra cũng đủ sức đối phó với tình hình nếu không vì một giới hạn căn bản thứ nhì —đó là sự thiếu ủng hộ vững chắc của người Pháp. Trong khi các nhà lãnh đạo chính phủ như (Thủ tướng) Mendès France, (Tổng trưởng) Edgar Fauré và Tướng Ély đã miễn cưỡng hợp tác với Diệm, thì những viên chức thuộc địa Pháp tại Việt Nam đã làm đủ mọi cách để phá hoại ông. Hai giới hạn chính yếu này đã đem lại một tình trạng khiến Tướng Collins phải kết luận là chúng ta cần phải tìm người thay thế Diệm.

Thật ra, chúng ta từ lâu nay đã nói với người Pháp là chúng ta sẵn sàng xem xét việc thay thế Diệm nếu họ có thể kiếm được một người. Họ vẫn chưa làm được việc ấy….

Chiều hôm qua, chúng tôi ở Bộ Ngoại giao đã gửi đi một loạt công điện phức tạp phác thảo những phương cách thay Diệm và chính phủ của ông. Tuy nhiên, vì những biến chuyển và vụ bùng nổ tối hôm qua, chúng tôi đã chỉ thị cho nhân viên Sứ quán ở Sài-gòn hoãn thi hành kế họach thay Diệm. Những biến chuyển trong đêm qua có thể đưa tới việc ông Diệm bị lật đổ hoặc ông sẽ ra khỏi cuộc hỗn loạn như một đại anh hùng. Vì thế chúng ta đang chờ xem kết quả trước khi tính đến việc quyết định ông Quát hay ông Đỗ sẽ là người thay thế.24 (cách viết nghiêng được thêm vào)

Ngày 29.4, thủ tướng Diệm triệu tập một phiên họp với các nhân sĩ chính khách và đại diện 18 đoàn thể tại Dinh Độc Lập tham khảo ý kiến về tình hình chính trị trong nước và mệnh lệnh của Bảo Đại đòi ông sang Pháp. Ngày hôm sau, hơn hai trăm đại diện đoàn thể họp tại toà Đô chính Sài-gòn do lời mời của Nguyễn Bảo Toàn (Việt Nam Dân Xã Đảng), Hồ Hán Sơn (Việt Nam Phục Quốc Hội) và Nhị Lang (Mặt Trận Quốc Gia Kháng Chiến Việt Nam). Hội nghị thành lập Hội Đồng Nhân Dân Cách Mạng Quốc Gia, ra tuyên ngôn đòi truất phế Bảo Đại và yêu cầu Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới để dẹp loạn Bình Xuyên, thu hồi độc lập hoàn toàn, đòi Pháp rút hết quân về nước và tổ chức bầu cử Quốc Hội.

Ngày 30.4, Quân đội Quốc gia tiến đánh căn cứ chính của Bình Xuyên ở bên kia cầu chữ Y. Sau ba ngày chống cự, Bình Xuyên phải bỏ Sàigòn-Chợ Lớn và rút về cố thủ ở Rừng Sát. Đám tàn quân này hoàn toàn tan rã vào tháng Chín khi quân quốc gia do Đại tá Dương Văn Minh chỉ huy mở chiến dịch Hoàng Diệu càn quét Rừng Sát. Bảy Viễn phải chạy trốn sang Cam-bốt rồi sang Pháp. Sau chiến dịch này, Dương Văn Minh được thăng chức Thiếu tướng. Đầu tháng Sáu, quân quốc gia lại mở chiến địch Đinh Tiên Hoàng tấn công bản doanh của lực lượng Hoà Hảo ở Cái vồn và Thốt Nốt, Long Xuyên. Trần Văn Soái (Năm Lửa) và Lê Quang Vinh (Ba Cụt) phải bỏ chạy sang Cam-bốt.

Những cố gắng tuyệt vọng của Pháp chống Diệm trong quyết định tiêu diệt Bình Xuyên và cưỡng lệnh của Bảo Đại càng làm cho Hoa Kỳ ủng hộ Diệm mạnh hơn. Ngày 10 tháng Năm, ông Diệm cải tổ chính phủ, cắt bớt một số Bộ và giảm thành phần nội các từ 22 người xuống 14, phần lớn là chuvên gia.25 Cuối tháng Năm, Hoa Kỳ cử Frederick Reinhardt làm Đại sứ thay thế Collins. Đầu tháng Sáu, tướng Ely cũng về Pháp, tướng Jacquot lên thay. Phong trào chống Bảo Đại được phát động mạnh mẽ trong khi Ngô Đình Diệm bác bỏ lời yêu cầu của Phạm Văn Đồng và Hồ Chí Minh mở hội nghị hiệp thương để thảo luận về tổng tuyển cử thống nhất đất nước. Ngày 23 tháng Mười, một cuộc Trưng cầu Dân ý được tổ chức để dân chúng miền Nam lựa chọn theo Bảo Đại hay Ngô Đình Diệm. Khi đó Bảo Đại đã trở lại thân Pháp và đang ủng hộ Bình Xuyên, do đó chắc chắn là ông phải thất bại vì đã mất hết tín nhiệm trong dân chúng. Tuy nhiên, ban tổ chức trưng cầu dân ý đã sắp đặt cho việc thắng cử của Ngô Đình Diệm quá bảo đảm đến độ ông được tới 98.2 phần trăm phiếu trong khi Bảo Đại chỉ được 1.1 phần trăm. Bằng chứng gian lận lộ liễu nhất là ở nhiều nơi số phiếu ủng hộ ông Diệm nhiều hơn số cử tri. Chẳng hạn riêng vùng Sàigòn-Chợ Lớn có 450,000 cử tri ghi danh mà số phiếu bầu lên tới 605,025.

Ngày 26 tháng Mười, Thủ tướng Ngô Đình Diệm trở thành Tổng thống đầu tiên của miền Nam, quốc hiệu là Việt Nam Cộng Hòa

Trích từ sách :  Việt Nam 1945-1995

Nguồn bài đăng 

0