Chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa
Nguyễn Hòa Báo Quân đội nhân dân Lý sự cùn của Trung Quốc Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 26-5-2014, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương chủ trì buổi họp báo đã phát biểu: “Sau khi xem xét những nội dung có liên quan ...
Nguyễn Hòa
Báo Quân đội nhân dân
Lý sự cùn của Trung Quốc
Tại buổi họp báo thường kỳ của Bộ Ngoại giao Trung Quốc ngày 26-5-2014, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương chủ trì buổi họp báo đã phát biểu: “Sau khi xem xét những nội dung có liên quan trong buổi họp báo do Bộ Ngoại giao Việt Nam tổ chức hôm thứ sáu tuần trước (ngày 23-5), tôi thấy thật hoang đường và tức cười. Phần lớn những bằng chứng lịch sử chỉ rõ, quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa của Việt Nam-PV) từ xưa đến nay là lãnh thổ cố hữu của Trung Quốc, người Trung Quốc đã phát hiện và đặt tên đồng thời thực hiện hoạt động kinh doanh, tiến hành quản lý cũng như thực hiện chủ quyền sớm nhất ở đây. Người Trung Quốc là người chủ của quần đảo Hoàng Sa”.
Ông Tần còn nói: Ngay từ thế kỷ thứ II trước Công nguyên, tức thời nhà Hán, người Trung Quốc đã tiến hành hoạt động hàng hải ở Biển Đông và phát hiện ra quần đảo Hoàng Sa. Sau đó, người Trung Quốc lần lượt đến quần đảo Hoàng Sa khai thác, kinh doanh. Tài liệu lịch sử chứng minh từ thời nhà Đường, Tống, người Trung Quốc đã tiến hành hoạt động đánh bắt ở quần đảo Hoàng Sa. Hải quân thời Bắc Tống đã tiến hành quản lý có hiệu quả ở quần đảo Hoàng Sa. Nhà thiên văn học nổi tiếng thời nhà Nguyên Quách Thủ Kính đã lập điểm thiên văn ở quần đảo Hoàng Sa. Điều đó chứng minh quần đảo Hoàng Sa khi đó đã là nằm trong lãnh thổ của Trung Quốc.
Trong một bài viết của ông Dương Trạch Vỹ, Giáo sư, Tiến sĩ Luật học, công tác tại Viện Nghiên cứu Luật quốc tế, Đại học Vũ Hán, cũng hết sức vô lý khi đưa ra quan điểm tương tự như trên.
Để làm rõ sự sai trái của nhà chức trách cũng như học giả phía Trung Quốc, phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã có cuộc trao đổi với Tiến sĩ Trần Công Trục, nguyên Trưởng ban Biên giới Chính phủ.
Trung Quốc sai hoàn toàn
Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Phía Trung Quốc sai hoàn toàn. Tại sao lại nói như vậy? “Việc Trung Quốc nói họ có những chứng cứ lịch sử với Tây Sa, Nam Sa thậm chí cả Trung Sa và Đông Sa có từ thời kỳ cổ đại, ngay từ thời kỳ trước Công nguyên, đối với tôi và nhiều học giả khác cũng như dư luận đã từng nghe nhiều lần về điều này. Chúng tôi cũng từng có những phân tích, đánh giá rất kỹ về vấn đề này. Một lần nữa, tôi xin nhấn mạnh lại ý kiến của tôi, Trung Quốc đã dựa vào một nguyên tắc gọi là chủ quyền lịch sử, danh nghĩa lịch sử với các đảo mà họ gọi là Tây Sa, Nam Sa, Đông Sa, Trung Sa. Họ đã khai thác hết tất cả các yếu tố lịch sử được ghi nhận trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc để họ nói rằng, người Trung Quốc đã xuống Biển Đông và khu vực các đảo này, chính họ là người phát hiện ra, đã khai phá, đã làm ăn và sau đó là quản lý, đồng thời rêu rao cái gọi là thực hiện chủ quyền của Trung Quốc với các đảo này. Để có thể phân tích rõ luận thuyết đó của Trung Quốc trong việc chứng minh quyền thụ đắc lãnh thổ trong luật pháp quốc tế, có giá trị hay không, có giá trị đến mức nào, chúng ta cần xem xét dựa trên những nguyên tắc, luật pháp quốc tế trong việc giải quyết các khu vực lãnh thổ có tranh chấp.
Trong Biển Đông có các quần đảo, trong đó có hai quần đảo của Việt Nam là Hoàng Sa và Trường Sa. Tôi xin khẳng định rõ ràng, các quần đảo này thuộc chủ quyền của Việt Nam. Trung Quốc đã nhảy vào tranh chấp, chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bằng vũ lực”.
“Luận điểm mà Trung Quốc đưa ra để biện minh cho quan điểm của mình sau khi dùng vũ lực chiếm Hoàng Sa của Việt Nam dựa vào cái gọi là thuyết chủ quyền lịch sử”-Tiến sĩ Trục cho biết.
Để khẳng định và bảo vệ cho yêu sách của mình, các bên đã dựa vào những nguyên tắc pháp lý như sau: Chiếm hữu thật sự; chủ quyền lịch sử; khoảng cách địa lý.
“Trung Quốc đang dùng luận thuyết chủ quyền lịch sử để chứng minh chủ quyền. Đây là một luận thuyết vô cùng lạc hậu, không được luật pháp quốc tế dùng để xử lý các tranh chấp về thụ đắc lãnh thổ đối với các quần đảo”, Tiến sĩ Trục chỉ rõ.
Theo Tiến sĩ Trần Công Trục, tại thời điểm hiện nay, để đánh giá một cách khách quan, khoa học đối với các quan điểm pháp lý do các bên tranh chấp chủ quyền nêu ra, chúng ta cần đề cập đến một số nội dung chủ yếu của nguyên tắc xác định quyền thụ đắc lãnh thổ quốc gia trong pháp luật quốc tế.
Ông Trục nêu rõ: Trong lịch sử phát triển lâu dài của pháp luật quốc tế, những nguyên tắc và quy phạm pháp luật xác lập chủ quyền lãnh thổ đã được hình thành trên cơ sở thực tiễn quốc tế, trong đó có các phương thức thụ đắc lãnh thổ. Từ thế kỷ XVI, sự phát triển và lớn mạnh khiến các nước như Hà Lan, Anh, Pháp… trở thành những cường quốc cạnh tranh với các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha mà theo Sắc lệnh của Giáo hoàng Alexandre VI ký ngày 4-5-1493 đã phân chia khu vực ảnh hưởng cho 2 nước này ở các phạm vi lãnh thổ mới phát hiện ngoài châu Âu.
Trước thực trạng đó, các cường quốc hàng hải đã tìm ra nguyên tắc pháp lý áp dụng cho việc thụ đắc lãnh thổ đối với những vùng lãnh thổ mà họ mới phát hiện. Đó là nguyên tắc “quyền ưu tiên chiếm hữu”, hay còn được gọi là nguyên tắc “quyền phát hiện”. Nguyên tắc này dành quyền ưu tiên chiếm hữu một vùng lãnh thổ cho một quốc gia nào đã phát hiện vùng lãnh thổ đó đầu tiên. Tuy nhiên, trên thực tế, nguyên tắc quyền phát hiện chưa bao giờ tự nó đem lại chủ quyền quốc gia cho quốc gia đã phát hiện ra vùng lãnh thổ mới đó. Bởi vì, người ta không thể xác định được thế nào là phát hiện, giá trị pháp lý của việc phát hiện, ai là người phát hiện trước, lấy gì để ghi dấu hành vi phát hiện đó…Vì thế, việc phát hiện đã nhanh chóng được bổ sung bằng việc chiếm hữu trên danh nghĩa, nghĩa là quốc gia phát hiện ra một vùng lãnh thổ phải để lại dấu tích trên vùng lãnh thổ mới phát hiện ra đó.
Mặc dù vậy, nguyên tắc chiếm hữu danh nghĩa không những không thể giải quyết được một cách cơ bản những tranh chấp phức tạp giữa các cường quốc đối với các vùng “đất hứa”, đặc biệt là những vùng lãnh thổ thuộc châu Phi và các hải đảo nằm cách xa đất liền hàng ngàn, hàng vạn hải lý…, mà còn ngày càng dẫn đến những đối đầu quyết liệt hơn giữa các cường quốc, vì người ta không thể lý giải được cụ thể cái “danh nghĩa” đã được lập ra bao giờ và tồn tại như thế nào …
Vì vậy, sau Hội nghị về châu Phi năm 1885 của 13 nước châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt, sau khóa họp của Viện Pháp luật quốc tế ở Lausanne (Thụy Sĩ) năm 1888, người ta đã thống nhất áp dụng một nguyên tắc thụ đắc mới. Đó là nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”.
Nguyên tắc “Chiếm hữu thật sự”
Điều 3, Điều 34 và Điều 35 của Định ước Berlin ký ngày 26-6-1885 đã xác định nội dung của nguyên tắc chiếm hữu thật sự và các điều kiện chủ yếu để có việc chiếm hữu thật sự như sau:
Thứ nhất: Phải có thông báo về việc chiếm hữu cho các quốc gia ký Định ước nói trên.
Thứ hai: Phải duy trì trên vùng lãnh thổ mà nước đã thực hiện hành vi chiếm hữu trên vùng lãnh thổ ấy một quyền lực đủ để khiến cho các quyền của nước chiếm hữu được tôn trọng…
Theo Tiến sĩ Trục, Tuyên bố của Viện Pháp luật quốc tế Lausanne năm 1888 đã nhấn mạnh: “…mọi sự chiếm hữu muốn tạo nên danh nghĩa chủ quyền… thì phải là thật sự, tức là thực tế, không phải là danh nghĩa”. Chính Tuyên bố này đã khiến cho nguyên tắc chiếm hữu thực sự của Định ước Berlin có giá trị phổ biến trong luật pháp quốc tế để xem xét, giải quyết các tranh chấp chủ quyền lãnh thổ giữa các quốc gia trên thế giới.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc chiếm hữu thật sự trong luật pháp quốc tế được Tiến sĩ Trục chỉ ra gồm các yếu tố:
Một: Việc xác lập chủ quyền lãnh thổ phải do nhà nước tiến hành.
Hai: Sự chiếm hữu phải được tiến hành một cách hòa bình trên một vùng lãnh thổ vô chủ (Res Nullius) hoặc là trên một vùng lãnh thổ đã bị từ bỏ bởi một quốc gia đã làm chủ nó trước đó (derelicto).
Ba: Việc sử dụng vũ lực để xâm chiếm là hành động phi pháp. Quốc gia chiếm hữu phải thực thi chủ quyền của mình ở những mức độ cần thiết, tối thiểu thích hợp với các điều kiện tự nhiên và dân cư trên vùng lãnh thổ đó.
Bốn: Việc thực thi chủ quyền phải liên tục, hòa bình.
Do tính hợp lý và chặt chẽ của nguyên tắc này, nên, mặc dù Công ước Saint Germain ngày 10-9-1919 tuyên bố hủy bỏ Định ước Berlin 1885 vì lý do thế giới không còn lãnh thổ vô chủ nữa, các luật gia và các Cơ quan tài phán quốc tế vẫn vận dụng nguyên tắc này để giải quyết các tranh chấp chủ quyền trên các hải đảo. Chẳng hạn Tòa án trọng tài thường trực quốc tế La Haye tháng 4-1928 đã vận dụng nguyên tắc này để xử vụ tranh chấp đảo Palmas giữa Mỹ và Hà Lan, Phán quyết của Tòa án quốc tế của LHQ tháng 11-1953 đối với vụ tranh chấp chủ quyền giữa Anh và Pháp về các đảo Minquiers và Ecrehous…..
Gần đây hơn, Tòa án công lý quốc tế đã quyết định cho Ma-lai-xi-a thắng trong vụ kiện với In-đô-nê-xi-a vào tháng 12-2002 về chủ quyền đối với Pulau Ligitan và Pulau Sipadan vì tòa nhận thấy rằng Ma-lai-xi-a đã thực hiện một cách thường xuyên một loạt các hoạt động của nhà nước.
“Chủ quyền lịch sử” không phải để chứng minh chủ quyền
Căn cứ vào nguyên tắc pháp lý trên, đối chiếu với quá trình xác lập và thực thi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, để phản bác quan điểm mà phía Trung Quốc đưa ra, Tiến sĩ Trần Công Trục nhấn mạnh: Trước hết, Trung Quốc đã và đang tìm mọi cách viện dẫn nhiều sách, tài liệu địa lý, lịch sử để chứng minh và bảo vệ cho quan điểm pháp lý về quá trình xác lập và thực thi cái gọi là “chủ quyền lịch sử” của Trung Quốc đối với “Tây Sa” và “Nam Sa” (tức Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam-PV).
Những nội dung lịch sử, địa lý… mà phía Trung Quốc thường xuyên tuyên truyền trên mọi phương tiện, mọi lúc, mọi nơi thực hư như thế nào? Giá trị của chúng đến đâu? Trao đổi với phóng viên Báo QĐND, ông Trục cho biết: Qua nghiên cứu thấy rằng, đúng là các đảo này đã được ghi nhận và mô tả trong đó, nhưng chúng chỉ dừng lại ở việc ghi chép những hiểu biết của người Trung Quốc đương thời về địa lý, lịch sử, phong tục… các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Á cùng đường hàng hải từ Trung Quốc ra nước ngoài, mà không có bất kỳ sự ghi chép nào về việc Nhà nước Trung Quốc đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền và việc người dân Trung Quốc “đến hai quần đảo (Hoàng Sa và Trường Sa) để đi biển và sản xuất”. Các tác phẩm đó chỉ được xem như các tài liệu chứng minh sự hiểu biết chung về các địa điểm chứ không có ý nghĩa đáng kể trong pháp lý. Vì vậy, việc Trung Quốc qua đó mà viện dẫn, nói quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa thuộc chủ quyền của Trung Quốc là không có cơ sở.
Tiến sĩ Trục chỉ rõ các tư liệu đã chứng minh sự sai trái, ngộ nhận từ phía Trung Quốc như: Nam Châu dị vật chí của Vạn Chấn (thời Tam Quốc, 220-265) viết dưới triều Hán Vũ Đế là cuốn sách hướng dẫn hàng hải trong Biển Đông nhưng rất không chính xác, không thể căn cứ vào đó để xác minh được quần đảo này hay quần đảo khác trong số hai quần đảo ngày nay đang bị tranh chấp.
Phù Nam truyện của Khang Thái viết cùng thời kỳ này ghi nhận rằng, đã gặp trong Trướng Hải các đảo san hô và khẳng định đây là những mô tả về quần đảo Trường Sa. Tuy nhiên, đoạn trích này rất mơ hồ, rất thiếu chính xác, không thể căn cứ vào đó để nói rằng, đó chính là Trường Sa.
Các tác phẩm khác như Lĩnh ngoại đại đáp của Chu Khứ Phi (đời Tống, 1178), Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát (đời Tống, 1225), Đảo di chí lược của Vương Đại Uyên (đời Nguyên, 1349), Đông Tây dương khảo của Trương Nhiếp (1618), Vũ bị chí của Mao Nguyên Nghi (1628), Hải quốc văn kiến lục viết dưới đời Thanh, Hải Lục của Vương Bính Nam (1820), Hải quốc đồ chí của Ngụy Nguyên (1848) và Doanh hoàn chí lược của Bành Ôn Chương (1848),… là một tập hợp các tác phẩm liên quan đến các chuyến đi, các chuyến khảo cứu địa lý, sách hàng hải liên quan tới các nước bên ngoài Trung Quốc.
Để làm rõ hơn vấn đề này, ông Trục chỉ ra một nghiên cứu của nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, Ủy viên Ban chấp hành Hội Sử học Việt Nam cho rằng, thật khó có thể chấp nhận với các tác giả Trung Quốc khi họ rút ra từ đó kết luận: Hoàng Sa, Trường Sa từ lâu đã là lãnh thổ của Trung Quốc: “Bản đồ cổ của Trung Hoa vẽ về Việt Nam vào khoảng đầu thế kỷ XV ghi rõ địa điểm của Việt Nam là Giao chỉ quốc, nước Giao chỉ và biển thì ghi rõ là Giao chỉ dương, tức là ghi rõ đất liền là Giao chỉ quốc và biển là biển của Giao chỉ.
Hàng trăm bản đồ quốc tế khác cũng đều chỉ rõ Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam. Tất cả đều rất thống nhất với nhau.
Chỉ rõ sự sai trái, biện minh vô lý của ông Dương Trạch Vỹ, Tiến sĩ Trục cho biết thêm: Trong các tài liệu, tư liệu mà Trung Quốc đưa ra để chứng minh chủ quyền từ lâu đời của mình đối với hai quần đảo này, có đề cập việc dưới thời Bắc Tống (thế kỷ thứ X-XII), các cuộc tuần tra quân sự của nước này đã được tổ chức, xuất phát từ Quảng Đông đi tới Hoàng Sa, rồi kết luận rằng “triều đình Bắc Tống đã đặt quần đảo Tây Sa vào phạm vi cai quản của mình”, “hải quân Trung Quốc đã đi tuần tra đến vùng quần đảo Tây Sa”. “Tuy nhiên, khi phân tích kỹ dữ liệu này thấy rằng, đó không phải là cuộc tuần tra mà chỉ là chuyến thăm dò địa lý cho tới tận Ấn Độ Dương, không minh chứng một sự chiếm hữu nào”, ông Trục khẳng định.
Ông Trục cũng chỉ rõ sai trái của chính quyền Trung Quốc hiện thời, đó là việc Bộ Ngoại giao Trung Quốc dẫn sự kiện đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên ở “Nam Hải” để nói rằng “quần đảo Tây Sa đã nằm trong cương vực Trung Quốc đời Nguyên”.
Về điều này, ông Trục lý giải: Theo Nguyên Sử, bộ sử chính thức của nhà Nguyên, việc đo đạc thiên văn đầu đời Nguyên được ghi chép như sau: “Việc đo bóng mặt trời bốn biển ở hai mươi bảy nơi, phía Đông đến Cao Ly, phía Tây đến Điền Trì, phía Nam qua Chu Nhai, phía Bắc đến Thiết Lặc”. Dưới đầu đề “đo đạc bốn biển”, Nguyên Sử chép rõ tên hai mươi bảy nơi đo đạc trong đó có Cao Ly, Thiết Lặc, Bắc Hải, Nam Hải.
Từ sự ghi chép trong Nguyên Sử, thấy rõ việc đo đạc thiên văn ở hai mươi bảy nơi không phải là “đo đạc toàn quốc” như văn kiện của Bắc Kinh nói mà là “đo đạc bốn biển”, cho nên mới có cả một số nơi ngoài “cương vực Trung Quốc” như Cao Ly (nay là Triều Tiên), Thiết Lặc (nay thuộc vùng Xi-bê-ri của Nga), Bắc Hải (nay là vùng biển phía bắc Xi-bê-ri), Nam Hải tức Biển Đông. Mặt khác, chính Nguyên Sử cũng đã nói rõ “cương vực” Trung Quốc đời Nguyên, phía Nam chỉ đến đảo Hải Nam.
Cuối cùng, người Trung Quốc đưa ra các tài liệu về một cuộc tuần biển được tổ chức trong khoảng các năm 1710-1712 dưới triều nhà Thanh. Ngô Thăng, Phó tướng thủy quân Quảng Đông đã chỉ huy chuyến đi này. Người Trung Quốc khẳng định đã đi qua vùng biển tương ứng với vùng biển của quần đảo Hoàng Sa và kết luận rằng, vùng biển này “lúc đó do hải quân tỉnh Quảng Đông phụ trách tuần tiễu”. Tuy nhiên, nếu dõi theo hành trình này trên bản đồ, dễ dàng nhận xét rằng, đó chỉ là một con đường đi vòng quanh đảo Hải Nam chứ không phải là hành trình tới các biển xa. Đoạn văn viết: “Từ Quỳnh Nhai, qua Đồng Cổ, Thất Châu Dương, Tứ Canh Sa, vòng quanh ba ngàn dặm”. Xin được chú thích cho rõ các địa danh này: Quỳnh Nhai gần thị trấn Hải Khẩu ngày nay, phía Bắc đảo Hải Nam; Đồng Cổ ở mỏm Đông Bắc đảo Hải Nam; Thất Châu Dương là vùng biển có 7 hòn đảo gọi là Thất Châu nằm ở phía Đông đảo Hải Nam; Tứ Canh Sa là bãi cát ở phía Tây đảo Hải Nam.
Quan trọng hơn, ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho rằng, những tài liệu do phía Trung Quốc đưa ra không có tính pháp lý: “Thời xưa, Trung Quốc có những nhà du hành, hàng hải, những thương thuyền, họ đi giao thiệp về chuyện buôn bán thì trong quá trình đi, họ nhìn thấy những vùng đảo, ghi chép thì đó là dạng sách du ký. Đó là những tài liệu không có tính pháp lý. Trung Quốc thường dựa vào các sách đó để nói rằng, nước này đã từng biết đến đảo này, chứ không phải tài liệu chính thống của Trung Quốc. Việc xác lập chủ quyền thì những điều được biên chép phải nằm trong chính sử hoặc trong sách mà bây giờ gọi là địa chí, Trung Quốc gọi là phương chí – đó là những phương tiện được Nhà nước thừa nhận”.
Xem xét tất cả các tư liệu, tài liệu trên đã thấy rõ ràng, Trung Quốc không phải là quốc gia đầu tiên kiểm soát thực sự các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa vì nó thiếu hẳn các yêu cầu mà luật quốc tế thời đó đòi hỏi.
“Cần biết thêm rằng, từ thế kỷ thứ XVI đến thế kỷ thứ XVII đã có sự phân biệt rất rõ ràng giữa phát hiện thăm dò (discover) và phát hiện chiếm hữu (to find). Năm 1523, Vua Charles V đã nhắc nhở Đại sứ của mình, ông Juan de Zunigo rằng, một lãnh thổ mà các tàu thuyền của Vương quốc Bồ Đào Nha gặp trên đường đi thì không thể được coi là đã mang lại cho họ một danh nghĩa trên lãnh thổ đó vì nó thiếu một hành vi chiếm hữu”, Tiến sĩ Trục viện dẫn các ví dụ thực tế để chứng minh rõ những đòi hỏi phi lý, sai trái của Trung Quốc.
Hoàng Sa, Trường Sa chưa từng thuộc về Trung Quốc
Để bác lại các quan điểm trong tuyên bố của Bộ Ngoại giao và các học giả Trung Quốc, từ rất lâu, Tiến sĩ Trần Công Trục và các học giả Việt Nam đã dày công nghiên cứu về sự sai trái, các tham vọng của Trung Quốc. Ông Trục chỉ rõ, tham vọng của Trung Quốc đang mâu thuẫn bởi chính các nguồn tư liệu của nước này.
Theo đó, có nhiều tài liệu địa lý cổ mô tả và nói rõ lãnh thổ của nước này có điểm tận cùng ở phía Nam là đảo Hải Nam. Trong đó, đáng chú ý là cuốn Địa chí phủ Quỳnh Châu cũng như cuốn Địa chí tỉnh Quảng Đông năm 1731. Điều này cũng được ghi trong Hoàng triều nhất thống Dư địa tổng đồ, phát hành năm 1894. Ngoài ra, quyển sách Trung Quốc Địa lý học giáo khoa thư, phát hành năm 1906 nêu ở trang 241 rằng: “điểm cực Nam của Trung Quốc là bờ biển Nhai Châu đảo Quỳnh Châu, ở vĩ tuyến 18o13’ Bắc”.
Ông Phạm Hoàng Quân, nhà nghiên cứu độc lập chuyên về cổ sử và cổ địa dư Trung Quốc cho biết: “Từ đời Hán đến đời Thanh đều có những bộ chính sử của triều đại, các mục địa lý chí nhưng chưa từng biên chép gì về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đó là điểm để người ta nhận ra rằng, Trung Quốc chưa từng xem nó thuộc về phần đất của họ. Các phần địa lý chí đều có mục xác nhận đơn vị hành chính nước này đến huyện Nhai, phủ Quỳnh Châu, tức là đảo Hải Nam”.
Tiến sĩ Trục hết sức tâm đắc với nhận xét của bà Monique Chemillier Gendreau, giáo sư công pháp và khoa học chính trị ở Trường Đại học Paris VII Denis Diderot, nguyên Chủ tịch Hội luật gia dân chủ Pháp, nguyên Chủ tịch Hội luật gia châu Âu, rằng: Người Trung Quốc cách đây khá lâu đã biết ở Biển Đông có nhiều đảo mọc rải rác nhưng chúng không đủ làm cơ sở pháp lý để bảo vệ cho lập luận rằng, Trung Quốc là nước đầu tiên phát hiện, khai phá, khai thác và quản lý hai quần đảo này.
Ông Trục cũng nhấn mạnh, không chỉ thế giới, mà chính người Trung Quốc chân chính cũng đưa ra nhận xét về “chủ quyền lịch sử” Trung Quốc. Giáo sư Lý Lệnh Hoa ở Trung tâm Thông tin hải dương Trung Quốc, có bút danh là “Bao Phác Tiên Nhân”, khi nói đến sự sai trái, trái pháp luật quốc tế từ phía Trung Quốc cũng nhấn mạnh: “Chúng ta thường thích nói một câu là: Từ xưa đến nay thế này thế nọ, có lúc hứng lên còn thêm vào hai chữ “thiêng liêng”. Đó chính là cái gọi là chứng cứ lịch sử…, nhưng chứng cứ đó có ý nghĩa ngày càng nhỏ trong luật quốc tế hiện đại…, chứng cứ thật sự có sức thuyết phục chính là sự kiểm soát thực sự. Anh nói chỗ đó của anh, vậy anh đã từng quản lý nó chưa, người ở đó có phục tùng sự quản lý của anh không, có phải người khác không có ý kiến gì không? Nếu đáp án của những câu hỏi này đều là “có” thì anh thắng là điều chắc chắn. Ở Nam Sa, chúng ta không có được điều đó”.
Câu hỏi của Giáo sư Lý Lệnh Hoa chắc hẳn sẽ khiến nhà chức trách Trung Quốc rất khó trả lời.
Không ai có thể thay đổi sự thật
Vậy nguyên tắc pháp lý mà Việt Nam dựa vào để chứng minh và khẳng định Việt Nam hoàn toàn có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa là gì? Có phù hợp với luật pháp quốc tế không?
Tiến sĩ Trục cho biết: “Việt Nam hoàn toàn đúng. Phương thức thụ đắc lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là theo nguyên tắc chiếm hữu thật sự. Việt Nam đã chính thức tuyên bố rằng: Nhà nước Việt Nam là nhà nước đầu tiên trong lịch sử đã chiếm hữu và thực thi chủ quyền của mình đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa, khi chúng còn là đất vô chủ, ít nhất là từ thế kỷ XVII. Việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền này là thật sự, liên tục, hòa bình và rõ ràng. Việt Nam hoàn toàn có cơ sở pháp lý và chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý để khẳng định và bảo vệ chủ quyền hợp pháp của mình, đáp ứng đủ những điều kiện mà nguyên tắc chiếm hữu thật sự đòi hỏi”.
Tiến sĩ Trục khẳng định: Nhà nước phong kiến Việt Nam suốt trong 3 thế kỷ, từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX, trải qua 3 triều đại khác nhau, đều đã thực hiện sứ mệnh thiêng liêng của mình, với tư cách là Nhà nước Đại Việt, tiến hành chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa:
Trước tiên, Nhà nước Đại Việt thời chúa Nguyễn. Chứng cứ lịch sử có giá trị pháp lý chứng minh việc chiếm hữu và thực thi chủ quyền Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa là sự ra đời và hoạt động thường xuyên, liên tục của Đội Hoàng Sa, một tổ chức do nhà nước lập ra để đi quản lý, bảo vệ, khai thác hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Đội Hoàng Sa, về sau lập thêm Đội Bắc Hải do Đội Hoàng Sa kiêm quản, đã hoạt động theo lệnh của 7 đời chúa, từ chúa Nguyễn Phúc Lan hay Nguyễn Phúc Tần cho đến khi phong trào Tây Sơn nổi dậy.
Nhà nước Đại Việt thời Tây Sơn: Trong thời gian từ năm 1771 đến 1801, gần như lúc nào cũng có chiến tranh, trên đất liền cũng như ngoài Biển Đông. Tuy nhiên, các lực lượng của Chúa Nguyễn, Chúa Trịnh, Tây Sơn đã làm chủ được từng khu vực lãnh thổ thuộc phạm vi quản lý của mình. Từ năm 1773, Tây Sơn chiếm được cảng Quy Nhơn, tiến về phía Quảng Nam, kiểm soát đến Bình Sơn, Quảng Ngãi, nơi có cửa biển Sa Kỳ và Cù lao Ré, căn cứ xuất phát của Đội Hoàng Sa.
Năm 1775, Phường Cù lao Ré thuộc xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi đã nộp đơn xin cho phép Đội Hoàng Sa và Đội Quế Hương hoạt động trở lại theo thông lệ. Năm 1778, Nguyễn Nhạc xưng Hoàng đế, chính quyền Tây Sơn được củng cố một cách hoàn chỉnh và năm 1786, đã ra quyết định sai phái Hội Đức hầu, cai đội Hoàng Sa, chỉ huy 4 chiếc thuyền câu vượt biển ra Hoàng Sa làm nhiệm vụ như cũ. Ngoài ra còn có các đội Quế Hương, Đại Mạo, Hải Ba cũng được giao nhiệm vụ hoạt động trong Biển Đông.
Nhà nước Việt Nam thời nhà Nguyễn tiếp tục sử dụng Đội Hoàng Sa, Đội Bắc Hải làm nhiệm vụ khai thác và bảo vệ hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Tháng 7-1803, vua Gia Long cho lập lại Đội Hoàng Sa: Lấy cai cơ Võ Văn Phú làm thủ ngự cửa biển Sa Kỳ, sai mộ dân ngoại tịch lập làm Đội Hoàng Sa (theo Đại Nam Thực lục chính biên đệ nhất kỷ, quyển 12). Tháng Giêng năm Ất Hợi (1815) vua Gia Long quyết định: Sai Phạm Quang Ảnh thuộc Đội Hoàng Sa ra Hoàng Sa xem xét đo đạc thủy trình…(Đại Nam thực lục chính biên đệ nhất kỷ, q.50, tờ 6a).
Sang đời Minh Mạng, việc đo đạc thủy trình chủ yếu giao cho thủy quân thực hiện… Những năm 1833, 1834, 1836, vua Minh Mạng đã chỉ thị cho Bộ Công phái người ra Hoàng Sa để dựng bia chủ quyền, đo đạc thủy trình, vẽ bản đồ…: Mỗi thuyền vãng thám Hoàng Sa phải đem theo 10 tấm bài gỗ dài 4, 5 thước, rộng 5 tấc. Vua Minh Mạng đã chuẩn y lời tâu của Bộ Công sai suất đội thủy quân Phạm Hữu Nhật đưa binh thuyền đi, đem theo 10 cái bài gỗ dựng làm dấu mốc…
Tiến sĩ Trục khẳng định, như vậy là suốt từ thời chúa Nguyễn đến thời nhà Nguyễn, Đội Hoàng Sa, kiêm quản Đội Bắc Hải, đã đi làm nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa. Những hoạt động này đã được các văn bản nhà nước ghi nhận, như: Châu bản của triều đình nhà Nguyễn, các văn bản của chính quyền địa phương như tờ lệnh, tờ tư, bằng cấp… hiện đang được lưu trữ tại các cơ quan lưu trữ nhà nước.
Cũng theo sự phân tích của ông Trục, trong giai đoạn lịch sử này, có một chứng cứ hết sức quan trọng không thể không đề cập đến khi chứng minh nhà nước phong kiến Việt Nam đã quản lý thật sự, hiệu quả đối với hai quần đảo này, đó là việc tổ chức đơn vị hành chính của Hoàng Sa trong hệ thống tổ chức hành chính của nhà nước lúc bấy giờ. Thời chúa Nguyễn, Hoàng Sa thuộc Thừa tuyên Quảng Nam hay Quảng Nghĩa (Ngãi), lúc là phủ, khi thì là trấn.
Không chứng minh được bằng pháp lý thì sử dụng sức mạnh
Sự thật là Trung Quốc đã dùng vũ lực để xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Năm 1956, lợi dụng sau hội nghị Geneve, hai miền Nam – Bắc Việt Nam cần một khoảng thời gian để luân chuyển quyền quản lý, Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm nhóm đảo phía Đông của quần đảo Hoàng Sa.
Năm 1974, lợi dụng thời điểm Mỹ rút khỏi miền Nam Việt Nam, quân đội Việt Nam Cộng hòa đang trên đà suy sụp, sự quản lý đối với khu vực Hoàng Sa bị yếu đi, Trung Quốc sử dụng không quân, hải quân đánh chiếm nốt cụm phía Tây quần đảo Hoàng Sa, hoàn thành việc chiếm đóng, biến nó trở thành một căn cứ làm bàn đạp tiến tiếp xuống phía Nam.
Năm 1988, khi Việt Nam đang trong thời điểm khó khăn về kinh tế, chính trị, ngoại giao, Trung Quốc đem quân chiếm một số bãi cạn ở phía Tây Bắc quần đảo Trường Sa. Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm phi pháp các đảo là hành động không thể biện bạch trước dư luận quốc tế và luật pháp quốc tế đương đại.
Rõ ràng, quan điểm cũng như hành động của Trung Quốc đưa ra từ xưa đến nay hoàn toàn sai trái. Tiến sĩ Trục nhấn mạnh, các nước trên thế giới từ xưa đến nay có nhiều nhà hàng hải tài ba. Họ cũng đã đi qua rất nhiều vùng đất, vẽ hải đồ, đặt tên cho những vùng đất đã đi qua. Như vậy, cứ lấy luận điểm đã từng đặt chân đến vùng đất nào để đòi chủ quyền vùng đất đó thì rất mơ hồ, có tính ngụy biện.
Độc chiếm Biển Đông là mưu đồ từ rất lâu của Trung Quốc. Quốc dân Đảng mượn cớ quân đồng minh ra tiếp quản, giải giáp vũ khí quân Nhật sau khi đại chiến thế giới lần thứ 2 kết thúc, đưa một hạm đội do Lâm Tuân chỉ huy gồm 4 con tàu, lợi dụng nhiệm vụ giải giáp quân Nhật để chiếm hai quần đảo. Tại Hoàng Sa, hạm đội này đã tùy tiện lấy tên của bốn con tàu để đặt tên cho các đảo mà trước đó Việt Nam đã đặt tên.
Sau đó đến những năm 50 của thế kỷ 20, Quốc dân Đảng bị thất thủ. CHND Trung Hoa ra đời và Quốc dân Đảng chạy ra Đài Loan, đồng thời rút toàn bộ quân ở khu vực Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam về. Trung Quốc đã lợi dụng tình thế để chiếm nhóm đảo ở phía đông và Đài Loan quay trở lại chiếm đảo lớn nhất ở quần đảo Trường Sa, mà họ gọi là Thái Bình, chúng ta gọi là Ba Bình.
Còn một chuyện cũng liên quan tới sau này là việc trong hạm đội của Quốc dân Đảng, có một ông Vụ phó Vụ Mỏ và Địa chất của Trung Hoa dân quốc. Ông này đi theo và khi đó đã vẽ nghịch ra đường biên giới chữ U gồm 11 đoạn. Một sơ đồ không có cơ sở gì sau này đã bị Trung Quốc lợi dụng để hiện thực hóa âm mưu độc chiếm Biển Đông. Trung Quốc đưa ra lập luận rằng đây là con đường đã tồn tại trong lịch sử, có trước Công ước Luật Biển năm 1982, và điều này hết sức phi lý, không được bất kỳ quốc gia nào trên thế giới thừa nhận.
Về ý kiến của ông Dương Trạch Vỹ cũng như lời phát ngôn của Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Tần Cương viện dẫn lời lẽ trong Công thư 1958 của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đòi hỏi chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa, Tiến sĩ Trần Công Trục chỉ rõ: Trung Quốc đang cố tình hiểu sai, xuyên tạc để biện hộ cho việc họ đã sử dụng lực lượng, lợi dụng cơ hội để chiếm đóng phi pháp đối với quần đảo Hoàng Sa và một số khu vực ở Trường Sa.
Đánh lận thông tin với âm mưu độc chiếm
“Việc Trung Quốc nhắc đến văn bản của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho Thủ tướng Chu Ân Lai năm 1958, nhưng đó không phải là công hàm. Trung Quốc viện dẫn điều này để cố chứng minh cho lập luận của Trung Quốc là phía Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã chính thức thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Tây Sa (Hoàng Sa – PV) và Nam Sa (Trường Sa – PV) là vô lý.
Tôi nói rõ, Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi công thư chứ không phải công hàm cho Thủ tướng Chu Ân Lai. Họ thì nói rằng chúng ta đã thừa nhận nhưng đi sâu vào nội dung đó thì không hề có một câu nào nói đến việc nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thừa nhận Tây Sa (Hoàng Sa – PV) và Nam Sa (Trường Sa – PV) là của Trung Quốc, mà chỉ nói rằng chính phủ và nhân dân Việt Nam tán thành và ủng hộ lãnh hải 12 hải lý của Trung Quốc theo tuyên bố năm 1958 của Trung Quốc. Rõ ràng chúng ta chỉ dừng lại ở thừa nhận và ủng hộ chiều rộng lãnh hải 12 hải lý”.
Tiến sĩ Trục giải thích rõ bối cảnh: Thời điểm đó, Trung Quốc đưa tuyên bố 12 hải lý cũng là một sự kiện khá nổi bật liên quan tới việc thế giới đang có quá trình đấu tranh giữa các nước có nền hàng hải phát triển và các nước ven biển có nền hàng hải kém phát triển hơn, một bên thì muốn thu hẹp lãnh hải của các quốc gia ven biển vào càng sát bờ càng tốt, không cho phép mở rộng đến 12 hải lý. Các quốc gia khác, đặc biệt các quốc gia ở thế giới thứ ba, các nước đang phát triển muốn mở rộng chủ quyền của mình ra ở phạm vi lớn hơn. Trong bối cảnh đó Trung Quốc là nước tiên phong tuyên bố điều đó thì với một quan hệ về mặt hữu nghị giữa hai nước thì chúng ta lên tiếng ủng hộ cũng chính là chúng ta ủng hộ tiếng nói chung của cộng đồng các nước đang phát triển, là vấn đề hoàn toàn hết sức thiện chí.
Trở lại vấn đề Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 (Haiyang Shiyou-981) sâu trong vùng thềm lục địa, vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, Tiến sĩ Trục đã chỉ rõ ý đồ sâu xa của Trung Quốc: Bằng việc Trung Quốc lý giải đặt giàn khoan ấy cách bãi Trung Kiến (tức Tri Tôn của Việt Nam – PV) là 17 hải lý, có nhiều người lầm tưởng khu vực ấy là của Trung Quốc. Nhưng sau khi Việt Nam nói rõ quần đảo Hoàng Sa bao gồm cả đảo Tri Tôn là chủ quyền của Việt Nam bị Trung Quốc dùng vũ lực chiếm đóng trái phép, công luận quốc tế đã quay ra ủng hộ Việt Nam vì biết Trung Quốc sai.
Nhấn mạnh tới chính nghĩa của Việt Nam, ông Trục nhấn mạnh: Tuyên bố của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định, vị trí Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 nằm sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc đã cố tình lập lờ trong cách vận dụng những quy định của Công ước LHQ về Luật Biển năm 1982 để đặt giàn khoan ở vị trí dễ làm cho người dân thế giới và người dân Trung Quốc hiểu lầm rằng vùng biển đó thuộc chủ quyền của Trung Quốc, từ đó mà quay ra ủng hộ cho sự sai trái của họ. Cách “đánh lận” kiểu này, nếu ta không tỉnh táo, không phân tích cho thế giới hiểu, Việt Nam sẽ sa vào cái bẫy đã giăng sẵn. Do đó, cần hết sức tỉnh táo, không mắc mưu của Trung Quốc.
NGUYỄN HÒA (ghi)
Nguồn bài đăng