Nghệ Thuật Kiến Trúc MUGHAL
Delhi. Thành đỏ , thời kỳ Shd Jahan Nguyễn Tuấn Dịch từ tạp chí Silver Kris Được khắc lên trên những bức tường cẩm thạch của Diwan – i -khas tại Pháo Đài Đỏ ở Đề Li là một câu bằng tiếng Ba Tư mà người đời gán cho vua Jahan: “Nếu những ở trên đời này từng có một ...
Nguyễn Tuấn
Dịch từ tạp chí Silver Kris
Được khắc lên trên những bức tường cẩm thạch của Diwan – i -khas tại Pháo Đài Đỏ ở Đề Li là một câu bằng tiếng Ba Tư mà người đời gán cho vua Jahan: “Nếu những ở trên đời này từng có một Vườn Địa Đàng hạnh phúc, thì nó đây, nó đây, nó đây!” .
Vua Jahan cố gây phấn khích cho kỳ được đối với hậu thế tính ương ngạnh của một vị quân vương hùng mạnh. Ông là con cháu của một đế quốc xâm lược chỉ tự hài lòng với những gì tráng lệ nhất mà truyền thống nghệ thuật của Ấn Độ có thể tạo tác được. Dòng họ Mughals một cách tài tình đã biến truyền thống đó phù hợp với những sở thích riêng biệt của chính họ. Tính chất Trung Á và nghệ thuật thời đại của họ phô diễn những ảnh hưởng tương tác của các nền văn hóa, sự thể nghiệm táo bạo và sự canh tân tự tin. Nói riêng, qua nền kiến trúc của họ, dòng họ Mughals bày tỏ công khai sự tìm kiếm một cá tính nghệ thuật độc đáo để làm vẻ vang cho đế quốc họ.
Do vị trí địa lý của nó, Ấn Độ đã luôn luôn là một nơi dung chứa những truyền thống nghệ thuật đa dạng bắt nguồn từ Tây Á và Trung Á. Nhưng khác với những kẻ xâm lăng Trung Á trước đây, họ Mughal ngoại hạng trong sự đánh giá nhạy bén về những truyền thống nghệ thuật bản xứ. Nhằm mục đích làm bóng bẩy hơn nữa tài nghệ phong phú của người Ấn Độ thời đó, các thợ thủ công người Ba Tư trốn thoát những biến động tại quê hương của họ ào ạt đổ xô tới Ấn Độ và nhận sự bảo trợ nhân từ tại triều đình Mughal. Các nhà quý tộc tị nạn và những văn sĩ từ Trung Á cũng nhập vào thêm cộng đồng đa tạp ngoài các linh mục dòng Tên và những người phiêu lưu của nước Ý. Sự thịnh vượng về ảnh hưởng sáng tạo cuối cùng dẫn tới sự nở rộ một phong cách cực kỳ phong phú và quan trọng của nghệ thuật Ấn Độ – là “phong cách Mughal”.
Những nguồn gốc thật sự của nền kiến trúc Ấn – Âu ung dung bên trong các tàn tích của ngôi đền Hồi giáo đầu tiên của Ấn Độ thuộc thế kỷ thứ 12, được xây vào thời đại vua Đề Li.
Đền Hồi giáo Quwat-ul-Islam, được hoàn chỉnh năm 1196, có nét đặc sắc ở các hàng hiên Ấn Độ giáo mọc rải rác xung quanh một sân trong. Do sự khan hiếm các thợ thủ công được đào tạo theo kiểu thức người Hồi vào thời đó, ngôi đền Hồi giáo được ráp lại một cách ngẫu nhiên từ những tàn tích của các ngôi đền Ấn Độ giáo và đạo Jain, các cột trụ của công trình kiến trúc, được khắc chạm với nhiều hình tượng không có diện mạo cụ thể nhưng lại có đường nét Ấn Độ giáo rõ rệt; bờ thành bao quanh cái sân đi mô phỏng theo một kiểu của những ngôi đền được chống đỡ bằng cột trụ của miền Nam Ấn Độ. Những cố gắng sau này trong việc mở rộng khuôn viên ngôi đền Hồi giáo đã làm cho nó đẹp thêm với một cái cổng ra vào cực kỳ vĩ đại vẫn còn đứng vững tới bây giờ. Bên trong khu vực của ngôi đền là tháp nhỏ Qutab của quốc vương Iltumish. Đó là một cái tháp có đường rãnh máng rõ rệt bằng những câu khắc phức tạp, những phần chạm trỗ trang trí và những bao lơn. Theo lối tô điểm rực rỡ và tính chất kiến trúc phức tạp của nó, tháp nhỏ Qutab có nguồn gốc từ di sản của nghệ thuật Ấn Độ bản xứ hơn là từ những kiểu thức kiến trúc Hồi giáo. Nhìn một cách toàn thể, các kiểu thức khác nhau dường như cộng tồn trong một ý tưởng lộn xộn không thuần nhất. Nó phản ánh thực tế hay thay đổi chỗ ở vào thế kỷ thứ 12 ở xứ Đề Li.
Những công trình Mughal vĩ đại đầu tiên Babur, một hậu duệ của cả Tamerlane lẫn Thành Cát Tư Hãn, lúc được mười lăm tuổi, đạt được tham vọng của mình trong việc soán ngôi của Tamerlane Afghanistan và vùng Samarkand tơ lụa sẵn lòng mở cổng cho ông. Tâm trí của Babur được thấm nhuần bởi một nền học vấn Ba Tư cổ điển tại nơi sinh quán của ông là Heart, đã ôm ấp vẻ tráng lệ của các tòa nhà tuyệt mỹ của Samarkand, những vườn hoa và sân chơi của nó. Được nung nấu bởi những ý nghĩ chiếm hữu món quà tặng của Ấn Độ, ông chuyển sự chú ý của ông sang hướng Nam và vào năm năm 1525 đã thu tóm được đế quốc Hindu rộng lớn.
Babur cuốn hút vào những cố gắng của triều đại là cố tạo nên một dấu ấn kiến trúc có ý nghĩa, nhưng người chiến sĩ vĩ đại này vô cùng đam mê những vườn hoa. Những vườn hoa của Babur được chăm sóc một cách chu đáo, kết hợp ba khía cạnh của nền kiến trúc Hồi giáo: tính chặt chẽ, sự cân bằng và tính đối xứng. Phần lớn những đặc điểm của vườn hoa là việc sử dụng nước, điều xa xỉ tối hậu đối với những con người đi tới Ấn Độ từ những vùng sa mạc Trung Á. Trong tinh thần cố bảo tồn chu đáo một nguồn nước dồi dào theo mùa, nước chảy qua các vườn hoa được tái sinh và giữ trong tình trạng chuyển động bằng những phông – ten được thiết kế đơn giản và chúng được cung cấp nước bằng những kênh nhỏ hẹp. Các vườn hoa tạo nên một cảm giác đang hiện diện trong một thế giới riêng tự có trang hoàng bông hoa và cây ăn trái, và dòng nước làm êm dịu giác quan bằng âm thanh chuyển động của nó. Những toà nhà của Babur được tu sửa lại rộng rãi bởi các vị hoàng đế sau ông, nhưng vườn hoa của ông là diện mạo tiêu biểu của những thành tựu thuộc kiến trúc Mughal. Cả Jahangir cũng say sưa trong cái đẹp của thiên nhiên và những vườn hoa Nishat và Shalimar của ông tại Kashmir. Có lẽ là những ví dụ mỹ lệ của nghệ thuật xây dựng vườn hoa và công viên Mughal.
Mặc dù Babur có công mang vào Ấn Độ sự khát khao đến mức đã trở thành ám ảnh về những vườn hoa của cư dân ở sa mạc, nhưng mãi tới khi ngôi mộ của con trai ông được xây dựng thì lối kiến trúc Mughal mới bắt đầu khẳng định cho nó một cá tính riêng biệt. Những kiểu thức Ba Tư, Ấn Độ và những kiểu thức đa dạng của các địa phương tỉnh lẻ hòa nhập nhau để tạo nên một công trình lịch sử đồ sộ, mà ở đó là nỗ lực thu tóm cho kỳ được những phẩm chất ưu việt là sự an bình và thanh thản. Với chất liệu sa thạch đỏ hòa lẫn với cẩm thạch được đẽo gọt qua loa, công trình chịu ảnh hưởng Ba Tư đáng kể là ở hình thể hình chữ nhật, bọc tường và được xây dựng trên một chân tường nâng cao, phần trên hết ở trung tâm là một mái vòm cao ngất. Quần thể kiến trúc được hoàn chỉnh bằng những vườn hoa trang trọng với những phông – ten nước và những vòm nhỏ nhô ra che mát. Công trình được khởi công ngay trong lúc ông còn sống và có lẽ, đó là dự tính để lại cho hậu thế một công trình có giá trị đáng kể. Như thể là ông muốn đền bù lại những năm tháng ông đã trải qua làm kẻ đào tẩu nghèo hèn trong triều đình Ba Tư sau khi ông bị tước quyền bởi quan nhiếp chính Sher Khan Sur.
Trong lúc nắm quyền đế chế, Sher Khan đã làm thanh tú và đẹp lên những công trình kiến trúc bằng vữa hồ và gạch trần của những vị quốc vương của Đề Li có trước ông, mà kiểu thức bắt nguồn từ ngôi mộ có thành rào trổ tinh tế của quốc vương Iltutmish. Lên ngôi tại Purana Kila vào thế kỷ 14, ông xây lên một đài quan sát, như là kiến trúc báo trước cho công trình lịch sử Mughal có mái vòm phồng ra xuất hiện về sau, và một đền thờ Hồi giáo có những cổng xây rộng hướng về thánh địa Mecca. Phá vỡ kiểu thức Hồi giáo cổ truyền vốn rất chú trọng về tính đối xứng hình học tuyệt đối, ngôi đền được tạo hình dạng sao cho một khối lượng ánh sáng lớn nhất có thể chiếu vào cái sân lúc bình minh và hoàng hôn. Khi hạ bộ Sher Khan, chính Humayun bị công trình Purana Kila mới mẻ và có nhiều cải cách này gây ấn tượng mạnh đến độ ông chọn nó làm nơi cư trú mãi cho đến khi ông mất sớm sau khi bị ngã trên những bậc thềm trơn trợt của đài quan sát Sher Khan.
Là con trai của Humayun, bản thân Akbar Đại vương là một con người khôn ngoan và khoan dung vì ông là người kém chữ nghĩa văn chương nên ông khuyến khích các học giả, các nhà thơ, họa sĩ và nhạc sĩ và biến triều đình của ông thành một trung tâm văn hóa, tôn giáo trí thức và tự do tư tưởng. Sự trị vì của ông là một ví dụ về một triều đình mà vua chúa đặt tiền đề trên một nhận thức khôn ngoan là cai trị một quốc gia rộng lớn về mặt địa lý và đa dạng về mặt văn hóa như Ấn Độ đòi hỏi sự khoan dung. Và rất nhiều sự hiểu biết giữa các nền văn hóa với nhau. Sinh ra trong một túp lều trong suốt thời kỳ cha ông bị lưu đày tại xứ Ba Tư, Akbar nhận thức sâu sắc ve những nhược điểm của vận may và liên tục tìm kiếm một chân lý tôn giáo riêng cho chính mình. Lối kiến trúc của thời đại Akbar – gồm có những công trình Fatehpur Sikri, pháo đài Đỏ tại Đề Li và pháo đài Agra – dường như đã phản ánh việc đi tìm sự hoàn thiện tuyệt hảo một cách say sưa trong sự phối hợp mạnh mẽ của kiểu thức Ấn Độ giáo và Hồi giáo. Những công trình của Akbar đã đạt tới sự biểu tượng hóa quá trình tiếp cận những nền văn hóa mà ông luôn khích lệ và nuôi dưỡng.
Người vợ chính của Akbar là Jodha Bai và cung điện của nàng đặt tại Agra với sự bày biện lớp lang các hiên nhà có mái che và các cây cột được chạm khắc mang tính chất thuần tuý Ấn Độ giáo về cấu trúc và hoa văn. Cung điện của hoàng thái hậu, hiện trường của những năm tháng hình thành của Jahangir, có sự đóng góp về mặt kiến trúc của nó qua việc giữ lại ảnh hưởng Ấn Độ giáo với các sân trong được bao bọc bởi các dãy cột, các bao lơn có rầm chìa và các kiểu mẫu trang trí công phu được chạm khắc thành dải. Cung điện nghỉ ngơi của ông tại Agra minh họa điều nầy một cách gây ấn tượng. Trớ trêu thay việc xây dựng ngôi mộ của ông tại Lahore là hành động khuất phục cuối cùng của ông đối với chính quyền giới nữ của hoàng hậu Nur Jahan. Bà đã sáng tác ra công trình bất chấp cả kiểu thức ưa thích Ấn Độ giáo của ông lẫn những truyền thống tập tục Hồi giáo.
Dưới thời đại vua Jahan, kiến trúc Mughal đạt tới cực điểm của nó. Lên ngôi sau một cuộc chiến dai dẳng và đẫm máu với bào đệ xứng đáng hơn của ông là Hoàng tử Khusrau, vua Jahan nhanh chóng đặt sự thống trị của ông vượt hơn những vị hoàng đế trước ông. Chính sự tài hoa sáng chói của ông với tư cách là một kiến trúc sư, cuối cùng đã đưa kiểu thức kiến trúc Mughal phôi thai sang một độ chín muồi mang tính chất dứt khoát và cụ thể. Được sự trợ giúp phong phú của ngân khố ở Aga, triều đại cai trị của ông mở ra thời đại hoàng kim của nền nghiên cứu Mughal, hòa hợp những nét đặc sắc thích đáng nhất của các kiểu thức Ấn Độ giáo và Hồi giáo cũng như đã sử dụng đầy đủ những vật liệu quý hiếm lộng lẫy. Mái vòm, một di sản do nền kiến trúc La Mã để lại cho người Hồi giáo, luôn luôn là một nét đặc sắc trung tâm, và hay làm tầm thường hóa các khía cạnh khác của một tòa nhà. Cẩm thạch được cẩn với xà cừ và cacnelian; trần nhà được tăng thêm lá vàng và những tiểu họa được sơn phết bằng bột đá quý nghiền nát. Hoàng đế làm việc từ Pháo đài Đỏ, được chỉnh trang mới và ông đặt tên là Shahjahanabad. Đích thân ông ngồi trên ngai vàng hình con công cẩn đầy ngọc thạch, kim cương, hồng ngọc và ngọc trai.
Vua Jahan xây dựng công trình theo sở thích của mình. Ông đã tô điểm Pháo Đài Đỏ, làm cho nó sinh động và đàn ông tính như ông cha của ông. Ông ký thác sa thạch đỏ cho đống rác rưởi, cùng với các viên ngói láng bóng và kiểu tranh khảm bị hạn chế. Rút nguồn cảm hứng từ thế giới hiện thực, việc trang hoàng đối với ông ít mang tính chất hình học hơn và nặng về đề tài thiên nhiên hơn, mô tả cây cỏ và bông hoa chứa sự sống động nhịp nhàng mà ông nổi tiếng là một người sành điệu. Để minh chứng cho tài năng nghiên cứu của ông và sánh kịp với trách nhiệm của ông với tư cách là một người bảo vệ tín ngưỡng, ông khôn khéo làm dịu bớt tính chất xa xỉ của những cung điện khi ông xây dựng công trình Jame Masjid tại Đề Li, là một điện thờ công cộng. Đó là một công trình to lớn bằng đá, bệ vệ và trang nhã chứa những đặc thù của kiến trúc Hồi giáo ban sơ.
Một kiệt tác Mughal Kiến trúc xa xỉ nhất của ông là công trình hoàn toàn bằng đa cẩm thạch tinh khiết màu trắng. Vật liệu nầy lấy được từ vùng Rajasthan và được các Rajputs sử dụng để trang trí mà Akbar cũng đã sử dụng cho công trình Fatehpur Sikri. Đối với con mắt của Shah Jahan, cẩm thạch trắng có một tính chất siêu phàm nhưng hiển hiện sự dịu dàng nữ tính gần như được đồng nhất với sắc đẹp của người quý phi sủng ái của ông là Mumtaz Mahal. Làm nhỏ loại tất cả những ngôi lăng tẩm vua chúa khác về cái đẹp, kích thước và giá cả, công trình Taj Mahal là kiệt tác của phong cách kiến trúc Mughal. Tính rực sáng của chất liệu cẩm thạch cho thấy rõ một công trình có màu sắc tinh khiết nhưng khi tới gần để nhìn kỹ thì sẽ phát hiện một sự giản dị phóng khoáng với các câu chữ rút từ kinh Coran và những hoa văn trang trí uốn lượn được chạm trổ bông hoa bằng đá mã não, cacnelian, ngọc thạch và ngọc lam. Người ta bảo rằng sự đối xứng duyên dáng của mái vòm vĩ đại này có lẽ sẽ không có gì có thể so sánh được trong thời đại của chúng ta. Trình độ nghệ thuật đạt đến mức tài hoa của công trình nằm ở cả việc chọn lựa vật liệu lẫn khả năng tính toán chu đáo để thực hiện việc xây dựng nó.
Công việc kế hoạch hoá thực sự của công trình đã được gán cho nhiều người khác nhau: Ustad Isa, một người Thổ Nhĩ Kỳ của vùng Shiraz, kiến trúc sư người Vơ-ni-dơ tên là Jerome Veroneo và hai người vô danh nước Ba Tư mà về sau bị Hoàng đế làm cho mù mắt để ngăn ngừa khả năng dùng kiểu thức công trình Taj Mahal để tái tạo các công trình tương tự cho một vị quốc vương khác. Mặc dù không chắc chắn, nhưng rõ ràng là Taj Mahal đã thừa hưởng từ những nghệ nhân thuộc các trường phái có truyền thống khác nhau, và tất cả hòa hợp lại một cách dễ dàng trong quan niệm và thiết kế mang tính chất Ba Tư thuần tuý. Giấc mơ của Shah Jahan là xây dựng một công trình giống như đúc khác bên kia sông Yamuna. Nhưng bấy giờ các điều kiện thực tế đã khác: một là giá cả, và kế đó giai cấp nông dân ngày càng bất mãn và bị đánh thuế quá mức: cuối cùng sự lật đổ ông do người con trai khổ hạnh của ông là Aurangzeb thực hiện.
Sự trị vì của Aurangzeb đánh dấu cho sự kết thúc vẻ rực rỡ ngôi nhà Babur. Cơn thịnh nộ đã phá tín ngưỡng của ông vua này đã dẫn tới việc phá huỷ phần lớn các nền nghệ thuật được xem là phát huy sự sùng bái thần tượng và những công trình kiến trúc của chính ông đều quá sơ sài và thiếu sinh động.
Trong một khoảng chốc ngắn ngũi, các kiểu thức kiến trúc khác nhau gặp gỡ nhau trong một toàn cục mang tính chất chặt chẽ. Các nghệ nhân Ấn Độ đã luôn luôn chứng tỏ một khả năng đáng lưu ý là họ hấp thụ các ảnh hưởng ngoại quốc vào trong nhãn quan sáng tạo của họ hơn là chối bỏ chúng. Điều nầy năm vị hoàng đế Maghal đầu tiên đã khai thác triệt để. Lấy cảm hứng từ vẻ đẹp của các ốc đảo của vùng sa mạc và ngôi vườn hoa đẹp tựa thiên đàng của xứ Ba Tư, các kẻ xâm lược mưu trí nầy đã cố gắng phá vỡ truyền thống, tái tạo lại nghệ thuật Ấn Độ và thể hiện óc tưởng tượng của cá nhân họ về cái nguy nga vĩ đại. Nếu như các nền nghệ thuật đã từng tiến gần đến sự nắm bắt cái khung cảnh Vườn Địa Đàng trên trái đất thì có lẽ thực sự đó chính là giây phút này.
Nguồn bài đăng