18/06/2018, 16:05

Loạn 12 sứ quân: cuộc nội chiến 20 năm

Nguyễn Ngọc Lanh Các hào trưởng bản xứ và cuộc giành giật chức Tiết Độ Sứ Thời kỳ tự chủ và kỷ nguyên độc lập của dân tộc ta mở ra từ cuối triều Đường, nhân bên Tàu có loạn “ thập quốc, ngũ đại ” (mười nước, năm đời). Đây là cơ hội ngàn năm có một – theo đúng nghĩa. Tuy ...

Nguyễn Ngọc Lanh

Các hào trưởng bản xứ và cuộc giành giật chức Tiết Độ Sứ

Thời kỳ tự chủ và kỷ nguyên độc lập của dân tộc ta mở ra từ cuối triều Đường, nhân bên Tàu có loạn “thập quốc, ngũ đại” (mười nước, năm đời). Đây là cơ hội ngàn năm có một – theo đúng nghĩa. Tuy nhiên, chỉ có thể nắm bắt được cơ hội nếu tình hình trong nước đã có đủ các điều kiện cần thiết. Đó là nhiều người Việt đã tự gây dựng được thế lực, đủ sức tranh giành chức Tiết Độ Sứ.

Cuối thời Bắc Thuộc, nước ta vẫn có tên Tĩnh Hải Quân do triều Đường đặt. Tên gọi này có từ năm 866 kéo dài trên trăm năm, cho đến khi Đinh Tiên Hoàng đổi thành Đại Cồ Việt (968). Người đứng đầu Tĩnh Hải Quân là Tiết Độ Sứ, đóng ở Đại La; dưới quyền ông này là 12 thứ sử đứng đầu các châu. Tất cả, đều do nhà Đường cử sang.

Về chức Tiết Độ Sứ

Năm 722, trước loạn An-Sử, nhà Đường chia đất nước thành 15 “đạo”, trong đó đạo ở cực nam có tên Lĩnh Nam (gồm Quảng Đông và một phần Quảng Tây hiện nay), thủ phủ là thành Quảng Châu. Đứng đầu một đạo là Tiết Độ Sứ, phụ trách quân sự và hành chính. Phía nam đạo Lĩnh Nam, còn một vùng đất được nhà Đường gọi là Tĩnh Hải Quân, coi như một đạo ở phiên trấn, cũng cử người sang làm Tiết Độ Sứ. Khi nước ta giành được quyền làm chủ, lãnh tụ Khúc Thừa Dụ (905) vẫn giữ tên Tĩnh Hải Quân, vẫn tự nhận là “Tiết Độ Sứ” và mong mỏi lớn nhất là được vua Tàu công nhận bằng một sắc phong. Ý thức dân tộc bị kìm nén là hậu quả đô hộ 300 năm đằng đẵng của nhà Đường.

Tĩnh Hải Quân lúc rộng nhất gồm 12 châu, trong đó 4 châu phía bắc – nay nằm vĩnh viễn trong đất Trung Quốc; còn 8 châu phía nam (tới Hà Tĩnh) nay vẫn là đất nước ta.

Các mốc về ý thức dân tộc:

– Ngô Quyền (939) không tự xưng là Tiết Độ Sứ, mà xưng Vương

– Đinh Bộ Lĩnh (968) không xưng vương, mà xưng Đế, lấy tên nước là Đại Cồ Việt.

Tuy nhiên, khi nhà Tống cấp sắc phong, vẫn chỉ gọi Đinh Bộ Lĩnh là Vương; vẫn chỉ phong cho Đinh Liễn làm Tiết Độ Sứ, vẫn gọi nước ta là Tĩnh Hải Quân. Vua ta vẫn phải nhận.

Cho đến tận đời Lý…   

Về hào trưởng

Những người có thế lực trong các châu được gọi là hào trưởng, có thể do uy tín mà được cử (kiêm) luôn cả chức thứ sử. Cũng có thể một thứ sử được cử tới, rồi do “cha truyền, con nối” nhiều đời mà tự gây thế lực để thành hào trưởng (Việt-hóa). Hào trưởng có điền địa riêng, có dân riêng, quân đội riêng và quyền tự quản lãnh thổ. Cũng cha truyền, con nối. Vùng đất của hào trưởng nằm trong một châu, nhưng có khi gồm cả một châu, nhất là những châu ở xa trung ương (châu Ái của Dương Đình Nghệ, châu Phong của Kiều Công Tiễn)… Sau này, khi Ngô Quyền giành độc lập, ông vẫn dùng tên nước như cũ, vẫn  phong chức thứ sử cho những người có công; ví dụ, cho Đinh Công Trứ (sinh ra Đinh Bộ Linh) làm thứ sử Hoa Lư – thuộc châu Trường. Những hào trưởng tham gia trận Bạch Đằng, hoặc đóng góp binh-lương – ngoài việc vẫn là hào trưởng – còn được phong thêm lãnh thổ, giao chức và tặng tước (cao nhất là tước “công”, dưới đó là tước “hầu”…).  Tước vương thời ấy chỉ dành cho vua.

Tình trạng phân tán quyền lực thời xa xưa là đương nhiên ở mọi nước (nước ta, đến đời Lý, Trần vẫn chưa hết hẳn sự cát cứ ở miền thượng du, biên viễn). Đó là do trình độ tổ chức xã hội còn thấp, chính quyền trung ương (đóng ở thành Tống Bình, sau đối là Đại La) chưa đủ lực lượng để vươn bàn tay quản lý rộng khắp, mà chỉ đủ sức đòi hỏi các hào trưởng tuân phục, nộp đủ thuế, thóc, sản vật. Và phải góp đủ quân, lương – khi chính quyền trung ương cần chinh phạt những nơi dám cưỡng lệnh.

Cuối thời Bắc Thuộc, ở Tĩnh Hải Quân đã xuất hiện nhiều hào trưởng gốc Việt, hoặc từ Hán tộc bị Việt-hóa. Khi bên Tàu có loạn, chưa thể cử Tiết Độ Sứ sang ngay (Đại La bỏ trống), nhân đó một hào trưởng người bản xứ đã kịp chiếm lấy và xưng Tiết Độ Sứ. Rồi sau đó, dẫu các vị hào trưởng bản xứ giành đi, giật lại chức này, nhưng không để người Hán có cơ hội lấy lại. Lịch sử đã nói đầy đủ các sự kiện về thời tự chủ, với các nhân vật: họ Khúc, Dương Đình Nghệ, Kiều Công Tiễn, Ngô Quyền. Tất cả, đều là các hào trưởng người bản xứ. Nếu không thế, tình hình sẽ diễn biến theo hướng khác.

Về “loạn 12 sứ quân”

Rất nhiều tư liệu lịch sử, khá chi tiết, về Loạn 12 sứ quânThập nhị sứ quân. Nội dung những sự kiện lớn khá thống nhất, ví dụ, diễn biến, danh sách sứ quân, tự xưng là gì, hành trạng và sự nghiệp mỗi vị ra sao…

Đại cương, có thể, tóm tắt tình hình diễn biến như sau: Ngô Quyền trước khi mất, đã ký thác ấu vương cho Dương Tam Kha, nhưng ông này lại đoạt ngôi, bị hào trưởng khắp nơi coi là không chính thống. Họ nổi dậy chống lại. Dù sau đó, Dương Tam Kha bị truất quyền, việc hai con của Ngô Vương (Ngô Xương Ngập và Ngô Xương Văn) lên ngôi – tuy rất chính thống – nhưng “loạn” vẫn không dứt. Hai vua vẫn phải đích thân cầm quân đi dẹp vài nơi còn chống đối, trong đó sự chống đối sớm nhất, kéo dài nhất và nguy hiểm nhất là do Đinh Bộ Lĩnh. Vua không đánh nổi. Khi hai vua lần lượt mất (do bệnh, do tử trận) “loạn” lại càng bùng phát, nhưng bị dẹp yên nhờ công lao của Đinh Bộ Lĩnh. Đất nước thống nhất, lòng người quy tụ, đúng lúc bên Tàu nhà Tống cũng thống nhất đất nước và âm mưu xâm lược. Quả nhiên, chúng đã xâm lược và lập tức bị đánh bại (981).

Những chi tiết nay có thể nhận định khác

Nhiều chi tiết thời nay có thể nhận định khác với những gì viết trong Sử. Vài ví dụ.

     1) Sứ quân: từ không xấu

Một nhân vật Tam Quốc rất được tôn kính đã được gọi là “sứ quân” (“Lưu sứ quân”, tức Lưu Bị) . Khi gọi một ông tướng mà mình kính trọng, người ta cũng dùng “tướng quân”. Nhưng văn phong một số bài viết về giai đoạn “loạn 12 sứ quân” khiến người đọc có cảm giác sứ quân là kẻ thích gây loạn. Thực tế, không ai (trong số 12 vị) tự xưng là sứ quân, mà là các nhà sử học hậu thế gọi (một cách kính trọng) như vậy. Thực tế, họ bị tấn công, chiến đấu tới cùng, dũng cảm chịu chết, không đầu hàng. Đến nay, nhiều đền thờ họ vẫn nghi ngút khói hương.

     2) Hào trưởng thời loạn, nhưng không phải sứ quân

Sử sách kê ra 12 sứ quân, hầu hết xuất thân từ hào trưởng hoặc tướng tá của triều Ngô (được cử trấn nhậm ở vùng đất nào đó…). Nhưng số hào trưởng và tướng tá thời đó nhiều gấp bội con số 12. Khổ nỗi, thế và lực đều yếu, cai quản nơi biên viễn (đất rộng, người thưa, nghèo nàn), chỉ dám nghe ngóng “ai mạnh thì theo”, cốt giữ lấy những gì đang có; do vậy lịch sử không thèm biết tới.

     3) Những sứ quân chỉ lo giữ cơ nghiệp

Họ chính thức có tên trong danh sách 12 sứ quân, nhưng không gây “loạn”. Sử sách không có một chữ nào thể hiện họ gây hấn với láng giềng, còn nói gì ý đồ bành trướng hay thôn tính ai. Họ chỉ lo giữ cơ nghiệp hiện có. Rốt cuộc, họ bị tấn công, bị tiêu diệt, chứ không hàng. Về nhân cách, họ rất cao cả nếu so với kẻ vô cớ tấn công họ.

     4) Sứ quân bảo vệ chính thống

Đó là các vị tướng được Ngô Quyền và Ngô Xương Văn cử trấn nhậm vùng xung yếu, nhất là quanh kinh đô Cổ Loa. Hành động của các vị này chủ yếu là chống mọi thế lực xâm phạm Cổ Loa và cố giữ yên nới trấn nhậm. Có thể kể Đỗ Cảnh Thạc, Phạm Bạch Hổ, Ngô Nhật Khánh, Ngô Xương Xí. Khi ngôi chính thống bị đe dọa rơi vào tay ngoại tộc, họ tự thấy mình cấn hành động. Cũng có thể họ tự thấy mình xứng đáng với ngôi vua hơn và đứng ra tranh chấp. Điều này nếu xảy ra, chỉ gói trong phạm vi Cổ Loa, chỉ nhất thời, chứ không thể gây “loạn” triền miên cho cả một vùng rộng lớn (như thực tế đã xảy ra hoặc sử sách đã mô tả). Nay, nhét họ vào một “duộc” họ không có cơ hội cãi lại.

Riêng Ngô Xương Xí, thái tử, đủ tư cách chính thống để làm vua, nhưng lại bị gọi là “sứ quân”. Ông này chẳng tự xưng gì, vì yếu thế, trơ trọi, chỉ lo giữ lấy thành Bình Kiều (mỗi cạnh vẻn vẹn 1800 mét), không có hành động nào gây “loạn”. Cái tên “Ngô sứ quân” gán cho ông là không ổn.

     5) Những hào trưởng không dám tự xưng. Trên bản đồ, ta thấy vùng đất của 12 sứ quân chỉ rộng bằng 1/4 hoặc 1/5 cả nước; nhưng đó là cùng đồng bằng sông Hồng, trù phú, đông người. Ngoài vùng đó, các vùng khác hoàn toàn yên ắng, tuy cũng có hào trưởng (tất nhiên), nhưng không ai dám làm “sứ quân”.  

Vị trí chiếm đóng (dọc sông Hồng) của 12 vị bị gọi là "sứ quân"

Vị trí chiếm đóng (dọc sông Hồng) của 12 vị bị gọi là “sứ quân”

     6) Tự xưng danh tước

Khi Ngô Quyền xưng Vương, các nơi đều phục. Một trong những việc đầu tiên, ông ban thường cho người có công (Dương Tam Kha, Lã Xử Bình, Ngô Nhật Khánh, Đỗ Cảnh Thạc, Dương Cát Lợi, Phạm Chuyên…). Về vật chất, những hào trưởng có công có thể được mở rộng lãnh địa; các tướng được trấn nhậm những địa dư trọng yếu hoặc giàu có, hoặc làm quan ở triều đình… Về quyền lực, họ được phong chức (ví dụ, thứ sử, tham mưu). Về vinh dự, họ được phong tước “công” và “hầu”…

Trong danh sách 12 sứ quân, mỗi vị khi “nổi dậy” đều tự xưng tước vị. Tư liệu này cần nhận định lại. Ví dụ, có người xưng là “phòng át”. Đó là một chức không lớn (quân sự) có từ thời Ngô Quyền, sau này khi vua Lê Long Đĩnh công cán xứ Nghệ đã gọi một người giữ chức “phòng át sứ” tới, giao việc.

– Đa số sứ quân đều tự xưng tước “công”. Rất có thể như sau: Đây là tước được Ngô Quyền ban tặng cho từ trước; họ có một cách chính đáng chứ không lạm xưng.

– Có thể, một số chỉ ở tước “hầu”, nay tự xưng là “công”. Theo cách này, một số người vốn chỉ có tước “công” nay tự nống lên “vương” – ngang vua. Có thể đây là những vị có ý đồ nhằm tới ngôi vua (Ngô Nhật Khánh, Nguyễn Thủ Tiệp). Chỉ duy nhất Đinh Bộ Lĩnh chưa hề được phong tước gì, nay “một bước” xưng “vương”, nhưng sử sách không đưa ông vào danh sách sứ quân, mà đặt ông ở vị trí cao hơn cả đám, với sứ mệnh dẹp loạn.

Nguyên nhân gây “loạn”: nhiều nhận định

Thử điểm qua vài nhận định

     – Những nhận định càng “đại thể” càng dễ đúng. Có nhận định cho rằng loạn 12 sứ quân có mầm mống từ tình trạng cát cứ – nghĩa là từ rất xa xưa. Đã cát cứ trước sau sẽ có tranh chấp do ý đồ bành trướng và thôn tính của một số thủ lĩnh mạnh; trong khi các thủ lĩnh yếu chỉ mong giữ được cơ nghiệp. Lý lẽ này “nói chung” là đúng. Nhưng (có lẽ) không nên bàn ở đây, vì ít bổ ích.  

     – Nhận định khác nhau do “thời buối khác nhau”. Theo Đại Việt sử ký toàn thư (1499) thì nguyên nhân đưa đến “loạn” là do Nam Tấn [Vương] mất, các hùng trưởng đua nhau nổi dậy chiếm cứ quận ấp để tự giữ. Các nhà viết sử sau đó (buộc phải) thêm vào: Các sứ quân đánh lẫn nhau. Bởi vì, không “đánh lẫn nhau” làm sao có loạn để Đinh Bộ Lĩnh có cớ chinh phạt?

Xuất bản sau Đại Việt sử ký tới 500 năm, sách giáo khoa lớp 7 (2011) với văn phong rất hiện đại, nội dung rất lập trường (nhân dân làm nên lịch sử) nhận định rằng: Nhà Ngô sụp đổ, cả nước rối loạn, Đinh Bộ Lĩnh đi đánh dẹp, “được nhân dân ủng hộ” đã đánh tan các sứ quân khác… cấm dứt tình trạng cát cứ.

     – Nguyên nhân thật sự là do Đinh Bộ Lĩnh… làm loạn

Hai con Ngô Quyền, sau khi truất phế Dương Tam Kha (cách chức, giáng cấp từ “vương” xuống “công”) lên làm vua, tuy có những chống đối nhưng không lớn, dễ dẹp (ví dụ Chu Thái). Lo nhất của hai vua là sự chống đôi của Đinh Bộ Lĩnh. Nếu vậy, đây là vị sứ quân đúng nghĩa nhất, nổi dậy sớm nhất (khi 2 vua còn tại ngôi) và kéo dài nhất. Hai vua phải đích thân tiến đánh, nhưng không nổi. Hai vua mất sớm là cơ hội để Đinh Bộ Lĩnh chinh phạt, tấn công khắp nơi. Các nơi khác chỉ lo tự giữ… và được gọi là sứ quân. Khi lên ngôi, vua Đinh vẫn phải “nấu vạc dầu ngoài sân”, “nuôi hổ báo trong chuồng” để xử những thế lực chống đối.

Về học thuật, nhiều người không thể bỏ qua nhận định về vua Đinh “làm loạn” trong bài Thập nhị sứ quân. Quả thật, các nhân vật một khi thành công trong mưu đồ “tranh bá, đồ vương” đều được sử sách thời phong kiến tô vẽ thành các vị thánh. Còn dân gian lại sáng tác câu tục ngữ: Được: làm vua; thua: làm giặc.

 

Công trạng

Dù có nhận định coi Đinh Bộ Lĩnh là người gây nội chiến, nhưng công trạng của vua Đinh vẫn rất lớn, nếu xuất phát từ quan điểm coi độc lập dân tộc là tối thượng. Nếu tình trạng cát cứ kéo dài, dù chưa xảy ra kình địch gay gắt thì sức mạnh quốc gia cũng suy giảm, có thể đưa đến mất nước khi bị ngoại xâm. Mà nguy cơ ngoại xâm là có thật, không xa xôi gì. Lê Hoàn chiến thắng giặc Tống là nhờ những kết quả tích cực mà vua Đinh đã tạo ra và để lại. 

 

 Phụ lục: Danh sách sứ quân (theo sử sách)

TT Sứ quân Tự xưng (hoặc được phong?) Chú thích
1 Trần Lãm Trần Minh Công Trần Lãm (?-967) tự xưng Trần Minh Công, là người gốc Hoa, đã việt-hóa từ nhiều đời. Gả con gái và trao lực lượng cho Đinh Bộ Lĩnh. Trong danh sách này, ông đứng số 1, nhưng Đinh Bộ Lĩnh thì đứng ngoài danh sách, để có tư cách dẹp loạn.
2 Ngô Xương Xí   Ngô Xương Xí, thái tử, bị gán cái tên “Ngô sứ quân”, phải bỏ kinh đô, dạt về Thanh Hóa, trơ trọi, lực yếu, phải đầu hàng.
3 Đỗ Cảnh Thạc Đỗ Cảnh Công Đỗ Cảnh Thạc (912-967) gốc Hán, lão tướng trung thành của triều đình. Đáng được Ngô Vương phong tước Công , chống Đinh Bộ Lĩnh đến cùng, tử trận.   
4 Phạm Bạch Hổ Phạm Phòng Át Phạm Bạch Hổ (910 – 972) vốn là tướng nhà Ngô, giữ chức Phòng Át, con danh tướng Phạm Chuyên. Sau hàng phục Đinh Bộ Lĩnh.
5 Kiều Công Hãn Kiều Tam Chế Kiều Công Hãn (?-967) tướng nhà Ngô, có công, được phong chức thứ sử châu Phong Châu (xứng đáng tước “công”). Xưng là Tam Chế, vì tự bành trướng thêm 2 châu khác: Hào và Thái. Thua trận, bị giết.
6 Nguyễn Khoan Quảng Trí Quân Nguyễn Khoan (906 – 967) gốc Hán, Việt-hóa chỉ sau 1 thế hệ. Có công chiêu mộ và huấn luyện dân binh bảo vệ căn cứ và phát triển kinh tế. Được dân tôn là Quảng Trí Quân (vị vua đức lớn, biết rộng). Bị tấn công, chống không nổi, tử trận.
7 Ngô Nhật Khánh – Ngô Lãm Công
– An Vương
Ngô Nhật Khánh (?-979) dòng dõi nhà Ngô, được cử trấn giữ quê hương Đường Lâm, được phong tước “công”, sau xưng vương và tranh chấp ngôi vua. Sau hàng phục nhà Đinh.
8 Nguyễn Siêu Nguyễn Hữu Công Nguyễn Siêu (924-967) anh em ruột với Nguyễn Khoa và Nguyễn Thủ Tiệp. Thế lực rất mạnh, Đinh Bộ Lĩnh phải tấn công hai lần mới kết quả.
9 Kiều Thuận Kiều Lệnh Công Kiều Thuận (?-?) hậu duệ Kiều Công Tiễn, đóng ở châu Phong. Tử trận.
10 Nguyễn Thủ Tiệp – Nguyễn Lệnh Công
– Vũ Ninh Vương
Nguyễn Thủ Tiệp (908 – 967) là một sứ quân mạnh, mở rộng lãnh thổ sang châu Vũ Ninh (tự xưng là Vũ Ninh vương). Thua, chạy vào Nghệ An, tử trận ở đó.
11 Lý Khuê Lý Lãng Công Lý Khuê (?-968) là hào trưởng vùng Siêu Loại, bị tấn công, thua trận, bị giết năm 968.
12 Lã Đường Lã Tá Công Lã Đường hào trưởng vùng Tế Giang. Cố thủ, bị họ Đinh giết.
  Đinh Bộ Lĩnh Vạn Thắng Vương Nổi dậy trước 951 ở Hoa Lư, chống triều đình. Thu nhận lực lưỡng của sứ quân Trần Lãm. Tấn công khắp nơi, cả kinh đô.

Nhưng Lịch Sử không xếp vào danh sách sứ quân.

 

 

0