18/06/2018, 16:37

Mấy đặc điểm về giá trị văn hóa tinh thần của người Việt Tây Nam Bộ qua nghiên cứu tín ngưỡng Thờ Mẫu

Huỳnh Thiệu Phong (1) Việt Nam là quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn thường được nhận định là có nền văn hóa đa dạng trong thống nhất. Trước hết, sự đa dạng bắt nguồn từ việc không gian lãnh thổ của đất nước Việt Nam là địa bàn cư trú của nhiều tộc ...

Sotaydulich_Doc_mien_dat_nuoc_Di_choi_nui_Ba_Den_03_zps191f635e.jpg

Huỳnh Thiệu Phong

(1) Việt Nam là quốc gia có truyền thống văn hóa lâu đời. Bên cạnh đó, Việt Nam vẫn thường được nhận định là có nền văn hóa đa dạng trong thống nhất. Trước hết, sự đa dạng bắt nguồn từ việc không gian lãnh thổ của đất nước Việt Nam là địa bàn cư trú của nhiều tộc người anh em thiểu số. Ngoài cộng đồng người Việt (Kinh) tồn tại với tư cách là chủ thể chính, sự hiện diện đồng thời của 53 tộc người còn lại đã làm cho tổng thể bức tranh đời sống văn hóa của Việt Nam rất đa sắc. Thêm vào đó, với sự phân vùng văn hóa mạnh mẽ, yếu tố tự nhiên đã chi phối rất nhiều đến việc hình thành nên các thái độ ứng xử với môi trường tự nhiên cũng như sự hỗn cư tộc người với nhau, điều này đã tạo nên những sắc thái văn hóa vùng vô cùng đa dạng. Mặt khác, sự thống nhất được thể hiện ở chỗ, mặc dù những biểu hiện ngoại tại của những sắc thái văn hóa là đa dạng, song xét đến bản chất gốc của văn hóa các tộc người ở Việt Nam, chất âm tinh vẫn hiện diện như một đặc trưng rõ nét. Do đó, sự đa dạng của văn hóa ở đây là đa dạng nhưng thống nhất.

(2) Trước đây, vùng Tây Nam Bộ được xem như một tiểu vùng của vùng văn hóa Nam Bộ. Tuy nhiên, nhà nghiên cứu Trần Ngọc Thêm trong một công trình gần đây[1] thông qua phương pháp định vị hệ tọa độ K-C-T đã nhận định Tây Nam Bộ là một vùng văn hóa độc lập. Do vậy, Tây Nam Bộ hiển nhiên cũng sẽ có những đặc trưng văn hóa để khu biệt với những đặc trưng văn hóa của các vùng miền khác.

            Dưới thời các Chúa Nguyễn, những lớp cư dân người Việt đầu tiên đã từ vùng “Ngũ Quảng” di cư vào vùng đất phía Nam của Tổ quốc. Kể từ giai đoạn đó về sau, lần lượt các nhóm cư dân Việt cũng đã theo chân những người đi trước vào khai hoang lập nghiệp ở phía Nam. Tùy vào từng giai đoạn lịch sử khác nhau, quy mô di cư của lớp người Việt này cũng khác nhau. Về nhóm người Việt này, họ xuất thân từ nhiều tầng lớp khác nhau trong xã hội. Họ có thể là những người nghèo đói (chịu ảnh hưởng từ cuộc nội chiến Trịnh-Nguyễn), những tội phạm triều đình bị bắt đi lao động và phát vãng, hoặc cũng có thể là người thân của những quan lại được phái vào vùng đất Nam Bộ để làm việc…

            Trong bối cảnh đó, trên bước đường di cư, những lưu dân này cũng đã mang theo hành trang là những giá trị văn hóa ở quê hương để đến với vùng đất mới. Một lẽ dĩ nhiên, những giá trị văn hóa đó đã có những thay đổi ít nhiều nhằm mục đích phù hợp hơn với đời sống nơi vùng đất mới. Trong những sự biến đổi để thích nghi đó, có lẽ sự biến đổi của tín ngưỡng thờ Mẫu – một loại hình tín ngưỡng rất đặc sắc và phát tích ở vùng Bắc Bộ, chính là một dấu chấm rõ nét trong tổng thể sự biến đổi sắc thái của bức tranh văn hóa của người Việt. Ở tín ngưỡng thờ Mẫu vùng đất Tây Nam Bộ hiện diện đồng thời những giá trị văn hóa tinh thần truyền thống của người Việt với những đặc trưng mới của văn hóa Tây Nam Bộ.

            Do vậy, chỉ ra những đặc trưng văn hóa tinh thần của người Việt vùng Tây Nam Bộ thông qua loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu là mục tiêu hướng đến của bài viết này. Cũng cần nói thêm, giá trị văn hóa của vùng Tây Nam Bộ là không ít, song trong khuôn khổ bài viết, thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu, tác giả muốn chỉ ra những ánh xạ văn hóa của người Việt được cấu thành và thể hiện qua loại hình tín ngưỡng này, qua đó làm cơ sở để nhận diện và khu biệt tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ với chính loại hình tín ngưỡng này ở những vùng miền khác trên cả nước.

(3) Theo đó, từ quan điểm cá nhân, tác giả đã nhận thấy những đặc điểm văn hóa của vùng Tây Nam Bộ được thể hiện trong tín ngưỡng thờ Mẫu thông qua mấy giá trị nổi bật sau:(a) Giá trị tâm linh – (b) Giá trị tính cách – (c) Giá trị giao thoa văn hóa – (d) Giá trị nhận thức – (e) Giá trị trọng âm. Năm giá trị đó được biểu hiện qua những đặc điểm bên ngoài theo bảng dưới:

Giá trị và đặc điểm của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt vùng Tây Nam Bộ

STT Giá trị Đặc điểm biểu hiện
1 Giá trị tâm linh Điểm tựa tinh thần cho cộng đồng người Việt trong ngày đầu khẩn hoang vùng đất mới
2 Giá trị tính cách Phản ánh tính mở, thoáng trong tính cách người Việt
3 Giá trị giao thoa văn hóa Phản ánh tính giao thoa văn hóa đa tộc người của cộng đồng người Việt với người Hoa – Chăm – Khmer
4 Giá trị nhận thức Phản ánh nhu cầu thiết thực của người dân vùng đất mới
5 Giá trị về giới Vai trò của người phụ nữ vùng Tây Nam Bộ được đề cao

[Nguồn: Huỳnh Thiệu Phong]

            (3.1)    Ở giá trị tâm linh, tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ là điểm tựa tinh thần cho cộng đồng người Việt trong ngày đầu khẩn hoang vùng đất mới. Yếu tố tâm linh là một lĩnh vực cho đến hiện nay vẫn còn đang là một thách thức đối với các nhà khoa học trên thế giới. Thật vậy, những gì được xem là tâm linh thì vô cùng thiêng liêng, là bất khả xâm phạm trong tâm trí của nhiều người. Đối với cộng đồng người Việt, quan niệm về tính thiêng tiềm ẩn trong chính triết lý sống, trong những biểu hiện của phương thức ứng xử với thế giới tự nhiên và môi trường xã hội [Hồ Liên 2002]. Có thể xem ý tưởng về tính thiêng chính là tiền đề cho sự hình thành của các tôn giáo sau này. Như vậy, có thể xem việc chỉ ra giá trị tâm linh của cộng đồng người Việt ở vùng Tây Nam Bộ chính là đề cập đến vai trò của tính thiêng trong nhận thức của cộng đồng cư dân nơi đây.

Chữ “tâm linh” là một từ Hán-Việt. Theo đó, “tâm” có nghĩa là tim – một cơ quan tối quan trọng trong cơ thể của con người. Song, nếu xét trong phạm trù văn hóa, đặc biệt là từ góc độ tôn giáo (đạo Phật) thì tâm chính là ý thức của con người. Đây là một phạm trù được đề cập rất nhiều trong giáo lý Phật giáo. Đại thi hào Nguyễn Du đã từng viết trong truyện Kiều:

“Thiện căn ở tại lòng ta

Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”

Vốn dĩ là một tôn giáo ngoại lai du nhập vào Việt Nam, song vì phù hợp với đặc tính văn hóa của dân tộc nên đạo Phật nhanh chóng hòa vào đời sống dân gian của người dân Việt như một thành tố không thể thiếu. Do đó, ta có thể xem chữ “tâm” trong thuật ngữ “tâm linh” chính là ý thức hay nhận thức của con người. Còn đối với chữ “linh”, theo quan điểm của tác giả thì từ này để chỉ sự linh thiêng hay thiêng liêng. Một cách phổ quát nhất, ta có thể cắt nghĩa về ý niệm “tâm linh” chính là nhận thức về sự linh thiêng của con người đối với một đối tượng nào đó. Thực chất, yếu tố tâm linh không phải chỉ tồn tại trong văn hóa tôn giáo – nơi mà trong tâm khảm mỗi tín đồ đều tôn sùng vị giáo chủ khai sinh ra một tôn giáo, mà nó còn có biên độ rộng hơn thế. Đó có thể là niềm tin vào một đối tượng cụ thể nào đó (ngoài tôn giáo) như một nhân vật lịch sử, một người trần mắt thịt có công với đất nước hay làng xã trong lịch sử, hay xa hơn nữa là một nhân vật được khoác lên đó một tấm áo dã sử thông qua các truyền thuyết dân gian… Song quy tụ lại tất cả, để biến những đối tượng đó mang yếu tố tâm linh thì cần phải có sự “thừa nhận” của người dân địa phương.

Do đó, với cách hiểu giá trị tâm linh như trên, ta thấy vai trò của tín ngưỡng thờ Mẫu trong đời sống tinh thần của cư dân Việt là rất lớn. Thuở mà Tây Nam Bộ nói riêng còn là vùng đất “Muỗi kêu như sáo thổi, đĩa lềnh tựa bánh canh”, “Dưới sông sấu lội trên rừng cọp um”, lại mang theo tâm thế của những con người mới, kết hợp với hiện thực khó khăn, phải nói rằng chỉ khi họ tìm được cho mình một điểm tựa về tinh thần và sự nỗ lực hết sức mới có thể vượt qua những hiểm nguy, thử thách trong những ngày đầu đến đây.

            Ngoài ra, giá trị tâm linh cùa tục thờ Mẫu nhìn ở cấp độ không gian văn hóa toàn Việt Nam còn có thể thấy được dấu ấn rõ nét của nó. Từ Bắc đến Trung rồi Nam Bộ, hệ thống các nữ thần và Mẫu thần được phủ khắp mọi nơi. Những Quốc Mẫu Âu Cơ, Mẫu Tây Thiên, Mẫu Liễu Hạnh ở Bắc Bộ; các Mẫu ở miền Trung như: Thiên Yana Thánh Mẫu, Mẫu Yang Po Inư Nưgar của người Chăm; và ở Nam Bộ nói chung là các Thiên Hậu Thánh Mẫu, Chúa Xứ Thánh Mẫu, Phật Mẫu Diêu Trì, Linh Sơn Thánh Mẫu, Ngũ hành Nương Nương… chính là những vị nữ thần như thế. Do vậy, với tâm thức về hình ảnh các Mẫu đã được định hình từ trước đó, trên bước đường vào vùng đất Nam Bộ để khẩn hoang, cộng đồng người Việt đã mang theo những giá trị văn hóa đó (hình ảnh các Mẫu) vào vùng đất mới. Song, đó chỉ mới là điều kiện cần, bởi lẽ điều kiện đủ chính là sự khó khăn thuở khai hoang vùng đất mới. Chính những rào cản về mọi mặt trong việc thích ứng nơi đất mới đã tiếp thêm “động lực” để thúc đẩy quá trình đa dạng hóa các Mẫu, từ đó, tính thiêng trong quan niệm và nhận thức về các Mẫu đã được đẩy lên cao tột độ trong tâm thức cư dân Việt vùng Tây Nam Bộ. Ngày nay, khi mà Tây Nam Bộ đã dần thay da đổi thịt, giá trị tâm linh trong hình tượng các Mẫu vẫn còn hiện hữu trong tâm thức những người dân vùng đất mới. Con người tìm đến các Mẫu để thỏa mãn những ước nguyện về tinh thần trong đời sống hiện đại. Đây cũng là cơ sở cho sự hình thành các loại hình du lịch mới ở Tây Nam Bộ. Do vậy, có thể xem giá trị tâm linh trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ chính là một giá trị văn hóa bền vững và có tính kế thừa sâu sắc, liên tiếp từ quá khứ đến hiện tại và có lẽ là cả trong tương lai.

(3.2)    Ở giá trị tính cách, tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ phản ánh tính mở, thoáng trong tính cách người Việt. Cũng là cộng đồng người Việt, nhưng người Việt vùng Tây Nam Bộ nói riêng và vùng Nam Bộ nói chung lại có những nét khác biệt so với người Việt vùng Trung Bộ và Bắc Bộ. Thông qua hệ tọa độ K-C-T, Trần Ngọc Thêm đã chỉ ra 4 hằng số có liên quan mật thiết đến việc cấu thành tính cách người Việt vùng Tây Nam Bộ [Trần Ngọc Thêm 2014: 645-646]:

+ Với hằng số K:gồm hai tiểu hằng số (K1) (K2), trong đó (K1): Tây Nam Bộ là nơi gặp gỡ của những điều kiện tự nhiên thuận tiện mà cũng có phần khắc nghiệt, (K2): Đây cũng là nơi gặp gỡ của các tuyến giao thông sông biển quốc tế.

+ Với hằng số C:Tây Nam Bộ là nơi gặp gỡ (quần cư – HTP chú giải) của nhiều cư dân tộc người đến từ khắp mọi miền đất nước và trong khu vực. Hằng số C có liên quan mật thiết đến việc tạo nên cốt cách rất Nam Bộ của người Việt nơi đây: mạnh mẽ, ngang tàng, hay nói như Trần Ngọc Thêm là: “những con người dương tính nhất trong số những người Việt Nam âm tính”.

+ Với hằng số T:Văn hóa Tây Nam Bộ là sản phẩm của quá trình dương tính hóa trên đồng thời cả 3 yếu tố K-C-T, nói cách khác, những lưu dân Việt vào vùng đất này chính là những con người Bắc Bộ và Trung Bộ dương tính nhất.

Chính 3 yếu tố đó đã dẫn đến hệ tính cách của người Việt vùng Tây Nam Bộ. Chúng bao gồm: Tính sông nước – tính trọng nghĩa – tính bộc trực – tính bao dung – tính thiết thực – tính mở thoáng. Trong tổng số 6 tính cách đó, khi lấy tín ngưỡng làm hệ quy chiếu, tôi đặc biệt quan tâm đến tính mở thoáng, bởi lẽ ẩn trong sự hình thành các hình thức Mẫu chính là đặc trưng nổi trội“mở, thoáng” trong tính cách của người Việt. Vì lẽ đó, ở Tây Nam Bộ, sự hiện diện đồng thời của rất nhiều các hình tượng nữ/ Mẫu thần mang đậm tính phi hệ thống, điều này trái ngược với tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ khi mọi thứ đều có lớp lang rõ ràng (đặc biệt là trong hệ thống điện thờ).

Tính mở thoáng có thể hiểu một cách khái quát là thái độ không bảo thủ, ủng hộ cái mới; dùng để chỉ trạng thái dễ tiếp nhận, hòa nhập nó vào trong một chỉnh thể, một hệ thống mà nó là một phần trong đó. Thật ra, nếu đi sâu vào đặc trưng tính cách này, đó là một hệ thống các giá trị thành tố con, có quan hệ mật thiết, tương liên với nhau. Song vì trong nội dung bài viết không phải tập trung vào vấn đề này mà do vậy, tôi không đi sâu vào phân tích hệ tính cách văn hóa.

Quay lại với tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ, sự mở thoáng trong tính cách của người Việt chính là tiền đề cho việc dễ dàng tiếp nhận các giá trị văn hóa tộc người. Sự hỗn dung văn hóa tộc người sẽ được đề cập sau hơn ở đặc điểm tiếp theo, tuy nhiên, tôi muốn nói rõ điều này là bởi vì sự hỗn cư không đồng nghĩa với sự hỗn dung văn hóa. Hỗn cư chỉ là điều kiện cần, nhưng điều kiện đủ phải là tính cách mở thoáng của người Việt. Hai chất xúc tác này cũng xảy ra đồng thời mới tạo ra một biểu hiện đa sắc, đa dạng của tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Nam Bộ. Nói đến đây, ta lại quay về với giá trị tâm linh ở trên, mối quan hệ giữa chúng đã dần hiện ra. Người ta sẵn sàng chấp nhận thỉnh một pho tượng trên núi đem xuống vùng đồng bằng, sẵn sàng đem bức tượng đó (vốn là nam thần) để khoác lên đó bộ đồ của một vị nữ thần. Chẳng những thế, người ta còn tôn sùng và truy tôn vị nam thần đó làm “Chúa Xứ Thánh Mẫu”. Rõ ràng, nếu đặc trưng về tính cách không có yếu tố mở thoáng như đã nói, cả quá trình đó sẽ không thể diễn ra.

Tóm lại, đứng ở không gian 3 chiều từ hệ tọa độ K-C-T để xem xét, ta thấy tính mở thoáng trong tính cách người Việt vùng Tây Nam Bộ hình thành là hoàn toàn có cơ sở. Với vai trò là một biểu hiện trong đời sống tín ngưỡng của người Việt, tín ngưỡng thờ Mẫu cũng đã phản ánh đặc trưng tính cách đó. Về giá trị và đặc điểm này, tôi nhận thấy nó lại tiếp tục có mối quan hệ biện chứng với giá trị tiếp theo: “giá trị giao thoa văn hóa” – với đặc điểm phản ánh tính giao lưu và tiếp biến văn hóa đa tộc người vùng Tây Nam Bộ.

            (3.3)    Ở giá trị giao thoa văn hóa, tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ phản ánh tính giao thoa văn hóa đa tộc người của cộng đồng người Việt với người Hoa – Chăm – Khmer. Trong lịch sử của nhân loại, di dân (migration) là một hiện tượng phổ biến. Có người cho rằng nó không chỉ là một hiện tượng mang tính xã hội, mà còn thể hiện quá trình phát triển tộc người [Ngô Văn Lệ 1994]. Sự di dân ở đây thường bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, có thể do kinh tế, chính trị, xã hội…[2]

            Vùng đất Tây Nam Bộ chính là nơi đón nhận đồng thời nhiều đợt di dân của các tộc người khác nhau. Người Việt có, người Chăm Islam có, người Khmer và người Hoa cũng vậy. Chính việc lựa chọn chung một điểm đến trong những đợt di dân như vậy đã tạo ra một không gian cư trú đa tộc người. Sự hỗn cư này đã kéo theo sự giao lưu và tiếp biến văn hóa (hỗn dung văn hóa). Thêm vào đó, các tộc người này lại gặp nhau ở một điểm chung khác, đó là trong văn hóa của các tộc người vốn dĩ đã tồn tại loại hình tín ngưỡng thờ Mẫu. Do đó, sự hỗn dung văn hóa tín ngưỡng, mà cụ thể ở đây là tín ngưỡng thờ Mẫu đã diễn ra như một quy luật tất yếu.

            Thực tiễn cho thấy, sự hỗn dung tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt là mang tính đơn chiều – người Việt tiếp nhận văn hóa tín ngưỡng của các tộc người còn lại. Trong khi đó, những tộc người kia lại ít có sự tiếp nhận văn hóa tín ngưỡng của người Việt. Lí giải việc này là một quá trình, một sự phân tích khá rườm rà. Do đó, trong khuôn khổ bài viết này, tác giả chỉ tập trung vào xem xét tính hỗn dung văn hóa theo hướng người Việt tiếp nhận tín ngưỡng thờ Mẫu của các tộc người kia. Trong một bài viết của mình, nhà nghiên cứu Phan An từng chỉ ra một đặc điểm có liên quan mật thiết đến giá trị giao thoa văn hóa, đó chính là tính tích hợp và dung hợp. Vậy tích hợp biểu hiện như thế nào và dung hợp được hiểu ra sao?

            + Thứ nhất, tính tích hợp của tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt thể hiện ở các dạng thức thờ Mẫu, bên cạnh đó là chỉ khía cạnh các lớp văn hóa ẩn chứa trong hình tượng của các Mẫu. Ngô Đức Thịnh từng chỉ ra sự hình thành nên tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ chính là sự cấu thành của ba tầng bậc: Thờ Nữ thần, Mẫu Thần và Mẫu Tam phủ, Tứ phủ [Ngô Đức Thịnh 2009: 52]. Mặt khác, ở mỗi vị Mẫu thần của Nam Bộ nói chung, việc bóc tách các lớp văn hóa ẩn chứa trong hình tượng của từng vị sẽ cho ta thấy tính đa lớp trong sự cấu thành nên tổng thể hình tượng các Mẫu. Sự tích hợp ở đây thực ra cũng có thể quan sát được thông qua các truyền thuyết liên quan đến nguồn gốc của các vị Mẫu – vị trí và sự phối thờ của các vị Mẫu trong điện thờ – bản chất và diễn trình của lễ hội liên quan đến các Mẫu… Thông qua những cách tiếp cận đó, tính tích hợp các giá trị văn hóa của các tộc người sẽ hiện ra một cách rõ nét.

            + Thứ hai, về tính dung hợp, đặc tính này lại liên quan đến thái độ ứng xử của người Việt với các giá trị văn hóa tộc người Chăm-Khmer-Hoa. Theo Phan An, ông cho rằng trong số 3 vị Thánh Mẫu tối thượng của vùng Nam Bộ nói chung (Bà Chúa Xứ-Bà Đen-Bà Thiên Hậu) thì Bà Thiên Hậu là vị Mẫu thần thể hiện rõ nét nhất tính dung hợp. “Bà Thiên Hậu đã theo chân những di dân người Hoa đến vùng đất Nam Bộ và gia nhập vào điện thờ các nữ thần, các Bà (ý chỉ các Mẫu – HTP chú giải) ở đây. Bà Thiên Hậu không chỉ được người Hoa ở Nam Bộ thờ cúng rộng rãi, mà còn được người Việt tôn sùng” [Phan An 2014: 14].

            Trong một công trình gần đây của mình[3], tác giả đã thực hiện việc đối sánh ba vị Nữ thần tối cao của vùng đất Nam Bộ thông qua việc xác lập các tiêu chí đối chiếu nhằm tìm ra những nét tương đồng, khác biệt giữa các vị Mẫu. Kết quả cho thấy, thông qua những tiêu chí đó, ta tìm thấy nguồn gốc của các vị Mẫu đã có sự tiếp xúc, giao thoa văn hóa của các vị Mẫu. Song, một điều may mắn là với đặc điểm tính cách thoáng mở như đã đề cập ở trên, người Việt đã chấp nhận kết hợp tất cả các giá trị văn hóa cùa tộc người để dung hòa, tạo nên những hình tượng Mẫu tuy mới mà cũ. Đó là những Bà Chúa Xứ, Bà Đen và đâu đó là cả Bà Thiên Hậu. Với lý do đó, cần thấy được sự hỗn dung tộc người ở đây chính là yếu tố tiên quyết, chi phối mạnh mẽ đến việc hình thành các hình tượng Mẫu, tạo nên một tín ngưỡng thờ Mẫu rất Nam Bộ. Thông qua tín ngưỡng thờ Mẫu, ta thấy rõ văn hóa Tây Nam Bộ chính là thành quả của sự kiến tạo văn hóa các tộc người trên khắp vùng miền trong nhiều thế kỷ qua. Thấy được giá trị văn hóa của người Việt vùng đất Tây Nam Bộ là góp phần vào việc nhận thức thêm bề sâu và bề dày của của văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa Tây Nam Bộ nói riêng.

(3.4)    Ở giá trị nhận thức, tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ phản ánh nhu cầu thiết thực của người dân vùng đất mới. Thông thường, khi đề cập đến mảng tôn giáo tín ngưỡng, người ta thường nhắc đến một thế giới tâm linh đầy những khát vọng vượt ra ngoài đời sống trần tục. Marx đã từng nói: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”. Ở tôn giáo tín ngưỡng, các tín đồ tìm đến các bậc thần linh để làm chỗ dựa tinh thần khi gặp những khó khăn, trở ngại trong đời sống. Với tín ngưỡng thờ Mẫu cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, những khát vọng, ước nguyện của cộng đồng cư dân Việt vùng Tây Nam Bộ lại được phản ánh một cách chân thực trong thực tiễn; nói cách khác, nhận thức, tư duy và quan niệm của người Việt vùng Tây Nam được thể hiện rất rõ trong lối ứng xử bên ngoài, có thể quan sát được bằng mắt thường. Chúng là những giá trị thực tế được nảy sinh do quá trình tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội. Chẳng hạn, không phải ngẫu nhiên mà hai vị Chúa Xứ Thánh Mẫu và Linh Sơn Thánh Mẫu lại được đặt ở hai ngọn núi của vùng Nam Bộ (núi Sam cao 287 mét, núi Bà Đen cao 986 mét). Vị trí đó mang ý nghĩa giúp các Mẫu có thể bao quát được không gian mình cư ngụ, giúp đỡ và bảo vệ cộng đồng cư dân địa phương.

Mặt khác, phải nói rằng tín ngưỡng thờ Mẫu là một loại hình tín ngưỡng đang có xu hướng “trẻ hóa”[4]. Nếu những tôn giáo, tín ngưỡng khác thường hướng con người đến đời sống ở bên kia thế giới (tức sau khi chết đi), thì tín ngưỡng thờ Mẫu lại đi ngược lại với quy luật đó. Hằng ngày, hằng giờ người ta nghĩ đến Mẫu, tìm đến Mẫu để được thể nghiệm bản thân mình trước các Mẫu, cầu mong sự phù hộ, độ trì và chở che của các Mẫu đối với sức khỏe, công việc, niềm vui cuộc sống… Tôi cho rằng đấy là tính thực dụng, thể hiện rõ đặc trưng mong muốn được đáp ứng nhu cầu tinh thần một cách thiết thực. Ở tầm khái quát hơn, đó chính là sự biến đổi giá trị nhận thức của cư dân vùng đất mới. Việc đi theo thời đại đã làm cho luôn biến đổi, làm cho “mới” hơn để thích nghi.

Vì những biểu hiện đó, do vậy, giá trị nhận thức của cư dân vùng Tây Nam Bộ là một dấu ấn rất rõ nét, thể hiện quá trình chuyển đổi nhận thức từ tâm linh sang chú trọng thực tiễn. Sẽ là có lý nếu cho rằng giá trị nhận thức thực dụng này tạo ra sự mâu thuẫn với giá trị tâm linh (giá trị thứ nhất được phân tích ở trên). Tuy nhiên, tôi cho rằng mối quan hệ giữa chúng là rất khắng khít và không hề mâu thuẫn lẫn nhau. Bởi lẽ, tính thiết thực và tính tâm linh là hai phương diện trong một vấn đề. Niềm tin tâm linh là cơ sở cho con người tạo ra một khoảng không trong tâm trí để đáp ứng nhu cầu thực dụng (thông qua thao tác cầu xin); trong khi đó, tính thực dụng lại là nền tảng để hướng con người tìm đến các Mẫu (tìm đến các Mẫu tức là tìm đến các giá trị tâm linh).

  (3.5) Ở giá trị về giới, vai trò của người phụ nữ vùng Tây Nam Bộ được đề cao. Với bản chất là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, vai trò của người phụ nữ trong đời sống sinh hoạt lẫn vật chất và tinh thần đều rất được đề cao. Nho giáo đã có những đóng góp hết sức to lớn vào sự phát triển của văn hóa truyền thống của Việt Nam trên các lĩnh vực như tư tưởng (ngọn cờ cho các vương triều phong kiến xây dựng thể chế quân chủ), về đạo đức (tạo sự tu thân cho vua chúa, quan lại, bàn dân thiên hạ), hay về tôn giáo (tạo ra những điển chế, nghi lễ, nghi thức cho một hình thức tôn giáo phương Đông đặc thù – Kính thiên tế tổ). Tuy vậy, cũng chính Nho giáo trong một thời gian trong lịch sử văn hóa dân tộc đã có những quan điểm, tư tưởng xem nhẹ, khinh thường vai trò của người phụ nữ. Chẳng hạn như: “Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử” hay như “Chỉ hạng đàn bà và tiểu nhân là khó dạy. Gần thì họ nhờn, xa thì họ oán” – Luận ngữ… Tuy nhiên, lịch sử Việt Nam đã không dưới một lần “chứng kiến” vai trò vô cùng quan trọng của người phụ nữ không chỉ đối với sinh hoạt đơn thuần trong cộng đồng, mà họ còn có ảnh hưởng rất lớn đến với cả vận mệnh dân tộc Việt Nam. Những vị nữ tướng, công chúa nổi danh chúng ta có thể liệt kê như: Hai Bà Trưng, Bà Triệu Thị Trinh, Huyền Trân Công chúa, Công nữ Ngọc Vạn, … đều là những minh chứng hùng hốn cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam đảm đang, dũng cảm, bất khuất. Đó có lẽ là những hình ảnh thể hiện rõ nét nhất tính dân tộc của bản sắc văn hóa nước ta. Bản lĩnh văn hóa truyền thống của dân tộc đã thể hiện rõ khi tiếp nhận Nho giáo, xem nó như một hệ tư tưởng để quản lý đất nước, song việc tiếp nhận giá trị Nho giáo là có mức độ, quan niệm cho rằng văn hóa Việt Nam chịu chi phối bởi Nho giáo một cách cực đoan là không có cơ sở.

Ở Tây Nam Bộ, sự chung lưng đấu cật trong buổi đầu khai hoang, bất phân tuổi tác – giới tính càng tạo thêm điều kiện cho người phụ nữ thể hiện vai trò to lớn của mình. Có một điều cũng khá thú vị, tuy không nằm trong phạm vi bài viết nhưng tôi cũng muốn nói sơ qua, đó chính là vị thế của người phụ nữ trong xã hội (không còn xét dưới phạm vi từ góc nhìn tín ngưỡng thờ Mẫu). Cũng đồng thời là người phụ nữ người Việt, nhưng vị thế của ngưởi phụ nữ Nam Bộ lại được khu biệt hoàn toàn với chính họ nhưng trong không gian văn hóa Bắc và Trung Bộ. Phạm Đức Mạnh trong một báo cáo của mình, đã khảo sát về hệ thống các mộ của những nữ quý tộc ở Nam Bộ. Kết quả cho thấy: số lượng mộ dành cho các vị phu nhân của những vị quan địa phương được chôn cất theo dạng song táng (chôn cạnh chồng) là không hề ít. Thêm vào đó, họ còn sử dụng chữ “lăng” để chỉ những phần mộ của họ. Điểu này được xem là đại kị khi khái niệm “lăng” chỉ được dùng để chỉ nơi yên nghỉ của các bậc đế vương mà thôi. Ở đây, sự thoát thai những quan niệm về lễ nghi, vị thế của Nho giáo lại góp phần làm rõ tính mở thoáng trong tư duy và tính cách của người Việt.

Tiếp cận dưới góc độ lý thuyết giới và tôn giáo, Phan Thì Yến Tuyết nhận định: “… Rõ ràng ở nơi cư trú, nơi mưu sinh càng nhiều bất trắc, tai ương thì hệ thống thần linh của các tín ngưỡng tôn giáo ấy càng dày đặc, càng chứng tỏ môi trường sinh thái nơi đó nhiều hiểm họa… Ở những nơi vai trò của nam và nữ bình đẳng trong đời sống hàng ngày thì nữ thần nổi trội trong các câu chuyện về tạo hóa với biểu tượng phụ nữ thống lĩnh về sinh sản, sáng tạo và tiến hóa, bắt nguồn từ trong những yếu tố như nước và đất.” [Phan Thị Yến Tuyết 2014: 69-84].

Vì vậy, có thể nói giá trị về giới đã được người dân tuyệt đối hóa trong không gian văn hóa vùng Tây Nam Bộ. Người phụ nữ trong suốt chiều dài lịch sử đã chung tay với nam giới để gầy dựng nên một vùng đất Tây Nam Bộ trù phú như ngày hôm nay. Những gì họ đã làm đều được xã hội ghi nhận công lao một cách bình đẳng. Yếu tố giới đã thoát khỏi những quan niệm về Nho giáo, đây là nét đặc trưng để khu biệt với văn hóa Bắc và Trung Bộ.

(4) Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Tây Nam Bộ là một sản phẩm văn hóa vừa cũ nhưng cũng vừa mới. Đây là sản phẩm được hình thành trên cơ sở kế thừa có biển đổi từ tín ngưỡng thờ Mẫu ở Bắc Bộ. Trong rất nhiều những yếu tố chi phối đến sự hình thành loại hình tín ngưỡng này, người Việt chính là chủ thể văn hóa, đóng góp vai trò to lớn trong việc kế thừa và biến đồi để tạo ra những vị Mẫu “rất Nam Bộ”.

Tổng kết một vài đặc điểm về giá trị văn hóa của người Việt ở vùng Tây Nam Bộ, ta thấy nổi trội hơn cả là yếu tố lịch sử-văn hóa. Chính hai yếu tố này là nguồn gốc để hình thành nên nhiều đặc điểm biểu hiện về đời sống tín ngưỡng của cư dân. Dùng tín ngưỡng thờ Mẫu như một lăng kính, ta tìm thấy những ánh xạ văn hóa được phản chiếu thông qua lăng kính này. Năm giá trị được chỉ ra bao gồm: Giá trị tâm linh – giá trị tính cách – giá trị giao thoa văn hóa – giá trị nhận thức – giá trị về giới đã được thể hiện một cách sinh động thông qua những đặc điểm của chúng ở bên ngoài. Trong khuôn khổ một bài viết ngắn, tôi không dám gọi chúng là một hệ giá trị văn hóa, bởi lẽ để trở thành hệ giá trị, cần tập trung làm rõ hơn tính tương tác hai chiều giữa các giá trị đó. Trong năng lực hạn hữu của mình, cá nhân tác giả chỉ muốn góp thêm một tiếng nói nhỏ vào việc khẳng định một sự thật: Tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt Tây Nam Bộ mang những sắc thái rất riêng, xứng đáng là một phần của bản sắc văn hóa Việt Nam nói chung. Góp phần tìm hiểu tín ngưỡng thờ Mẫu vùng Tây Nam Bộ cũng có thể xem là đóng góp một phần vào việc nghiên cứu giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tôi cho là vậy./.

0