Vài tâm đắc về làng xã Việt Nam
Nguyễn Tùng (Paris) Tóm lược một số ý kiến mà Nguyễn Tùng đã trình bày trong một số công trình nghiên cứu của anh về làng xã Việt Nam, bài này được viết để cho đăng trong cuốn “Nhân cách sử học”do các GS Trần Văn Thọ, Nguyễn Quang Ngọc và Philippe Papin làm chủ ...
Nguyễn Tùng
(Paris)
Tóm lược một số ý kiến mà Nguyễn Tùng đã trình bày trong một số công trình nghiên cứu của anh về làng xã Việt Nam, bài này được viết để cho đăng trong cuốn “Nhân cách sử học”do các GS Trần Văn Thọ, Nguyễn Quang Ngọc và Philippe Papin làm chủ biên. Với sự tham gia của 41 tác giả Việt Nam và quốc tế, nó được thực hiện Từ 1990 đến 2002, trong hơn mười năm, chúng tôi đã tham gia hai chương trình nghiên cứu về làng xã ở đồng bằng sông Hồng trong khuôn khổ hợp tác khoa học giữa Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) với Trung tâm Quốc gia Nghiên cứu Khoa học (Pháp), rồi với Viện Viễn Đông Bác cổ (Pháp). Các thành quả đã được công bố trong hai cuốn sách: Mông Phụ, unvillage du delta du fleuve Rouge1 và Làng ở vùng châu thổ sông Hồng: vấn đề còn bỏ ngỏ2. Trước đó, tôi cũng đã nghiên cứu làng Bảo An ở Quảng Nam3 . Sau đây, tôi xin ghi lại vài tâm đắc về làng xã Việt Nam đã được trình bày chủ yếu trong các cuốn sách nói trên.
Làng xã, vấn đề thuật ngữ
Qua Dư địa chí của Nguyễn Trãi, ta biết là ngay từ thế kỷ XV rất nhiều từ Hán Việt được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở ởViệt Nam: hương, giáp, phường, trại, động, sách, thôn … và nhất là xã (Nguyễn Trãi, 1976: 209-246). Tình trạng đó đã kéo dài ít ra cho đến đầu thế kỷ XIX như ta thấy trong cuốn Các trấn tổng xã danh bị lãm (CTTXDBL, 1981), được viết vào khoảng các năm1810-1813, nên cần định nghĩa cũng như bình luận về các từ nói trên.
Xã là từ thường gặp nhất (đến hơn 90% trong CTTXDBL). Thông thường nó chỉ một làng lớn hay ít ra được chính quyền công nhậnnhư thế. Nhưng nhiều xã ghi trong CTTXDBL chỉ có chưa đến mười dân nội tịch4. Vào khoảng những năm 1930, ở Bắc Ninh khoảng 74 % các làng thuộc loại « nhất xã nhất thôn » và 24 % gồm từ hai đến bốn thôn (xem Nguyễn Văn Huyên, 1996). Từ đầuthế kỷ XX trở đi, việc dùng từ xã để chỉ các đơn vị hành chính cơ sở ngày càng trở nên phổ biến: vào năm 1928, tất cả các đơn vịhành chính cơ sở ở Bắc Kỳ đều được gọi là xã (xem Ngô Vi Liễn, 1928).
Thôn chỉ một xã nhỏ với tất cả các chức năng của một đơn vị hành chính cơ sở. Nhưng, như vừa trình bày trên đây, thôn cũng là mộtđơn vị địa vực nằm bên trong xã. Khác với xóm, thôn thường có đình và một số tập tục riêng, nên có bản sắc khá đậm nét so với các thôn khác cùng xã. Từ thời Minh Mạng (1820-1840), các thôn thuộc xã do phó lý cầm đầu.
Phường chỉ một xã ở đô thị hay một xã mà phần đông dân cùng làm một nghề, thủ công hay buôn bán. Phường còn được dùng đểchỉ một hội ngành nghề. Trước thời Pháp thuộc, phủ Hoài Đức (tức nội thành Hà Nội ngày nay) có rất nhiều phường. Phường thuỷ cơ (hay thuỷ cơ) là làng ở trên sông. Theo Pierre Gourou (1965: 437-442), vào những năm 1930, nó “gồm toàn thuyền hay bè, dân làng sống bằng nghề đánh cá hay vận tải”.
Phường tứ chiếng gồm toàn dân « tứ chiếng », tức là những người đến từ nhiều nơi, nên có gốc gác không rõ. Hai thành ngữ trai tứchiếng và gái giang hồ thường sóng đôi nhau với nghĩa rất xấu. Phải chăng từ tứ chiếng phái sinh từ tứ trấn bao quanh kinh thành Thăng Long dưới triều Lê (Kinh Bắc, Sơn Nam, Hải Dương và Sơn Tây)?
Giáo phường gồm những gia đình làm nghề hát xướng, đàn địch. Trang chỉ các làng thời xưa (chủ yếu từ đời Lý Trần) vốn là điềntrang do các ông hoàng, bà chúa, các nhà quý tộc hay quan lớn lập ra.
Trại chỉ các làng lúc đầu gồm các lều thô sơ để ở tạm do nhu cầu lao động. Chẳng hạn, vào đầu thế kỷ XIX, Mông Phụ (thuộc xãĐường Lâm, Hà Nội) có xóm Trại sẽ trở thành thôn Phụ Khang hiện nay có số dân gần bằng Mông Phụ.
Sở: nguyên xưa đây là các sở đồn điền mà dường như, theo Đại Việt sử ký toàn thư (ĐVSKTT, 1968, III: 276), Lê Thánh Tông là vịvua đầu tiên đã cho lập vào năm 1481 để phát triển nông nghiệp.
Châu: làng được lập trên đất bồi ở ven sông.
Vạn: làng chài. Trong từ điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, vạn được định nghĩa là « nơi tụ tập nhiều thuyền bè đểbuôn bán ». Nó còn chỉ tập hợp những người làm chung một nghề như vạn buôn, vạn xe, vạn cấy…
Giáp: từ này rất ít khi được dùng để chỉ đơn vị hành chính cơ sở, ngoại trừ ở Thanh Hoá và nhất là ở Nghệ An (xem thêm dưới đâyphần viết về giáp như là tổ chức bên trong xã).
Phố: trong từ điển của Alexandre de Rhodes xuất bản năm 1651, từ này chỉ một “con đường có các cửa hàng buôn bán”(Rhodes,1651: 602). Hiện nay ở các đô thị miền Bắc, các con đường vẫn được gọi là phố (phố Huế, phố Bà Triệu…), khác với cách gọi ởmiền Nam. Trong CTTXDBL, các tỉnh miền núi Bắc Bộ có rất nhiều phố: 5 ở An Quảng, 6 ở Tuyên Quang, 20 ở Cao Bằng, 40 ởLạng Sơn. Ðiều đó chứng tỏ là vào đầu thế kỷ XIX, trao đổi hàng hoá bằng đường bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc được thực hiệnchủ yếu thông qua Cao Bằng và nhất là Lạng Sơn. Ở hai tỉnh này còn có nhiều chợ và quán được ghi như là các đơn vị hành chính cơ sở. Ðiều đáng ghi nhận là các tỉnh đồng bằng bao quanh phủ Hoài Ðức (thuộc tỉnh Hà Nội sẽ được lập vào năm 1831) chỉ có một phố duy nhất là Tân Hội (nằm trên địa phận của xã Ðường Lâm ngày nay). Ðiều này cũng chứng tỏ là vào thời đó, ngoài Thăng Long ra, đồng bằng sông Hồng có rất ít phố. Các phố có lẽ rất nhỏ: chỉ gồm vài cửa hàng, quán ăn và quán trọ.
Ở các tỉnh miền núi, bản làng của các dân tộc ít người thường được gọi là sách hay động. Ngoài ra còn có nhiều từ khác như lũng,xưởng, mỏ, bến, chòm5 cũng được dùng để chỉ xã thôn.
Ở Nghệ An và Thanh Hoá, ta còn gặp nhiều từ khác nữa: nậu (làngdo một nhóm thợ hay lái buôn lập ra), tích (làng của những làm muối?)6 , đội (làng do một đội lính lập ra?), tộc (làng chỉ do nhữngngười cùng một tộc lập ra?), lăng (làng có nhiệm vụ bảo vệ, tu bổ một lăng vua?) và nhất là giáp. Cuối cùng, trong Ðại Nam thực lục(1970, IX: 123), ta thấy trong số các làng do Nguyễn Công Trứ lập ra vào năm 1838, có 14 lý và 27 ấp. Về lý xin xem dưới đây phầnvề giáp. Còn ấp thì đã xuất hiện trong các thành ngữ thái ấp, thang mộc ấp, thực ấp chỉ các điền trang mà các vua Lý, Trần ban chocác vương hầu. Ở Nam Bộ, ấp thường được dùng để chỉ các làng.
Trong danh sách phủ huyện, làng xã ở Đàng Trong do Lê Quý Đôn chép lại vào năm 1776 trong Phủ biên tặp lục (PBTL, 1977: 78-93), ta thấy ở hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam, ngoài xã và thôn, còn còn có phường, trang, châu, giáp, ấp, tộc, ty (?), man (làng củacác dân tộc ít người?) và chợ (thị).
Về từ xã và chế độ tự trị xã thôn
Trong thời Bắc thuộc, vào đời Đường (618 – 907), Giao Châu đượcchia thành châu, huyện, hương và xã. Theo Cao Hùng Trưng trongAn Nam Chí Nguyên, đại hương gồm từ 160 đến 540 hộ và tiểuhương từ 70 đến 150 hộ, đại xã gồm từ 40 đến 60 hộ và tiểu xã từ 10 đến 30 hộ. Dưới triều Hàm Thông (860 – 874) đời Đường, Cao Biền chia Giao Châu thành 159 hương. Năm 907, Khúc Hạo đổi hương ra giáp do quản giáp điều khiển với sự trợ giúp của phó tri giáp ; cả nước có 344 giáp (Việt sử thông giáp cương mục, 1957, II: 41; Phan Huy Lê, 1984: 137). Vào thời này, theo Ngô Thì Sĩ, đơn vị hành chính cơ sở là xã do chánh lệnh trưởng và tá lệnh trưởng đứng đầu, ngoài ra còn có cả giáp trưởng, nhưng Ngô Thì Sĩ không nói gì đến giáp (Ngô Thì Sĩ, 1997: 138). Năm 1242, Trần Thái Tông đặt các chức đại tư xã (từ ngũ phẩm trở lên) và tiểu tư xã (từ lục phẩm trở xuống) cai trị từ hai đến bốn xã: mỗi xã do các xã quan quản lý được gọi là xã chính, xã sử và xã giám (ĐVSKTT, 1967, II: 17). Ngoài ra còn có chức câu đương lo giữ gìn an ninh trật tự (ĐVSKTT, 1967, II: 34). Năm 1297, Trần Anh Tông lại đổi giáp thành hương. Năm 1397, Trần Nghệ Tông “bãi các chức đại, tiểu tư xã”nhưng vẫn giữ chức quản giáp (ĐVSKTT, 1967, II:201).
Trong thời Minh thuộc (1407 – 1427), Lý Bân lập ra vào năm 1419 một đơn vị hành chính mới là lý gồm khoảng 110 hộ, đặt dưới sựđiều khiển của lý trưởng được chỉ định mỗi năm (ĐVSKTT, III: 8).
Vào đầu đời Hậu Lê, năm 1428, Lê Thái Tổ cho các xã lớn (từ 100nội tịch trở lên) được có ba xã quan, các xã trung bình (từ 10 đến50 nội tịch) có hai xã quan và các xã nhỏ (gồm 10 nội tịch hay íthơn) có một xã quan. Năm 1466, Lê Thánh Tông thay xã quan bằng xã trưởng (ĐVSKTT, 1968, III: 198). Để chống nạn gia đìnhtrị, vào năm 1488 vua quy định tri phủ hay tri huyện chỉ được cửmột người trong nhóm anh em ruột và anh em chú bác làm xãtrưởng.
Nhờ bi ký khắc vào năm 1543 ở chùa Hương Sơn (Phù Ninh, PhúThọ) ta biết được rằng các chức xã chính, xã sử vẫn còn vào thế kỷXVI (Đinh Khắc Thuân, 1996: 68). Từ quan viên xuất hiện lần đầutrên bia của xã An Trạch (Nam Xương, Hà Nam) dựng vào năm 1531 (Đinh Khắc Thuân, 1996: 54), và sau đó ít lâu trên bia của xãĐệ Nhị (Mỹ Lộc, Nam Định) (Đinh Khắc Thuân, 1996: 77).
Điều đáng để ý là trong từ điển của Alexandre de Rhodes có ghi hai từ cai xã và ông xã như là “người đứng đầu xã”. Như vậy haitừ này đã được dùng trước năm 1651, ít ra ở Đàng Trong?
Ở Đàng Ngoài, vào năm 1658, các xã trưởng, xã sử và xã tư đượccác tri phủ chọn trong số các nho sĩ và người đậu sinh đồ. Năm1670, dưới triều Cảnh Trị (1663 – 1672), các xã trưởng được chọntrong số con em của các gia đình lương thiện có khả năng giáo hóa dân; mỗi năm họ phải chịu khảo hạch và những người xuất sắcnhất được thăng làm tri huyện. Năm 1720, dưới triều Bảo Thái(1720-1731), họ được giao việc cai trị làng xã, thu thuế điền thổ vàthuế thân; những người được điểm cao trong nhiều cuộc sát hạch kế tiếp nhau được ban tước. Từ 1732 trở đi, xã trưởng được chọntrong dân, nên mất đi sự quan trọng (Phan Huy Chú, 1992: 479-480) và triều đình ngưng can thiệp trực tiếp vào công việc nội bộcủa làng (Ngô Kim Chung, Nguyễn Đức Nghinh, 1987). Dường như cũng từ 1732 trở đi xã thôn trở thành “một cộng đồng tự caitrị lấy mình, tự giải quyết các tranh chấp giữa các thành viên, thuthuế cho nhà nước. Nhà nước không có quan hệ với dân làng màvới xã thôn. Và một khi hoàn thành được các nghĩa vụ đối với chính quyền, xã tự cai trị một cách tự do ”(Gourou, 1965: 263).
Như vậy sự tự trị của xã thôn có lẽ là một hiện tượng mới xuất hiệnvào nửa đầu thế kỷ XVIII.
Dường như dưới triều Minh Mạng (1820-1840), chức danh lýtrưởng (do Lý Bân đưa vào Việt Nam dưới thời Minh thuộc) thaythế cho chức danh xã trưởng và các chức danh tiên chỉ, phó lýđược đặt ra: hai chức danh sau chỉ được ghi trong các địa bạ lập ratừ 1832 trở đi.
Lý trưởng được giao thi hành các quyết định với sự phụ giúp củaphó lý hay hương trưởng. Là người duy nhất đại diện cho dân làngtrước chính quyền, lý trưởng “thu và nộp lại thuế; tiến hành chiacông điền; đóng dấu vào các văn tự bán hay cầm cố ruộng đất; các văn tự sẽ vô giá trị nếu không làm thủ tục đó; đảm nhận việc bảovệ an ninh công cộng; trình báo lên quan các tội phạm hay các sựkiện nghiêm trọng xảy ra trong làng, như giết người, cháy nhà, mởsòng bạc, buôn lậu, trộm cướp…”(Ory, 1894: 190). “Lý trưởng có thể bị luật pháp trừng trị vì việc thu và nộp lại thuế lên quan […]Ông ta phải chịu tội thay cho dân làng. Tài sản của ông ta –nếukhông có thì lấy tài sản của các kỳ mục –phải đền bù vào số tiềnthuế thu thiếu. Lý trưởng giữ triện của làng.”(Pasquier, 1907: 51-52). Vì chức lý trưởng cho phép khi mãn nhiệm kỳ được tham giahội đồng kỳ mục, nên các gia đình kình địch thường tranh nhauchức vụ này. Trái lại, một khi đã được bầu, các lý trưởng thườngtìm cách từ bỏ càng sớm càng tốt chức vụ quá nặng nề này, trướckhi phạm lỗi.
Tóm lại, thực quyền ở làng nằm trong tay tiên, thứ chỉ và những người kỳ mục; còn lý trưởng, phó lý và hương trưởngchỉ là tay chân thân tín của họ.
Như ta biết sau 1945, chính quyền cách mạng đã lập ra xã (mới),tương đương với tổng thời xưa (ít ra về số dân), gồm nhiều xã (cũ):chẳng hạn hiện nay xã Ðường Lâm gồm cả thảy chín thôn (= xãdưới thời Pháp thuộc).
Hậu quả của cải cách hành chính nói trên là khi gặp từ xã, lắm khita không biết đó là xã trước 1945 (= thành phần của tổng) hay là xãhiện nay (tương đương với tổng thời xưa vì gồm nhiều làng)! Ðểtránh lẫn lộn, phải chăng nên gọi xã (mới) là tổng như trước Cáchmạng tháng Tám? Có lẽ cũng nên nói thêm rằng việc dùng hai từtổng và xã để chỉ hai đơn vị hành chính không phải bắt chước củaTrung Quốc mà là một sáng tạo của người Việt!
Làng = xã ?
Theo Bùi Xuân Đính, « làng là đơn vị tụ cư truyền thống của ngườinông dân Việt, có địa vực riêng, cơ cấu tổ chức, cơ sở hạ tầng, cáctục lệ (về cheo cưới, tang ma, khao vọng) thờ cúng riêng, tâm lýtính cách riêng và cả « thổ ngữ » (tiếng làng) riêng… ». Cho đến đây, ta có thể đồng ý với tác giả. Nhưng chúng tôi cho là ông đãlầm khi viết thêm: “… làng có bộ máy quản lý tức hội đồng kỳmục (từ 1921 trở đi là hội đồng tộc biểu)”(Bùi Xuân Đính, 1998:97), vì từ làng không những chỉ các “nhất xã nhất thôn”mà cả các thôn thuộc xã.
Các xã Kim Sơn, Chân Tảo, Linh Quy, Giao Tự, Giao Tất, PhúThị, Tô Khê của tổng Kim Sơn (Gia Lâm, Bắc Ninh) cũng đượcgọi, theo thứ tự, là làng Then, làng Táo, làng Vụi, làng Chè, làngKeo, làng Sủi, làng To (Nguyễn Văn Huyên, 1996: 13): các làngnày đều là “nhất xã nhất thôn”. Nhưng khi xã được chia thành haihay nhiều thôn, thì sự lẫn lộn có thể xảy ra, vì làng lắm khi đượcdùng cho cả các thôn nằm bên trong của xã. Sau đây là một sốbằng chứng rút ra từ công trình nghiên cứu của Nguyễn VănHuyên:
– Xã Bố Hạ (Yên Thế, Bắc Giang) gồm có bốn thôn là Bố Hạ haylàng Dinh, Bố Sơn hay làng Bo Non, làng Ðông hay Ðông Kênh,làng Thị hay Bo Chợ (Nguyễn Văn Huyên, 1996: 150).
– Xã Thuý Cầu (Lạng Giang, Bắc Giang), dù chỉ có 185 ngườidân, lại gồm đến 11 thôn: Ðồng Bài, Ðồng Bằng, Ðồng Cây, ÐồngHội, Ðồng Khanh, Ðồng Nội, làng Sanh, làng Ngoài, làng Sai, làngTrong, làng Thị (Nguyễn Văn Huyên, 1996: 134). Khi các thônbên xã được gọi là làng, chúng thường có đình, miếu (nhiều khi cảchùa)… và một số tập tục riêng, và vì thế có được bản sắc riêng.
Trước 1945, nếu phải dùng xã hoặc thôn trong các quan hệ chínhthức với chính quyền, thì trong cuộc sống hằng ngày, người Việtthường dùng từ làng vì nó có thêm một chút gì thân thương, tìnhcảm hay, nói như nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi, “cảm xúc”(émotionnel) (Nguyễn Từ Chi, 1993: 55).
Ngoài ra, cũng nên nói thêm là, theo nghĩa rộng, làng còn đượcdùng trong các thành ngữ làng văn, làng thơ, làng chơi, làng bẹp(những người nghiện thuốc phiện).
Ðối với người Việt Nam, từ làng gợi ngay không gian cư trú mà họgắn bó. Thuở trước, làng thường có luỹ tre vây quanh, phân cáchnó với không gian canh tác. Do đó mà có các cụm từ đối lậpnhau như vào làng / ra đồng, trong làng / ngoài đồng. Ðầu làng lànơi có lối đi chính để vào làng từ đường thiên lý hay quan lộ.
Thành ngữ cuối làng chỉ đầu bên kia, nơi tận cùng của làng. Thôngthường thì địa phận của làng liền một dải. Nhưng đôi khi một làngcó nhiều công điền nằm trong địa phận làng khác, được gọi là kỳtại. Chẳng hạn vào đầu thế kỷ XX, làng Nhật Tảo (Từ Liêm, HàÐông) có công điền nằm trong không gian cư trú của làng ÐôngNgạc. Khi một xóm của làng này lại nằm trong địa phận của làngkhác, thì nó được gọi là lạc giới: đó là trường hợp của một số làng(=thôn) của xã Hữu Thanh Oai (Thanh Oai, Hà Ðông) vào đầu thếkỷ XX. Một số làng lại có ruộng đất, vườn tược lẫn lộn với nhaunên gọi là hỗn canh hỗn cư. Như vậy, khác với ở Pháp (Rambaud,1971: 13-33), trong các làng Việt Nam trước đây, không phải lúcnào “đơn vị không gian”cũng đồng nhất với “đơn vị xã hội”.
Về “giáp”
Nhà dân tộc học Nguyễn Từ Chi đã đặc biệt quan tâm đến vai tròquan trọng của giáp trong các sinh hoạt làng xã, nhất là về tôn giáo(Nguyễn Từ Chi, 1984). Nhưng ông chưa chú ý lắm đến nguồn gốc của giáp
Phải chăng giáp phát xuất từ chính sách của Khúc Hạo, theoĐVSKTT (1967, I: 269), vào năm 907 đã đổi hương –do Cao Biềnlập ra dưới đời Hàm Thông (860-874) –ra giáp như đã viết trênđây trong phần về từ xã. Vấn đề đặt ra là giáp của Khúc Hạo (=hương) dường như tương đương với đơn vị tổng về sau và gồmnhiều làng (xem dưới đây đoạn về tổng). Theo chúng tôi, có lẽ giáp(= làng và tổ chức bên trong làng) là hai “hoá thân”của giáp màLý Bân đặt ra vào năm 1419 dựa theo chính sách “bảo giáp pháp”do Vương An Thạch đề ra vào năm 1074 dưới đời Tống: là tổ chứcđịa vực bên trong của lý (xem trên đây phần về từ xã), giáp gồmmười hộ và do giáp thủ điều khiển. Vào lúc ấy chắc có quan hệmật thiết giữa giáp và xóm: tùy theo số hộ, một xóm có thể được tổchức thành một hay nhiều giáp. Trong các thế kỷ sau, một số giápđã biến thành làng, chủ yếu ở Thanh Hoá và Nghệ An, nhưng đa sốvẫn là tổ chức bên trong làng.
Ở Đông Ngạc tên các giáp (hay phe) cũng là tên của ngõ (= xóm)ghép với một số thứ tự; theo địa bạ Gia Long, làng này có cả thảytám giáp: Đông Giáp Nhất, Đông Giáp Nhì, Đoài Giáp Nhất, ĐoàiGiáp Nhì, Hoà Giáp Nhất, Hoà Giáp Nhì, Ngạc Giáp Nhất, NgạcGiáp Nhì (Phan Huy Lê và cộng sự, 1995: 388-393). Vào nhữngthập niên trước 1945, các tên giáp được rút gọn thành: Đông Nhất,Đông Nhì, Ngác Nhất, Ngác Nhì, Vẽ Nhất, Vẽ Nhì, Đoài Nhất,Đoài Nhì (Phạm Văn Thuyết, 1963: 183-184).
Cách đặt tên giáp theo tên xóm hay theo phương hướng như ta thấyở Đông Ngạc có thể là xưa nhất. Xin đưa thêm hai bằng chứng khác:
– Vào năm 1562, bốn giáp của xã Phương Để (huyện Nam Chân,trấn Sơn Nam Hạ có tên: Đông, Trung Đông, Tây và Trung Tây(Đinh Khắc Thuân, 1996: 106).
– Vào năm 1570, thôn Mỹ Long thuộc xã Cối Xuyên (Hội Xuyên,Hải Dương) có ba giáp Đông, Trung và Nam (Đinh Khắc Thuân,1996: 142).
Nhưng ngay từ nửa đầu thế kỷ XVI, tên giáp đã được đặt một cáchkhá tự do. Chẳng hạn, vào năm 1538, bốn giáp của xã La Uyên(Thượng Phúc, Sơn Nam Thượng) có các tên rất hoa mỹ: KimUyên, Ngọc Tĩnh, Cẩm Đường, Lan Đình (Đinh Khắc Thuân,1996: 48)
Càng về sau, giáp càng mất dần tính địa vực. Lý do chính là sựtăng dân số: vì thiếu đất thổ cư, con cháu các thành viên của giápphải đến ở các xóm khác.
Ở Mộ Trạch, lúc đầu có 6 giáp, sau chia thành 18 giáp, rồi hợp lạicòn 12 giáp ; mỗi giáp gồm các đinh của một hay vài họ nhỏ hoặcmột chi, phái của họ Vũ là họ đông nhất làng (Vũ Huy Phú, 1997:109). Còn ở Đông Ngạc, trước 1945, từ 18 tuổi lên, đinh nào muốn nào giáp nào cũng được, không có sự bó buộc (Phạm Văn Thuyết,1963: 183-185).
Theo P. Gourou, “giáp là một tập hợp có tính cách tôn giáo màngười ta thuộc vào do gốc gác gia đình và có trung tâm là một ngôiđền”(1965: 266). Nhưng ông cũng công nhận rằng định nghĩa nàykhông đầy đủ. Thật vậy, giáp phức tạp hơn nhiều, vì cách tổ chứcvà chức năng của nó thay đổi tùy theo làng.
Theo G. Dumontier, trong một số làng, giáp là một hội lo việc tangma, tương trợ; trong một số làng khác “giáp sinh hoạt như một hộicó mục đích cùng làm một số nghi thức tôn giáo hay tập tục”; giápcũng có thể chính thức đảm nhiệm việc phân chia cho các gia đìnhtrong giáp phần sưu thuế mà họ phải đóng, tiến hành thu thuế má(Dumoutier, 1907: 309-312). Trong nhiều làng khác nữa, giáp lobảo vệ an ninh trật tự hoặc lo tổ chức hàng năm việc thờ cúngthành hoàng và các lễ hội của làng. Chính ngày ghi tên vào sổ củagiáp quy định ngôi thứ của mỗi thành viên trong giáp: nói khác đi,người ghi tên trước dù là một trẻ sơ sinh có ngôi thứ cao hơn ngườighi sau cho dù người này là một ông lão trên 80 tuổi!
Cũng theo G.Dumontier, trong các xã thôn theo thiên tước (hay trọng xỉ, tức làsắp xếp ngôi thứ theo tuổi tác) không có giáp: các chức năng củanó được các tổ chức theo địa vực (thôn, xóm, ngõ) đảm nhiệm.Loại làng này ít hơn rất nhiều so với các làng theo vương tước(ngôi thứ được sắp xếp theo tước vị vua ban hay tước vị mua): vàonăm 1907, ở huyện Thanh Trì (Hà Đông) chỉ có tám làng (trên 99)theo vương tước. Nhưng thông thường việc sắp xếp ngôi thứ dựatrên tuổi tác lẫn tước vị.
Ở Đông Ngạc vào khoảng nửa đầu thế kỷ XX, trong mỗi giáp,ngoài bốn người thôn trưởng chính thức đứng đầu, còn có thêmmấy người bàn nhì hay thôn trưởng sĩ bổ (đã làm xong mâm chaycỗ thờ). Những thành viên khác được gọi là nhưng bàn. 32 ngườithôn trưởng của tám giáp tạo thành hàng thôn trưởng hay hànglàng, được cấy ruộng của giáp để thu hoa lợi và phải lo các côngviệc của làng: sóc, vọng, vào đám… (Phạm Văn Thuyết, 1963:183-185).
Khác với Trần Từ (1984), chúng tôi không nghĩ rằng giáp được tổchức theo lứa tuổi (classes d’âge), vì tuổi tác hay đúng hơn theongày ghi tên vào sổ giáp chỉ đóng vai trò phân định ngôi thứ tronggiáp, chứ không kéo theo sự tổ chức thành lứa tuổi, nhất là theonghĩa mà các nhà dân tộc học dùng khi nghiên cứu các xã hội ởchâu Phi hay Nam đảo. Hơn nữa chúng ta cũng nhận thấy trongcác giáp hầu như không có các nghi thức thụ pháp, kết nạp tập thểvà chung sống biệt lập cho các thành viên cùng ở vào lứa tuổi vịthành niên.
Giáp có của cải riêng bằng tiền và bằng ruộng đất: “tài sản đó là docác thành viên đóng góp, di tặng hay cho. Quỹ xã hội của giápđược dùng để cho các thành viên vay tiền hay thuê ruộng đất. Thunhập được dùng để tài trợ các cuộc vui chơi công cộng, tiệc tùng,lễ hiến sinh hay cầu xin”(Nguyễn Văn Huyên, 1944: 92).
Về đơn vị tổng
Là đơn vị hành chính nằm giữa huyện và xã (cũ), theo nhận xét củaTrần Từ (1984: 147), tổng giống như một miếng đất hoang chưa aikhai phá. Do đó, ngay cả hiện nay ta không biết vào thời nào từHán Việt tổng được dùng để chỉ đơn vị hành chính này, một nghĩakhông có trong tiếng Hán.
Trong một bài viết đăng vào năm 1990, chúng tôi đã dựa vào mộttư liệu trong Phủ biên tạp lục (PBTL, 1977: 44) mà Lê Quý Ðônlấy từ Thiên Nam dư hạ tập7để đưa ra giả thuyết là chính LêThánh Tông đã lập ra tổng vào năm 1490 khi ông “định lại bản đồtrong nước”hay nói khác đi cải tổ hành chính (Nguyễn Tùng,1990: 22-24).
Tài liệu xưa nhất có dùng từ tổng như là một đơn vị hành chính cólẽ là bài văn bia chùa Thiên Phúc (Xã Ða Phúc, huyện Quốc Oai,Hà Tây), được khắc vào năm 1538 (Ðinh Khắc Thuân, 1996: 55).
Ðại Việt thông sử của Lê Quý Ðôn có ghi là cha của Trịnh Khả(sinh năm 1403?), môt đại công thần của Lê Lợi, từng làm chánhtổng (1978: 207). Ðiều cần nói ngay là vào thời Lê Quý Ðôn ngườicầm đầu một tổng được gọi là cai tổng chứ không phải chánh tổngvì từ này chỉ được dùng từ đời Minh Mạng (1820-1840). Cũng cóthể là người sao chép sách này vào thế kỷ XIX, đã sửa cai tổngthành chành tổng. Nếu chi tiết trên đây là đúng thì đơn vị tổng đãđược lập trước thế kỷ XV, nhưng theo ý chúng tôi điều đó không
lấy gì làm chắc. Mặt khác, cũng có thể có tương quan nào đó giữađơn vị tổng và các chức đại tư xã và tiểu tư xã do vua Trần TháiTông đặt ra vào năm 1242, cai trị hai, ba hoặc bốn xã (ĐVSKTT, II:17); hoặc giữa tổng với giáp (=hương) vì như đã nói trên đây đơnvị này bao gồm nhiều làng.
Trong từ điển của Alexandre de Rhodes, được xuất bản ở Romavào năm 1651, tổng được định nghĩa là “gồm chừng mười làng”vàcai tổng là “ông quan cai trị mười làng”(Rhodes, 1651: 827). Ðịnhnghĩa này khá phù hợp với tình hình được phản ánh trongCTTXDBL (cho các trấn từ Nghệ An trở ra vào khoảng năm 1813)cũng như danh sách phủ, huyện, tổng, xã của Thuận Hoá và QuảngNam mà Lê Quý Đôn chép lại vào năm 1776 trong PBTL (1977:78-93). Trong cả hai tư liệu này, tên tổng hầu như luôn trùng vớitên của một làng thành viên (được gọi là làng đầu tổng). Thí dụ:làng Cam Giá Thịnh là làng đầu tổng của tổng Cam Giá Thịnh.Ðiều đáng ngạc nhiên là trong các bộ chính sử trước đây, người caitổng hay chánh tổng rất ít khi được nhắc đến: chẳng hạn ÐVSKTTchỉ ghi có một lần là vào năm 1618, triều thần làm tờ khải với BìnhAn vương Trịnh Tùng xin cho hỏi “bọn cai tổng cai xã”về “việckiện về hộ hôn điền thổ”(IV: 246). Phải chăng vì thời xưa vuaquan thường dựa vào các xã trưởng hay lý trưởng để thu thuế, bắtlính, bảo vệ an ninh trật tự, v.v., vì họ có được sự trợ giúp hiệu quảcủa các tổ chức bên trong của làng như thôn, xóm, giáp, phiên…,mà các chánh tổng không có nên không đóng được vai trò của họ.
Có lẽ chính trong cuốn Cours d’administation annamite (Giáo trìnhvề hành chính Ðại Nam) do E. Luro giảng vào năm 1864, ta tìmthấy nhiều thông tin chính xác nhất về vai trò của người cai tổnghay chánh tổng ở Nam Kỳ vào giữa thế kỷ XIX. Dường như dướithời Minh Mạng từ chánh tổng được tạo ra để thay thế cho từ caitổng.
Do các quan viên, kỳ mục trong tổng bầu ra, người chánh tổng,theo E. Luro có nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của dân trong tổng, thihành các trát của quan trên, phân bổ và thu thuế má để nộp lênquan và giữ gìn an ninh trật tự trong tổng. Thông thường, chánhtổng được sự phụ tá của một phó tổng, và trong các tổng đông dân,của một bang biện hay sung biện phó tổng. “Là một người quantrọng nhờ tài sản và thế lực”, chánh tổng đồng thời cũng là “ngườiđóng vai trò hoà giải về dân sự”(Luro, 1864: 121-138).
Vì vai trò của tổng quá mờ nhạt, thời xưa dường như người Việt ítquan tâm đến tổng: bằng chứng là các sách viết về tiểu sử như ĐạiNam liệt truyện chẳng bao giờ nhắc đến tổng, mà luôn luôn ghi tênhuyện, rồi lắm khi ghi thêm tên làng và/hay tên tỉnh .
“Làng cổ Đường Lâm”?
Khi vào trang web bằng tiếng Việt của Google, ta có thể tìm thấyđến cả trăm bài báo viết về “làng cổ Đường Lâm”. Theo chúng tôicụm từ này là không chỉnh, vì người đọc có thể hiểu xã ĐườngLâm hiện nay là một “làng cổ”. Trước hết, như đã nói trên đây,“xã”(mới) –được lập ra sau Cách mạng tháng Tám và nhất là từnăm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975 ở miền Nam –là tươngđương với “tổng”ngày xưa, tức là gồm nhiều “xã”(cũ), từ ượcdùng nhiều nhất trước 1945 để chỉ đơn vị hành chính cơ sở. Do đó,ta không thể dùng từ làng để chỉ xã (mới) Đường Lâm hiện nay màđể chỉ chín làng hay “thôn”(theo cách gọi hiện nay) thành viên củanó (Mông Phụ, Cam Thịnh, Đông Sàng, Đoài Giáp, Cam Lâm, PhụKhang, Hà Tân, Văn Miếu và Cựu Đền). Mặt khác, không phải tấtcả chín thôn (làng) này đều là “làng cổ”cả.
Thực ra chỉ có nămthôn Cam Thịnh, Mông Phụ, Đông Sàng, Cam Lâm và Đoài Giáplà đã được lập ra cách đây đến trên 500 năm. Còn bốn thôn kia thìđều tách ra từ Cam Thịnh (Cựu Đền), Đông Sàng (Hà Tân) vàMông Phụ (Phụ Khang và Văn Miếu) cách đây chưa đến trămnăm, thậm chí chỉ mới mươi năm thôi. Và trong năm “làng cổ”nàychỉ có làng Mông Phụ là còn giữ được nhiều “nét xưa”tạo ra đượcdáng dấp tổng thể của một làng cổ với ngôi đình, cổng làng, cây đacổ thụ, ao làng, quán (nhà nhỏ xây ở ngoài đồng, không có tường,để dân làng trú mưa, nắng hay để những người lỡ độ đường quađêm vì xưa kia họ không được phép vào ngủ trong làng), điếmcanh, giếng công, đường làng lót gạch… , và mấy chục ngôi nhà cổcó tường bằng đá ong và mái lợp bằng ngói mũi hài.
Vì các làng cổ nói trên (trừ Cam Lâm) nằm sát bên nhau đến mứckhông còn ranh giới rõ ràng, phải chăng ta nên dùng cụm từ “quầnthể làng cổ Đường Lâm”để gọi chúng ?Đường Lâm: đất hai vua?
Ngày nay, không những ở Đường Lâm, nhiều người –trong số đócó cả một số nhà sử học –thường dùng thành ngữ « đất hai vua »để chỉ xã này và đôi khi để chỉ riêng thôn Cam Lâm. Hai vua đó làPhùng Hưng (761-802) và Ngô Quyền (899-944).
Đúng là các sử liệu đều ghi Phùng Hưng và Ngô Quyền “là ngườiĐường Lâm”. Nhưng ta không rõ đó là một châu (= huyện) haymột làng. Và ta cũng không biết là nó nằm tại đâu ở đồng bằngsông Hồng. Dường như hiện nay hầu hết các sử gia Việt Nam đềuxem xã Đường Lâm hiện nay, thậm chí làng Cam Lâm, là quêhương của Phùng Hưng và Ngô Quyền, vì lẽ, họ cũng nghĩ nhưĐại Nam nhất thống chí, ở làng này từ hơn một thế kỷ nay có đìnhthờ Phùng Hưng cũng như nhà thờ và lăng Ngô Quyền và vì lẽ bàivăn khắc trên phụng tự bi của làng Cam Lân viết:
“Bản xã đất ởrừng rú, xưa gọi là Đường Lâm, thời thuộc Đường có Phùng vươnghúy là Hưng, đến thời Ngũ Đại có Ngô vương húy là Quyền, hai vương cùng một ấp, việc ấy chưa bao giờ có”(ĐNNTC, 1971, IV:178). Dựa trên khẳng định không vin vào cứ liệu nào cả này,ĐNNTC hồ đồ cho rằng “như thế thì huyện Phúc Thọ xưa cóĐường Lâm, Đường Lâm là tên xã không phải tên châu”, tuy ngaysau đó có nhắc đến quan điểm của Ngô Thì Sĩ (trong Đại Việt sửký tiền biên) và của Phan Huy Chú (trong Lịch triều hiến chươngloại chí) cho rằng Đường Lâm là một huyện ở vào quãng huyệnHoài An và Mỹ Lương thời xưa (đại khái tương ứng với huyện MỹĐức hiện nay thuộc Hà Nội).
Vào đầu thế kỷ XIX, Cam Lâm có tên là Cam Tuyền (xemCTTXDBL, 1981: 42), tức chưa có từ tố “lâm”của Đường Lâm.
Nhưng chỉ khoảng 60 năm sau đó, tên Cam Lâm đã thấy được ghitrong Đại Nam nhất thống chí. Phải chăng việc đổi Cam Tuyềnthành Cam Lâm là để nối liền làng này với tên Đường Lâm thờixưa, rồi đi đến kết luận như trên ! Rốt cuộc, cụm từ « hai vươngcùng một ấp» sau này đã được chuyển thành “đất hai vua”.
Việc đổi “Cam Tuyền”thành “Cam Lâm”theo đúng quy tắc đổitên làng xã ở Việt Nam thời xưa mà học giả bực thầy Hoàng XuânHãn là người đầu tiên đã tìm ra trong cuốn Lý Thường Kiệt: tênmới của một làng bao giờ cũng giữ lại một “từ tố”của tên cũ: nhưCam Tuyền thành Cam Lâm , hoặc Phi Phú Phú An Bảo An (từ 1975, thuộc xã Điện Quang, Quảng Nam).
Chính quyền xã Phùng Hưng cũng đã dựa vào các bằng chứng nóitrên để xin quốc hội của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đổi tên thànhĐường Lâm ngày 21.11.1964.
Hiện nay xã Đường Lâm còn giữ được tấm phụng tự bi ghi sự tíchPhùng Hưng và Ngô Quyền. Nhưng bài văn khắc trên bia này cómột số điểm đáng ngờ. Chẳng hạn nó khẳng định là bia được làngCam Tuyền thuộc huyện Phúc Thọ, phủ Quốc Oai dựng vào nămQuang Thái thứ ba (1390). Thế mà, theo ÐNNTC (IV:178-180),tên huyện Phúc Thọ chỉ có từ năm Minh Mạng thứ 3 (1822) trở đi;từ đời Lê Quang Thuận (1460-1469) nó có tên là Phúc Lộc, rồi đổithành Phú Lộc dưới đời Tây Sơn; dưới đời Trần Quốc Oai là mộtlộ sau đổi thành trấn, rồi đổi làm phủ từ đời Lê Quang Thuận. Nhưvậy, phải chăng phụng tự bi được lập sau năm 1822, chứ không
phải vào năm 1390?
Bia này có ghi tên các quan viên của làng Cam Tuyền, nhưng liệuvào cuối thế kỷ XIV từ quan viên đã được dùng hay chưa? (Xemtrên đây phần viết về từ xã).
Theo bài văn khắc ở phụng tự bi, thì nó đã sử dụng các sự kiện ghitrong gia phả của hai họ Phùng và Ngô. Vấn đề là trước thế kỷ XVở Đại Việt dường như chưa có gia phả.
Tưởng cũng nên nói thêm rằng xã Đường Lâm, cùng với xã CamThượng láng giềng, chắc là hai hoá thân của giáp Cam Giá vào đờiLý: thật vậy, theo ĐVSKTT (I: 247), năm 1117 “người giáp CamGiá dâng hươu đen”cho vua Lý Nhân Tông (Đường Lâm thuộcvùng “bán sơn địa”, khá gần núi Ba Vì). Như ta biết, từ Hán-Việt“cam giá”có nghĩa là “cây mía”xưa kia vốn được trồng rất nhiềuở vùng này, nên “mía”thành tên nôm của nó trong nhiều thànhngữ như “phố Mía”(tức phố Tân Hội nay không còn nữa), “chùaMía”(tức chùa Sùng Nghiêm ở Đông Sàng), “chợ Mía”(chợ ĐôngSàng), “gà Mía”, “bà chúa Mía”8, . Trước hậu bán thế kỷ XV, giápCam Giá nói trên đã chia thành Cam Giá Thượng (tức xã CamThượng hiện nay) và Cam Giá Hạ (sẽ lần lượt đổi thành tổng CamGiá Thịnh, Cam Thịnh, rồi thành xã Đường Lâm). Tóm lại, ít ra làtừ thế kỷ XII cho mãi đến năm 1964, các “tiền thân”của xã ĐườngLâm hiện nay dường như chưa bao giờ có tên được tạo với hai từtố “đường”và “lâm”!
Khó khăn lớn nhất khi nghiên cứu làng xã Việt Nam là thiếu tưliệu lưu trữ, ít ra cho đến thời kỳ Pháp thuộc. Chẳng những thế, vìcác bộ biên niên sử của Việt Nam chỉ quan tâm đến các biến cốliên quan đến triều đình, đời sống kinh tế và xã hội của nhân dânhầu như không được biết đến, nhất là ở mức độ địa phương. Từnửa sau của thế kỷ XIX, một số sĩ quan, linh mục và nhất là nhàcai trị Pháp đã ghi lại các quan sát khá tỉ mỉ của họ về xã hội ViệtNam, rồi nhiều khi viết thành bài báo hay sách. Từ 1860 trở đi, cácvăn kiện chính thức, những báo cáo hành chính… cũng đã được lưutrữ tương đối đầy đủ (đặc biệt về tỉnh Hà Đông): đây là điều hoàntoàn mới đối với Việt Nam. Hai nguồn tư liệu quan trọng khác làbi ký và địa bạ. Điều đáng tiếc là cho đến nay các nguồn sử liệuquý giá ấy dường như chưa được các nhà nghiên cứu Việt Namkhai thác đúng mức. Chính vì thế mà một số công trình nghiên cứuvề “làng truyền thống”Việt Nam thường khá mơ hồ và nhất là chota cảm tưởng nó không biến đổi gì mấy qua hàng nghìn năm, kể cảtrong thời Pháp thuộc. Khi nghiên cứu làng xã, chúng tôi đã bănkhoăn về vài câu hỏi sau đây: Phải chăng có sự liên tục giữa các
tổng thời xưa và các xã hiện nay? Phải chăng sau trên dưới nămmươi năm hiện hữu, các xã [mới] đã tạo được cho mình một bảnsắc rất mạnh, nên làm lu mờ hoàn toàn bản sắc của làng đã bị thựctiễn cách mạng làm mất đi mọi thực thể? Dù từ đầu những năm1990 có sự hồi sinh tự phát của làng truyền thống do tác động củanền kinh tế thị trường « hoang dại » ngày càng phát triển mạnh,nhưng rồi ra vai trò của thôn làng sẽ là gì trong xã hội Việt Nam?Thú thật là cho đến nay chúng tôi vẫn cứ phân vân…
Tư liệu trích dẫn
Bùi Xuân Đính, “Bàn thêm về mối quan hệ giữa làng và xã quaquy mô cấp xã thời phong kiến», trong Đinh Xuân Lâm, Dương
Lan Hải (chủ biên),
Nghiên cứu Việt Nam, một số vấn đề lịch sửkinh tế – xã hội – văn hoá, Hà Nội, Nxb Thế Giới, 1998.
Các trấn tổng xã danh bị lãm được Dương thị The và Phạm ThịThoa dịch sang tiếng Việt thành Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷXIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ Tĩnh trở ra), Hà Nội, Nxb Khoa họcXã hội, 1981.
Dumoutier, Georges, “Essai sur les Tonkinois”» [Luận về ngườiBắc Kỳ], Revue Indochinoise, 1907.
Đại Nam liệt truyện, Huế, Nxb Thuận Hoá, 1993, 4 tập.
Đại Nam nhất thống chí, IV, Nxb Khoa học Xã hội, 1971.
Ðại Nam thực lục, IX, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1970.
Đại Việt sử ký toàn thư, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1967-1968, 4 tập.
Đinh Khắc Thuân, Văn bia đời Mạc, Hà Nội, Nxb Khoa học Xãhội, 1996.
Gourou, Pierre, Les paysans du delta tonkinois [Nông dân châuthổ sông Hồng], Paris/La Haye, Mouton, 1965, in lần thứ hai.
Hoàng Xuân Hãn, Lý Thường Kiệt, Hà Nội, Sông Nhị, 1920.
Lê Quý Ðôn, Lê Quý Đôn toàn tập, I: Phủ biên tạp lục, Hà Nội,Nxb Khoa học Xã hội, 1978.
Lê Quý Ðôn, Lê Quý Đôn toàn tập, III: Ðại Việt thông sử, Hà Nội,Nxb Khoa học Xã hội, 1977.
Luro, Émile, Cours d’administration annamite [Giáo trình vềhành chính Đại Nam], bản chép tay, 1864.Ngô Kim Chung, NguyễnĐức Nghinh, Propriété privée etpropriété collective dans l’ancien Việt Nam [Sở hữu tư nhân và sởhữu tập thể ở Việt Nam thời xưa], Paris, L’Harmattan, 1987.
Ngô Thì Sĩ, Đại Việt sử ký tiền biên, Hà Nội, Nxb Khoa học Xãhội, 1997.
Ngô Vi Liễn, Nomenclature des communes du Tonkin [Tên làngxã ở Bắc Kỳ], Hà Nội, Lê Văn Tân, 1928.
Nguyễn Trãi, Dư địa chí trong Nguyễn Trãi toàn tập, Hà Nội, NxbKhoa học Xã hội, 1976.
Nguyễn Tùng, « Tìm hiểu về tổng », Đoàn Kết, 1990, số 427.
Nguyễn Từ Chi, “Le làng traditionnel au Bắc Bộ, sa tructureorganisationnelle, ses problèmes”[Làng truyền thống ở Bắc Bộ, cơ
cấu tổ chức, các vấn đề], trong Le village traditionnel au Vietnam[Làng truyền thống Việt Nam], Hà Nội, Nxb Thế Giới, 1993.
Nguyễn Văn Huyên, Ðịa lý hành chính Kinh Bắc. Tableau degéogaphie administrative d’une province vietnamienne: Le BắcNinh (ou Kinh Bắc). Hà Nội, Nxb Văn Hoá, 1996.
Ory, Pierre, La commune annamite [Làng xã Đại Nam], Paris,Augustin Challamel, 1984.Pasquier, Pierre, L’Annam d’autrefois, Essai sur la constitutionde l’Annam avant l’intervention française [Đại Nam thời xưa,
Luận về sự cấu tạo của Đại Nam trước khi Pháp can thiệp], Paris,Augustin Challamel, 1907.
Phạm Văn Thuyết, Đông Ngạc tập biên, Sài Gòn, 1963.
Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, Hà Nội, NxbKhoa học Xã hội, 1992.
Phan Huy Lê, « Về tính chất và chức năng của nhà nước thờiKhúc-Dương-Ngô-Đinh-Tiền Lê 905) » trong Thế kỷ X, nhữngvấn đề lịch sử, Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội, 1984.
Phan Huy Lê, Vũ Minh Giang, Vũ Văn Quân, Phan Phương Thảo,
Địa bạ Hà Đông, Hà Nội, Trung tâm Hợp tác Nghiên cứu ViệtNam, 1995.
Rambaud, Placide, “Sociologie du village”[Xã hội học về làng],trong Villages en développement. Contribution à une sociologievillageoise [Làng mạc trên đà phát triển. Đóng góp cho một mônxẵ hội học về làng mặc], Paris, La Haye, Mouton, 1971.Rhodes, Alexandre de, Dictionnarium annamiticum lusitanum, etlatinum [Từ điển Việt-Bồ La], Roma, 1651.
Trần Từ, Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ, HàNội, Nxb Khoa học Xã hội, 1984
Việt sử thông giáp cương mục, Hà Nội, Nxb Văn Sử Địa, tập 2,1957.
Vũ Huy Phú, Mộ Trạch, làng tiến sĩ, Bảo tàng Hải Dương, 1997.
Chú thích :
1 Do Nguyễn Tùng chủ biên, Paris, L’Harmatan, 1999. Được viết lạibằng tiếng Việt: Mông Phụ, một làng ở đồng bằng sông Hồng, Hà Nội,Nxb Văn hoá Thông tin, 2003.
2 Do Philippe Papin và Olivier Tessier chủ biên và do Trung tâm Khoahọc Xã hội, Nhân văn Quốc gia (Việt Nam) cùng với Viện Viễn ĐôngBác cổ (Pháp) và Đại học Quốc gia Hà Nội xuất bản, Hà Nội, 2002.
3 Nguyễn Tùng, “La reconstruction d’un espace villageois du Centre-ViệtNam”[Xây dưng lại một không gian làng ở miền Trung Việt Nam] trongJacqueline Matras-Guin et Christian Taillard, Habitations et habitatd’Asie du Sud-Est continentale [Nhà ở và kiểu cư trú ở Đông Nam Á lụcđịa], Paris, L’Harmattan, 1992
4 Chẳng hạn, ở trấn Sơn Nam Thượng, các xã Hoa Chúc (huyện KimBảng), Tiền Đường và An Lãng (huyện Nam Xang) chỉ có –theo thứ tự -sáu, tám và mười nội tịch (CTTXDBL, 1981: 56-57).
5 Ví dụ: lũng Lũng Lai (châu Thượng Lăng, Cao Bằng), xưởng NamLuân (châu Bạch Thông, Thái Nguyên), mỏ Vũ Lăng (huyện Vũ Nhai,Thái Nguyên), bến Câu Vu (huyện Phúc Yên, Tuyên Quang), chòmHồng Nương (huyện Phúc Yên, Tuyên Quang).
6 Ví dụ: nậu Bàng Vạn (Thanh Chương, Nghệ An), ngày nay vẫn cònthành ngữ đầu nậu); tích Ly Hà, tích Ngân Tượng (Kỳ Hoa, Nghệ An);đội Cồn Cát, đội Phan Long (Thanh Hà, Nghệ An); tộc Hoàng Nghĩa(Hưng Nguyên, Nghệ An); lăng Chú Lai (Yên Ðịnh, Thanh Hoá).
7 Sách này có lẽ được soạn trong khoảng thời gian từ 1483 đến 1486;hiện nay chỉ còn có ba quyển trong số 100 (xem Trần Văn Giáp, 1970:201-202).
Nguồn : tạp chí thời đại