18/06/2018, 16:05

Lê Duẩn và Trung Quốc 1952-1979

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn Tác giả : Stein Tonnesson* Chuyển Dịch : Nguyễn Phượng Hoàng Đây là Lời Giới Thiệu về một tập tài liệu được viết năm 1979 bởi Lê Duẩn, Tổng Thư Ký của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đầu đề của tập tài liệu là Quan Hệ Trung Quốc và Việt Nam Trong Thời Kỳ ...

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn

Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn

Tác giả : Stein Tonnesson*

Chuyển Dịch: Nguyễn Phượng Hoàng

Đây là Lời Giới Thiệu về một tập tài liệu được viết năm 1979 bởi Lê Duẩn, Tổng Thư Ký của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Đầu đề của tập tài liệu là Quan Hệ Trung Quốc và Việt Nam Trong Thời Kỳ 1952-79. Christopher E. Goscha đã tìm được tập tài liệu này tại Thư Viện Quân Đội ở Hà Nội, sao tay lại, và dịch sơ qua tiếng Anh. Những tờ giấy viết tay của Goscha, và những lời chú thích bằng tiếng Anh được đính kèm theo bài viết này**. (Bản dịch hãy còn là bản nháp sơ thảo và không nên được trích dẫn.)

Tập tài liệu của Lê Duẩn không đề ngày, và tên của tác giả chỉ được viết là “Đồng Chí B”. Tuy nhiên nội dung của bài viết cho thấy bài này được viết năm 1979, có lẽ trong thời gian Trung Cộng xâm lăng miền Bắc Việt Nam trong tháng 2, 1979, và sự xuất bản cuốn bạch thư của Việt Nam về sự quan hệ giữa Trung Cộng và Việt Nam ngày 4 tháng 10 cùng năm (1). Hình như là tập tài liệu này được viết ngay sau khi Đặng Tiểu Bình quyết định ngày 15 tháng 3 năm 1979, rút quân đội Trung Cộng về, sau cuộc xua quân vào mạn bắc Việt Nam để trừng phạt Việt Nam; nhưng trước cuộc đào tẩu qua Trung Cộng của nhà cựu lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam Hoàng Văn Hoan trong tháng 7, 1979.

Làm thế nào chúng tôi biết rằng người viết tập tài liệu này là Lê Duẩn? Trong tập tài liệu, “đồng chí B” cho biết là trong một cuộc họp của Bộ Chính Trị của Đảng Lao Động Việt Nam (ĐLĐVN, tên của Đảng CSVN từ 1951 tới 1976) ông ta được gọi là Anh Ba (Brother Number Three), bí danh mà chúng tôi biết Lê Duẩn dùng. Tập tài liệu này cũng thường nói đến những buổi họp cao cấp giữa các nhà lãnh đạo Trung Cộng và Việt Nam mà tác giả (được nhắc đến trong tập tài liệu này là T, trong tiếng Việt là tôi) đại diện phía Việt Nam có đầy đủ thẩm quyền và ít người khác ngoài Lê Duẩn đã có thể làm những điều đó.

Tập tài liệu có thể được các sử gia dùng để phân tích: a) Những tư tưởng và thái độ của Lê Duẩn, b) tình trạng của nhóm xã hội chủ nghĩa năm 1979, c) hồ sơ về những quan hệ của Lê Duẩn với Trung Cộng trong thời kỳ 1952-79.

Từ quan điểm của một học giả, cách an toàn nhất là dùng tập tài liệu này cho mục đích thứ nhất và thứ nhì vì tập tài liệu có thể được dùng để khai thác như một vật cổ, một bản viết còn lại của quá khứ mà các sử gia đang tìm kiếm để tái tạo lại. Như thế, nó sẽ cho thấy những quan niệm và thái độ của nhà lãnh đạo cao cấp nhất của Việt Nam trong năm khủng hoảng 1979, và một vài phương diện về hiện trạng của phía bên xã hội chủ nghĩa trong thời điểm sôi động đó. Nếu dùng tập tài liệu này như nguồn tài liệu chính về mối quan hệ giữa Lê Duẩn và Trung Cộng (chủ đề được trình bầy trong tập tài liệu) trước đó thì sẽ có vấn đề, vì những gì Lê Duẩn nói, năm 1979, là trong những cơn giận dữ. Vì thế ông ta có khuynh hướng bóp méo sự thật, có lẽ ngay cả việc nói sạo nữa. Vì liên quan đến những sự kiện xẩy ra trong thời kỳ 1952-79, tập tài liệu vì vậy phải được sử dụng một cách tối ư cẩn thận, và được dùng để đối chứng với những tài liệu khác hiện đang có. Hai nguồn tài liệu giống như vậy, kết quả của những cơn giận dữ, là hai cuốn bạch thư xuất bản bởi Việt Nam và Trung Cộng ở cuối năm 1979. Một nguồn tài liệu thứ ba, với hàng loạt các tài liệu tiếp theo từ những năm 1964-77, là một bản nghiên cứu xuất bản bởi ủy ban Dự Án Lịch Sử Chiến Tranh Lạnh Quốc Tế năm 1998: 77 Cuộc Đàm Luận Giữa Trung Cộng và Những Nhà Lãnh Đạo Ngoại Quốc Về Những Cuộc Chiến Tại Đông Dương, 1964-1977 (hiệu đính bởi một nhóm sử gia quốc tế: Odd Arne Westad, Chen Jian, Stein Tunnesson, Nguyễn Vũ Tùng and James G. Hershberg). Sự sưu tầm này bao gồm 77 văn bản của những cuộc đàm luận – hay những đoạn trích – giữa Trung Cộng, Việt Nam và những nhà lãnh đạo khác trong thời kỳ 1964-77 (giả định là được viết xuống ngay sau mỗi cuộc đàm luận, thu gộp, trích đoạn và có thể sửa lại ở những giai đoạn sau đó). Bộ sưu tập bao gồm nhiều cuộc đàm luận mà Lê Duẩn có tham dự. Những nhà hiệu đính 77 cuộc đàm luận này cho biết rằng những bản tường trình sau buổi họp được thu thập từ “những tài liệu văn khố, những tài liệu nội bộ của Đảng Cộng Sản, và những sách vở ấn bản không ngăn cấm và bị ngăn cấm ở Trung Cộng và những quốc gia khác” (nhấn mạnh ở đây). (3) Những nhà hiệu đính không cho biết văn bản buổi họp nào được viết, được trích đoạn và thu gộp ở Trung Cộng và văn bản buổi họp nào ở “những quốc gia khác”. Nó cũng là một điều hữu lý khi một số các văn bản của buổi đàm luận đã được dùng như những tài liệu chính trong việc sửa soạn cho cuốn bạch thư năm 1979, ít nhất cũng ở phía Trung Cộng. Điều này có nghĩa những tài liệu vừa mới được nhắc qua không phải là không liên quan với nhau. Sự kiện này và nguồn gốc không được rõ ràng lắm của 77 văn bản đàm luận có nghĩa chúng phải được dùng một cách cẩn trọng. Nhiệm vụ chính của chúng có lẽ là để cho thấy những điều gì mà các sử gia nên tìm tòi khi được cho phép vào các văn khố của Đảng Cộng Sản Trung Cộng và Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Thái Độ Của Lê Duẩn

Tập tài liệu này đã cho người ta thấy gì về thái độ của Lê Duẩn? Điểm nổi bật nhất của tập tài liệu là nó được trình bầy một cách thẳng thừng và theo cách của một cá nhân. Đây không phải là một tập tài liệu như những tài liệu bình thường của Đảng khi mà những thái độ và những cảm quan cá nhân thường bị bao phủ bởi những lời nhai đi nhai lại thường thấy (4). Lê Duẩn có vẻ như rất tự tin khi nói chuyện với các nhà lãnh đạo khác của Đảng để biện hộ cho những hành động của ông ta khi đối đầu với Trung Cộng, và để đảm bảo sự tiếp tục ủng hộ khi đối kháng lại áp lực của Trung Cộng, có thể phải chống trả một cuộc đại chiến mới. Lê Duẩn tự xưng là “tôi”, nói rõ những người nào phía bên Trung Cộng trong phòng họp bằng tên, và bày tỏ cảm tưởng của ông ta về họ Mao, họ Chu, họ Đặng và những nhà lãnh đạo khác của Trung Cộng. Tác giả rất thích dùng từ “tôi”, và dùng nó ngay cả khi nói về những buổi trò chuyện của ông ta với Hồ Chí Minh. Đây là một điều ngạc nhiên vì xưng “tôi” khi nói chuyện với “bác” thường được coi như là kiêu ngạo. Chữ dùng đúng nhất phải là “cháu”. Trong suốt tập tài liệu, Lê Duẩn là người làm mọi chuyện. Văn phong theo lối nói. Giống như là tập tài liệu đã được kể cho người nào, rồi sau đó được đánh máy lại và cất trong thư viện Quân Đội.

Mặc dù tập tài liệu có lối nói thẳng thừng mới mẻ, nhưng có một điều mà tác giả hầu như không đề cập đến. Ông ta không nói một cách cởi mở về những chia rẽ nội bộ giữa các nhà lãnh đạo Việt Nam. Chỉ có hai nhà lãnh đạo Việt Nam được nhắc tới qua tên là Hồ Chí Minh và Nguyễn Chí Thanh, cả hai chẳng ai sống năm 1979 cả. Không một chữ nào nói về Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Duy Trinh, Xuân Thủy, Hoàng Văn Hoan hay bất cứ một người nào có một vai trò quan trọng trong mối quan hệ xảo trá của Hà Nội với Bắc Kinh (Hanoi’s tortuous relation with Beijing). Sự bất đồng ý kiến trong nội bộ chỉ được nhắc đến một lần. Lê Duẩn tuyên bố là mọi người trong Bộ Chính Trị luôn luôn đồng tâm nhất trí, nhưng chỉ có một người đặt vấn đề với Bộ Chính Trị, đặt câu hỏi tại sao Lê Duẩn lại nói về nhu cầu không phải sợ Trung Cộng. Trong trường hợp đó, theo Lê Duẩn thuật lại, người dám đứng lên ủng hộ Anh Ba là Nguyễn Chí Thanh (vị tư lệnh quân đội Miền Nam Việt Nam, người được coi là ủng hộ những quan điểm của Trung Cộng trước khi chết một cách bất ngờ năm 1967). Người “đồng chí” hỏi câu hỏi quan trọng đó chắc chắn là Hoàng Văn Hoan, và sự kiện ông ta không được nói đến qua tên cho thấy rằng tập tài liệu này đã được viết (hay có lẽ được kể) trước khi người đảng viên lão thành này bỏ trốn qua Trung Cộng tháng 7 năm 1979.

Để có một nền tảng căn bản phân tích tập tài liệu Lê Duẩn, chúng ta trước hết phải đặt cơ sở trên những gì được biết về cuộc đời và sự nghiệp của ông ta (1907-86). Ông ta sinh ở Quảng Trị, Miền Trung Việt Nam, và đảng nghiệp của ông ta dựa trên sự nghiệp chính trị trong Miền Nam Việt Nam. Năm 1920, ông ta là một phu đường rầy, gia nhập Đảng Cộng Sản Đông Dương trong những năm tháng thành lập 1930, và ở tù Pháp từ năm 1931 đến năm 1936. Trong thời kỳ Mặt Trận Bình Dân ở Pháp, ông ta được thả tự do để làm chính trị và tháng 3 năm 1938 trở thành Ủy Viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Đông Dương (6). Năm 1940, ông ta lại bị bắt (cùng với Phạm Hùng và Nguyễn Duy Trinh) và cùng chung nhóm lãnh đạo bị Pháp nhốt ở đảo Côn Sơn trong những năm chiến tranh 1941-1945 (7). Ông ta được thả năm 1945 và trong suốt cuộc chiến tranh Đông Dương thứ nhất, ông ta ở chức vụ Bí Thư Đảng Ủy Nam Bộ (từ năm 1954 Cục Trung Ương Miền Nam Việt Nam), với Lê Đức Thọ là đồng chí thân cận nhất của ông ta. Sau Hiệp Định Geneva năm 1954, ông ta được biết đến qua vụ gửi một bức thư tới các nhà lãnh đạo Đảng để bầy tỏ sự bất đồng ý với Hiệp Định. Năm 1957, sau khi Trường Chinh bị mất chức Tổng Bí Thư Đảng Lao Động Việt Nam và Chủ Tịch Nhà Nước Hồ Chí Minh đảm nhận luôn chức lãnh đạo Đảng, Lê Duẩn được triệu về Hà Nội và được tạm thời đảm nhận chức Tổng Bí Thư. Ông ta là người chính, trong những năm 1975-59, cổ động đấu tranh võ lực ở Miền Nam Việt Nam, và được sự ủng hộ của Liên Sô và Trung Cộng cho chính sách đó. Quyết định của Hội Nghị Trung Ương Đảng thứ 15 tháng 1 năm 1959 đi đến đấu tranh tích cực ở Miền Nam là một sự thắng lợi rõ ràng cho Lê Duẩn, và ở Đại Hội lần 3 Đảng Lao Động Việt Nam năm 1960, ông ta được bầu làm Tổng Bí Thư. Mất hơn 15 năm trước khi Đại Hội Đảng lần 4 được tổ chức năm 1976, và Lê Duẩn chết khi còn tại chức, nửa năm trước Đại Hội 6 năm 1986. Lê Duẩn rõ ràng là người lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam thứ hai nắm hầu hết các quyền lực trong thế kỷ 20 sau Hồ Chí Minh, cha đẻ Đảng Cộng Sản Đông Dương năm 1930, Chủ Tịch Nhà Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1945, và chết năm 1969.

Lê Duẩn phải được xưng tụng như là một nhà lãnh đạo Cộng Sản bản xứ. Ông ta chưa bao giờ, không như Hồ Chí Minh, đi khắp thế giới lúc còn trẻ. Ông ta chưa bao giờ, không như Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp và Hoàng Văn Hoan, sát cánh làm việc với Hồ Chí Minh thành lập mặt trận Việt Minh và Quân Đội Giải Phóng Quốc Gia dọc biên giới Trung Hoa trong suốt thời gian Đệ Nhị Thế Chiến. Ông ta cũng không thuộc phe cánh Trường Chinh, người thiết lập ban bí thư vùng bắc của Đảng Cộng Sản Đông Dương từ năm 1940 cho tới năm 1945, Cách Mạng Tháng Tám. Quyết định của Hồ Chí Minh trao chức lãnh đạo Đảng cho Lê Duẩn năm 1957-1960, và ủng hộ ông ta trong cuộc bầu cử 1960, phải được hiểu như là một cách để đảm bảo sự đoàn kết quốc gia. Ở thời gian mà nước Việt Nam bị chia đôi, và nhiều cán bộ Miền Nam được tập kết ra Bắc, cách hay nhất để bảo đảm Đảng Lao Động Việt Nam cho tất cả người Việt Nam, là đưa một người lãnh đạo Miền Nam lên lãnh đạo toàn Đảng. Giả định đây chính là động lực thúc đẩy đưa đến sự lựa chọn của Hồ Chí Minh. Mối liên hệ giữa Hồ Chí Minh và Lê Duẩn chưa bao giờ được coi là nồng ấm như sự liên hệ giữa “Bác” và những người cháu khác của Bác trong đảng (8).

Tập tài liệu năm 1979 của Lê Duẩn cho thấy rằng ông ta đã pha trộn một niềm tự hào dân tộc cao độ với tư tưởng là người Việt Nam, một dân tộc chuyên đấu tranh, đang đóng vai trò tiên phong của cuộc đấu tranh cách mạng thế giới. Tập tài liệu không cho thấy niềm hâm mộ hay kính phục một dân tộc nào khác ngoài dân tộc Việt Nam, mà chỉ thuần một tư tưởng cho những cuộc tranh đấu cho quốc gia độc lập, cho tất cả mọi dân tộc, lớn hay nhỏ. Niềm tự hào của ông ta lộ rõ trong đoạn văn đầu tiên, khi ông ta nói rằng sau khi “chúng ta” đánh bại người Mỹ, không một đế quốc quyền lực nào dám đánh “chúng ta” nữa. Chỉ có vài tên phản động Trung Quốc “nghĩ là chúng có thể”. Cụm từ “chúng ta” ở đây mang ý nghĩa chúng ta là một nước.

Niềm kiêu hãnh của Lê Duẩn nằm trong luân lý đạo đức tự nhiên, và điểm phân loại căn bản trong luân lý trời đất của ông ta là giữa niềm sợ hãi và lòng can đảm. Ông ta có vẻ như khinh bỉ những người không “dám” chiến đấu. Nếu không có người Việt Nam, ông ta tuyên bố, chẳng có ai dám đánh nhau với người Mỹ cả, vì trong lúc người Việt Nam đánh nhau với người Mỹ, cả thế giới lại “sợ” người Mỹ. Cũng cùng một niềm kiêu hãnh đó lộ rõ trong lời thuật lại của Lê Duẩn khi kể lại một buổi tiếp xúc với Chu Ân Lai ở Hà Nội, ngay sau khi Chu Ân Lai gặp gỡ Kissinger ở Bắc Kinh. Lê Duẩn nói ông ta bảo ông Chu là với một hiệp ước mới giữa người Trung Quốc và người Mỹ, Nixon sẽ đánh “tôi” mạnh hơn nữa, nhưng “tôi không hề sợ tí nào.” Sau đó trong tập tài liệu ông ta lại tuyên bố là “Chỉ có nước Việt Nam là không sợ nước Mỹ.” Ông ta cũng chỉ rõ những người sợ là ai. Người đầu tiên sợ người Mỹ là họ Mao, ông ta tuyên bố. Câu nói nổi tiếng “cọp giấy” không thấy có trong tập tài liệu này. Họ Mao là người lúc nào cũng sợ người Mỹ, khuyên người Việt Nam không nên đánh nhau với người Mỹ, và từ chối không ủng hộ nếu điều này có thể đưa đến việc rủi người Mỹ trả thù lại Trung Cộng. Khi Trung Cộng can thiệp vào ở Đại Hàn, đó không phải là một dấu hiệu can đảm mà chỉ là để bảo vệ quyền lợi của họ.

Lòng hâm mộ sự can đảm của Lê Duẩn lên đến cao độ khi đọc câu sau đây: “Chúng ta không sợ ai cả. Chúng ta không sợ bởi vì chúng ta có chính nghĩa. Anh ta, ta cũng không sợ. Bạn, ta cũng không sợ. Kẻ thù không sợ, đã đánh rồi. Mình là con người; mình chẳng sợ ai cả. Mình độc lập. Cả thế giới biết ta độc lập.”

Ở điểm căn bản của ông ta về sự khác biệt giữa lòng can đảm và sự sợ hãi, Lê Duẩn tuyến bố, là điều khác biệt căn bản giữa chiến lược quân sự của Mao và chiến lược mà người Việt Nam theo đuổi. Chiến lược của Mao ở thế thủ, chiến lược của người Việt Nam ở thế công. Người Việt Nam chưa học được một điều gì về chiến lược quân sự ở người Trung Quốc cả. Trung Quốc lúc nào cũng yếu hèn. Họ hầu như chẳng dám đánh người Nhật. Sau chuyến viếng thăm Trung Cộng đầu tiên (ông ta nói là xẩy ra trong năm 1952), Hồ Chí Minh hỏi ông ta đã thấy gì. Hai điều, ông ta trả lời: “Việt Nam rất can đảm và họ chẳng can đảm tí nào.” kể từ ngày đó trở đi, Lê Duẩn đã hiểu điều khác biệt căn bản giữa người Trung Quốc và người Việt Nam: “Chúng ta khác họ hoàn toàn. Trong mỗi người Việt Nam có một tinh thần hào hùng, và vì vậy chúng ta không bao giờ có thế thủ. Mọi người đều quyết chiến.”

Trong tập tài liệu cũng thấy Lê Duẩn tỏ ra kính trọng hay cảm thông Liên Sô hơn là Trung Cộng, mặc dù không phải lo lắng nhiều về người Nga. Ông ta phiền trách về sự chia rẽ giữa người Trung Cộng và người Nga, và lý do của sự than phiền là điều đó đã làm thế đứng của người Mỹ ở Việt Nam mạnh hơn. Ông ta cũng than phiền là ông ta phải giải thích quá nhiều điều với Trung Cộng, phải qua đó “một năm hai lần”. Và tiếp lời là ông ta không bị như thế với người Nga, và vì vậy ông ta không phải thông báo với họ: “Với người Nga, tôi đã không nói bất cứ một điều gì cả…. Tôi chỉ nói một cách đại khái.” (9)

Một phương diện quan trọng khác trong tư tưởng của Lê Duẩn là ý thức hệ của ông ta đưa đến sự phân biệt một bên là “dân tộc Trung Quốc”, một bên là những người Trung Quốc phản động. Như là đã thấy trước đây, ông ta không có lòng quý mến người Tầu, nói một cách tổng quát, nhưng ông ta cũng không muốn đổ lỗi cho cả dân tộc Trung Quốc vì những chính sách gây hấn của những người lãnh đạo của họ: “Chúng ta chỉ muốn nói đến họ là một tập đoàn (clique). Chúng ta không nói đến tổ quốc của họ. Chúng ta không nói người Trung Quốc xấu với chúng ta. Chúng ta nói đó là tập đoàn phản động Bắc Kinh (We say that it is the reactionary Beijing clique).”

Lê Duẩn cũng phân biệt các cá nhân phía bên Trung Cộng, và tiêu chuẩn phán đoán người được dựa trên mức độ hiểu biết về Việt Nam. Người ít hiểu biết nhất là ông Chủ Tịch Mao, người mà Lê Duẩn có vẻ hoàn toàn không thích một chút nào cả: “… một người không thể nói chuyện được, một người với con tim Đại Hán và người muốn thôn tính Đông Nam Á chính là Mao.” Ông ta thích Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình nhiều hơn. Lê Duẩn tuyên bố là Chu Ân Lai đã đồng ý, trong thập niên 60, về nhu cầu cần thiết để có một mặt trận đoàn kết giữa các nước xã hội để yểm trợ cuộc tranh đấu ở Việt Nam, nhưng mà họ Mao lại nói điều đó không thể được. Họ Chu đã giúp cho Lê Duẩn thấu hiểu những gì đang xẩy ra ở Trung Cộng, và đã xếp đặt để viện trợ nhiều cho Việt Nam: “Tôi biết ơn ông ấy.” Hứa Quốc Phong không hiểu Việt Nam, nhưng Đặng Tiểu Bình đã cho thấy hiểu rõ Việt Nam hơn. Đây là một điều khá ngạc nhiên vì chúng ta biết từ 77 Cuộc Đàm Luận họ Đặng là người nhận lãnh trách nhiệm về những vấn đề liên hệ Việt Nam-Trung Quốc một cách trực tiếp. Lê Duẩn có lẽ thích thẳng thắn, nói đốp chát hơn là lối nói loanh quanh tránh né của họ Hứa và lối nói chuyện độc đoán kỳ quặc của họ Mao. Lòng ái mộ họ Đặng của Lê Duẩn được chứng nhận ở một nguồn tài liệu khác. Tháng 10 năm 1977, ông ta nói với vị Đại Sứ Nga ở Hà Nội là Hứa Quốc Phong là một trong những người lãnh đạo Trung Cộng “không hiểu chúng tôi”, nhưng Đặng Tiểu Bình “đối xử với Việt Nam với một sự thông hiểu rộng lớn.” Trong thời gian đó, Lê Duẩn đã tiên đoán là Đặng Tiểu Bình sẽ thắng cuộc tranh giành quyền lực và điều này sẽ đưa đến sự phát triển mối liên hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam (10)

Năm 1979 mà Lê Duẩn hãy còn thái độ thân thiện với họ Đặng là một điều đáng ngạc nhiên trên cái nhìn là chính họ Đặng là người ra lệnh xâm lăng miền bắc Việt Nam. Lê Duẩn tuyên bố là họ Đặng thực tâm chúc mừng người Việt Nam năm 1975, khi Việt Nam thắng cuộc tranh đấu thống nhất tổ quốc, trong khi đó có một số các nhà lãnh đạo Trung Cộng hãy còn giữ lòng căm hận. Và năm 1977, họ Đặng đồng ý với Lê Duẩn về nhu cầu bắt đầu điều đình về những vấn đề ranh giới. Lê Duẩn nghĩ là họ Đặng đang bị áp lực bởi những người lãnh đạo Trung Cộng khác, thiếu hiểu biết hơn, và ông ta đã phải chứng tỏ bằng cách hủy bỏ liên hệ với Việt Nam để tránh bị buộc tội là xét lại: “… bây giờ ông ta xuẩn động và ngu. Bởi vì ông ấy muốn chứng tỏ rằng ông ấy không phải là kẻ xét lại, ông ấy đã đánh Việt Nam nặng hơn. Ông ta để mặc chúng nótấn công Việt Nam”. (11)

Phương diện cuối cùng về thái độ của Lê Duẩn được chỉ ra ở đây là sự trung thành với chủ nghĩa quốc tế của ông ta. Điều này có vẻ như kỳ lạ trong quan điểm hầu như hạn hẹp của ông ta chỉ về chủ tính tổ quốc, nhưng ông ta hiểu, Việt Nam là nước tiên phong trong toàn thế giới tranh đấu cho sự giải phóng tổ quốc. Điều này không giống như ngày xưa, ông ta nói, khi Việt Nam đứng một mình chống trả Trung Quốc. Hiện tại, cả thế giới đan kết với nhau một cách chặt chẽ: “… đây là thời gian mà mọi người muốn độc lập tự do. Tất cả nhân loại hiện tại thì như thế này… làm hại Việt Nam là làm hại nhân loại, một vết thương tới nền độc lập và tự do… Việt Nam là một quốc gia biểu hiệu cho độc lập và tự do.”

1979

Điều hữu dụng kế tiếp của tập tài liệu là nó soi sáng một vài trường hợp trong năm mà nó được viết. Năm 1979 đánh dấu điểm thay đổi chính trong lịch sử của phong trào cộng sản quốc tế. Vào khoảng năm 1977-78, nó ở thời kỳ tột cùng của quyền lực với khoảng 30 chính quyền Marxist trên thế giới. Một số các sự kiện xẩy ra trong 2 năm tới đã đưa chủ nghĩa xã hội quốc tế cùng nhau gây ra một cuộc khủng hoảng làm giảm thiểu con số của chính quyền Marxist xuống còn 5 trong mười hai năm sau đó (Trung Cộng, Bắc Hàn, Lào, Việt Nam và Cuba). Các sự kiện xẩy ra trong năm 1979-80 không chỉ những bao gồm cuộc xâm lăng Việt Nam qua Cam Bốt, cuộc xua quân để trừng phạt Việt Nam của Trung Cộng, và sự hiện hữu của hải quân Nga trên vùng biển Nam Hải, mà cả sự bầu Hồng Y Karkow lên ngôi vị Đức Giáo Hoàng và sự thành lập phong trào Đoàn Kết ở Ba Lan, sự loại bỏ nền nông nghiệp tập trung và sự bắt đầu những năng lực của thị trường Trung Quốc, sự thành lập thế đồng minh Hoa Kỳ-Trung Quốc ở Đông Nam Á, sự thành lập một thể chế Hồi Giáo chống Cộng Sản ở Ba Tư, cuộc khủng hoảng ở A Phú Hãn đưa đến sự xâm lăng của Sô Viết tháng 12 năm 1979, và sự phá bỏ nhiều chế độ Marxist mới thành lập ở Phi Châu bởi những cuộc nổi dậy chống Cộng Sản. Điều này có nghĩa rõ ràng là vũ khí du kích đã được xoay lại trở thành “cuộc chiến tranh cường độ thấp”, chống thẳng vào các chế độ xã hội chủ nghĩa. “Đảo Ngược Việt Nam” đã được tạo lập ở Cam Bốt, A Phú Hãn, Angola, Ethiopia và những nơi khác; chế độ Sô Viết của Leonid Brezhnev đã nhận quá nhiều trách nhiệm quốc tế để đi vào chu kỳ cổ điển của một nền kinh tế quá lực.

Năm 1979, dĩ nhiên, không phản Lê Duẩn hay bất cứ một nhà lãnh đạo cộng sản nào đã có thể thấy những gì sắp sửa xẩy ra. Họ quen thuộc với những sự thành công, và hãy còn sâu đậm trong sự tin tưởng ở điều cơ bản của chủ thuyết Marxist là chủ nghĩa xã hội là giai đoạn cấp tiến hơn chủ thuyết tư bản trong tiến trình phát triển của nhân loại. Cuốn Bạch Thư xuất bản bởi Bộ Ngoại Giao Việt Nam hôm tháng 10, 1979 tuyên bố rằng “các lực lượng cách mạng ngày hôm nay đã tăng trưởng, và đang ở vị thế thích ứng nhất” (12). Sự chiến thắng của cuộc cách mạng Việt Nam hãy còn mới trong tâm trí họ, và theo sau đó là sự thành lập các chế độ xã hội tại các thuộc địa cũ của bồ Đào Nha ở Phi Châu. Đế quốc Mỹ ngày càng chìm sâu trong một cuộc khủng hoảng toàn diện và không thể cứu được, như cuốn bạch thư tuyên bố, và đã không thể giữ vị thế vững mạnh rõ ràng của mình ở Á Châu, Phi Châu và Nam Mỹ Châu (13). Các nhà lãnh đạo Sô Viết và Việt Nam không một chút nghi ngờ, cho rằng vấn đề ở Cam Bốt và A Phú Hãn, sự bắt đầu những năng lực của thị trường Trung Quốc, và Trung Quốc về cùng phe với Hoa Kỳ, chỉ là sự thối lui tạm thời của một cuộc tiến triển toàn phần mà chắc chắn sẽ khiến các lực lượng xã hội trên toàn thế giới mạnh hơn. Cho đến mãi giữa thập niên 80, các nhà lãnh đạo chủ nghĩa xã hội mới bắt đầu nhận thức được rằng đường hướng của nền chính trị toàn cầu đã quay lại chống chủ nghĩa xã hội.

Tập tài liệu của Lê Duẩn đã cho thấy sự lượng định gì của các nhà lãnh đạo Việt Nam về tình trạng tổng quát năm 1979, và họ trông mong gì ở tương lai? Nó cho thấy những nhà lãnh đạo Hà Nội đang sửa soạn một cuộc chiến tranh với Trung Cộng, và Lê Duẩn tin tưởng là Việt Nam có thể chống trả được cuộc chiến đó vì phần lớn quân đội Trung Cộng sẽ bị bắt buộc đóng quân dọc theo biên giới nước Sô Viết. Lê Duẩn đã chuẩn bị cho các đồng chí của mình một cuộc toàn quốc trường kỳ kháng chiến, và xem Việt Nam đang đóng một vai trò quan trọng trong việc chống đỡ cho toàn cõi Đông Dương trong việc chống trả mộng bành trướng của Trung Cộng. Ông ta dự định những tỉnh theo truyền thống là nơi giữ vững Đảng Cộng Sản Đông Dương ở vùng trung bắc là những tỉnh Nghệ An, Hà Tĩnh, và Thanh Hóa (những tỉnh mà phần lớn những nhà lãnh đạo Cộng Sản Việt Nam từ đó xuất thân), là những căn cứ hậu cần cho cuộc đấu tranh ở miền bắc: “Trong một tương lai gần, chúng ta sẽ đánh nhau với Trung Quốc. Chúng ta nhất định thắng,” Lê Duẩn tuyên bố, và điều này (hầu như có lẽ) sau sự kết thúc cuộc xua quân trừng phạt của Trung Cộng. Để làm tăng thêm lòng quyết tâm của mình và các đồng chí, Lê Duẩn dùng niềm tự hào về đất nước chuyên đấu tranh của mình: “… thật ra nếu một quốc gia khác đánh nhau với họ, không rõ là họ sẽ thắng như vầy… chúng ta chưa bao giờ trốn chạy trách nhiệm lịch sử của chúng ta… Bằng cách bảo vệ nền độc lập, nước Việt Nam cũng đang bảo vệ nền độc lập của các quốc gia vùng Đông Nam Á. Nước Việt Nam nhất định không cho phép Trung Quốc trở thành một quốc gia bá chủ. Cuộc chiến vừa rồi chỉ là một hiệp… nếu chúng mang 1 hay 2 triệu quân để đánh chúng ta, chúng ta chẳng sợ. Chúng ta vừa mới đối đầu với 600.000 quân, và, nếu, trong tương lai gần đây, chúng ta phải đánh nhau với 2 triệu quân, chẳng có cái gì ngại cả. Chúng ta không sợ. Chúng ta sẽ biến mỗi huyện là một pháo đài, mỗi tỉnh là một bãi chiến trường. Chúng ta có đủ người. Chúng ta có thể đánh chúng bằng nhiều cách… Chúng ta có thể mang 2 hay 3 quân đoàn đánh dữ dội một cách bất ngờ; làm chúng nao núng, để bảo vệ đất nước ta. Muốn vậy, mỗi người lính phải cho ra một người lính, mỗi tiểu đội phải ra một tiểu đội.

Có vẻ Đặng Tiểu Bình đã tính toán một cách khôn ngoan, hôm tháng 3 năm 1979, khi ông ta quyết định rút quân về, để cho người Khờ Me Đỏ đánh nhau với Việt Nam, còn Trung Cộng thì chú tâm vào những thành quả kinh tế.

Hồ Sơ Về Sự Liên Hệ Của Lê Duẩn Với Trung Cộng

Điều hữu dụng thứ ba, điều khó khăn nhất, mà chúng ta có thể dựa trên tập tài liệu của Lê Duẩn như một nguồn liệu để biết mối tương giao của tác giả với các nhà lãnh đạo Trung Cộng trong toàn thời kỳ từ năm 1952 cho tới năm 1979. Vì do thiếu sót những tài liệu khả tín, đây chỉ là sự thử nghiệm mà ta không nên vẽ ra những ảo tưởng về mức độ chính xác của những gì Lê Duẩn nói.

Lê Duẩn nói rằng ông ta lần đầu tiên viếng thăm Trung Cộng để chữa bệnh năm 1952. Theo lời kể của ông ta thì ông ta ngạc nhiên bởi sự thật là vùng mà ông ta đến thăm viếng (có lẽ Quảng Tây hay Quảng Đông) đã không có bất cứ một cuộc chiến tranh du kích nào để chống trả lại người Nhật trong thời gian Nhật Bản chiếm đóng mặc dù rất đông dân. Sự kiện này được dùng trong tập tài liệu để đưa ra sự khác biệt căn bản giữa lòng can đảm của người Việt Nam và lòng nhát nhúa của người Tầu. Lê Duẩn tuyên bố là Hồ Chí Minh xác nhận ấn tượng này. Câu chuyện này có lẽ nói lên phần nhiều về thái độ của Lê Duẩn ở năm 1979 hơn là ấn tượng thật sự của ông ta lúc đó. Chúng ta không cả biết từ bất cứ tài liệu nào khác nói là ông ta đã có qua Trung Quốc hay không.

Những gì ông ta nói về phản ứng của mình qua hiệp định Geneva năm 1954 thì tin được hơn. Trong thời gian đó, ông ta cầm đầu Liên Khu ở phía miền nam Việt Nam, không có lý do gì để nghi ngờ sự bực dọc của ông ta khi phải nói những đồng chí của mình không được đấu tranh quân sự và quay qua đấu tranh chính trị hay tập kết ra bắc qua vĩ tuyến 17. Trong tập tài liệu 1979 của mình, ông ta tuyên bố đã có lúc tức giận dữ dội trước mặt Chu Ân Lai (có lẽ là hôm 13 tháng 7 năm 1971) khi họ Chu đến Hà Nội để giải thích về cuộc trăng mật của Trung Cộng và Hoa Kỳ. Lê Duẩn bèn nói về cảm tưởng của mình ở năm 1954 khi ông ta ở Hậu Nghĩa (tây bắc của Sài Gòn, nơi mà hệ thống địa đạo nổi tiếng Củ Chi sau này được tạo dựng). Và ông ta nói họ Chu đã xin lỗi, công nhận lỗi lầm của mình (14).

Tuy nhiên điểm không chắc chắn là nếu ông ta đổ lỗi cho Trung Cộng đã làm điều sai lầm năm 1954, trong thời gian đó, các nhà lãnh đạo Trung Cộng, Liên Sô và bắc Việt Nam cùng nhau mạnh mẽ ủng hộ hiệp định này, và Lê Duẩn như thế nên đổ lỗi cho chính các nhà lãnh đạo quốc gia của mình cho điều sai lầm đó. Có lẽ khoảng thời gian khá lâu sau này, trước khi Lê Duẩn khám phá ra vai trò quan trọng của Chu Ân Lai trong sự ép buộc các nhà lãnh đạo Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải chấp nhận vĩ tuyến 17 là làn ranh chia đôi giữa miền nam và miền bắc Việt Nam. Người nói cho ông ta biết điều này có lẽ là ông Phạm Văn Đồng, người cầm đầu phái đoàn Việt Nam tại Geneva (15).

Thời kỳ tạo thái độ bất mãn của Lê Duẩn với Trung Cộng có lẽ ở vào cuối thập niên 50 khi ông ta cầm đầu nỗ lực tìm sự ủng hộ của người Nga và Trung Cộng trong việc tái lập cuộc tranh đấu võ trang ở miền nam Việt Nam. Ở thời gian đó, họ Mao đang hô hào Bước Nhẩy Vọt Vĩ Đại và đã đẩy đất nước vào cơn khủng hoảng khiến không thể hoàn thành nhiệm vụ quốc tế. Lê Duẩn chắc chắn là đã thấy điều này.

Trong tập tài liệu 1979 của mình, ông ta đã quay lại nhiều lần về cách thức làm sao Chu Ân Lai và họ Mao đã cố cản trở người Việt Nam quay lại cuộc chiến võ trang ở Miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, ông ta không nhắc đến sự kiện là Liên Sô cũng đã ủng hộ hiệp định Geneva và không khuyến khích Cộng Sản Việt Nam đừng làm những gì có thể khiến người Pháp và Miền Nam Việt Nam được đễ dàng hơn để khỏi phải chú ý đến bổn phận của họ. (16)

Tập tài liệu của Lê Duẩn không phải không có những điều tự mâu thuẫn. Mới đầu, ông ta nói họ Chu có nói đánh hay không đánh là do người Việt Nam quyết định. Sau đó ông ta lại buộc tội họ Chu là đã “áp lực chúng tôi ngưng chiến đấu”. Lời nói đầu thì trùng hợp với lời kết luận của học giả Chen Jian: “… các nhà lãnh đạo Bắc Kinh không ngăn chận mà cũng chẳng khuyến khích những nỗ lực của Hà Nội trong việc “giải phóng” Miền Nam bằng quân sự cho tới năm 1962.” (17) Lời nói thứ hai có vẻ không được tin tưởng mấy. Lê Duẩn cũng tuyên bố là ông ta đã không nghe lời khuyên của Trung Cộng và bắt đầu xây dựng những lực lượng vũ trang ở Miền Nam Việt Nam: “… chúng tôi không đồng tâm. Chúng tôi bắt đầu và tự phát triển các lực lượng của mình.” Chỉ khi mà “chúng tôi đã bát đầu đánh trận lúc đó họ mới cho phép chúng tôi đánh.” Những gì, để có lợi cho mình, mà Lê Duẩn đã không nhắc đến là những quan điểm dị biệt giữa các cán bộ gốc Miền nam và một số các nhà lãnh đạo Miền Bắc.

Cho tới năm 1963-64, Lê Duẩn đổi ngược tình thế. Trung Cộng không còn bị cáo buộc là cố ngăn chặn lòng ham muốn chiến đấu của người Việt Nam nữa, mà thay vào đó chính họ lại lộ diện, xây cất đường xá để tạo điều kiện thuận lợi cho việc trải rộng quyền lực của Trung Cộng vào vùng Đông Nam Á, và gửi quân sang để bắt đầu chế ngự Việt Nam. Thủ phạm chính là họ Mao.

Chúng ta biết tới ba trường hợp mà Lê Duẩn đã gặp họ Mao. Lần gặp đầu tiên trong năm 1963 ở Wuhan nơi mà họ Mao (theo cuốn bạch thư của người Việt Nam) đã tiếp một phái đoàn của Đảng lao Động Việt Nam. Trong buổi họp đó, Lê Duẩn nói là đã hiểu ý định thật sự của họ Mao và đã cảnh cáo ông ta là Việt Nam có thể đánh bại các lực lượng Trung Cộng dễ dàng. Họ Mao đã cố tình hỏi Lê Duẩn: “Đồng chí , có đúng là dân tộc ông đã chiến đấu và đánh bại quân Nguyên?” Lê Duẩn nói: “Đúng như vậy.” “Lại một lần nữa, có đúng không, đồng chí, là các ông đã đánh bại quân nhà Thanh?” Lê Duẩn trả lời: “Đúng như vậy.” Họ Mao nói: “Và cả quân nhà Minh nữa?” Tới lúc đó Lê Duẩn nói là đã cộng thêm vào một cách thẳng thừng: “Đúng, và cả quân đội của anh nữa. Tôi đã đánh bại cả anh nữa (hay có lẽ “và tôi có thể đánh bại cả anh nữa”) Anh có biết điều đó không?” “Tôi đã nói chuyện với Mao Trạch Đông như thế”, Lê Duẩn biện minh, và ông ta nói: “Có, có!”

Đây là cuộc đối thoại gài nhau để mà diễn dịch. Một mặt có vẻ đúng là họ Mao đã hỏi những câu hỏi được nói đến. Họ Mao thích trêu cợt người khác như vậy. Nhưng khó có thể tin là Lê Duẩn đã thách đố họ Mao thẳng thừng như thế. (18) Từ 77 Cuộc Đàm Luận chúng ta biết rằng Lê Duẩn trong hai cuộc họp kế tiếp với họ Mao (13/8/64 và 11/5/70) đã giống như người hầu tớ đứng cười sung sướng trước mặt chủ. Năm 1964, ông ta nói rằng “yểm trợ từ Trung Quốc thì không thể thiếu” và “những người Nga xét lại muốn dùng chúng tôi để trả giá”. Năm 1970, ông ta xin họ Mao những chỉ thị, và miêu tả sự thành công của Việt Nam tới độ “chúng tôi đã thi hành 3 điều chỉ thị mà Chủ Tịch Mao trao cho chúng tôi trong quá khứ”, chỉ thị đầu tiên là “không sợ, chúng ta không nên sợ kẻ thù”. (19) Lê Duẩn trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận là một người khác hoàn toàn không giống như người được kể ở năm 1979, nhưng con người ta khi nhớ về hành động của mình thì thường khác xa những gì người khác thấy lúc đó.

Có một điểm khác biệt lớn lao giữa những gì Lê Duẩn (và cuốn bạch thư Việt Nam) nói về sự liên hệ Việt Nam-Trung Cộng trong những năm 1963-65, và những gì Trung Cộng nói. Theo Lê Duẩn kể, họ Mao là người muốn xây đường xá vào Việt Nam, và muốn gửi quân đội qua, trong khi đó Lê Duẩn chỉ muốn trợ giúp về hiện vật. Theo tất cả những lời kể dựa trên các nguồn tin của Trung Cộng thì sự yêu cầu giúp đỡ xây đường xá và gửi quân tình nguyện qua là từ phía Việt Nam, và được thỉnh cầu bởi Lê Duẩn và Hồ Chí Minh (20) Điều này cũng đã được công nhận trong một số đàm luận trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận. Lê Duẩn tuyên bố: “Tôi chỉ hỏi họ gửi người, nhưng họ mang theo cả súng và đạn dược”, không có vẻ phù hợp với những chứng cớ. Sau khi các đơn vị quân đội chống phòng không Trung Cộng đến Việt Nam, song le, tình trạng căng thẳng đã biểu lộ giữa hai phía, và sau khi Kosygin của nước Nga đồng ý viện trợ lớn lao cho Việt Nam tháng 2 năm 1965, vị thế Việt Nam đã trở nên độc lập hơn. Giọng điệu trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận thay đổi rõ ràng từ lúc đó trở đi.

Những gì Lê Duẩn nói từ cuối thập niên 60 và thập niên 70 trùng hợp với những gì Trung Cộng nói. Năm 1969, Lê Duẩn nói đã triệu tập những cán bộ quân sự để cảnh cáo họ là Trung Quốc đã bắt tay với đế quốc Mỹ, và họ phải nghiên cứu vấn đề này, có nghĩa họ phải sửa soạn cho những xung đột trong tương lai với Trung Quốc. Quan tâm về đường lối mới của Trung Cộng với Mỹ, Lê Duẩn kết tội y như cuốn bạch thư Việt Nam: “Trong suốt thời gian đó, Trung Quốc đã công bố (với Hoa Kỳ): “Nếu anh không đánh tôi, tôi sẽ không đánh anh.” Vì vậy họ đã để người Mỹ ở một vị thế mạnh hơn ở Việt Nam. Điều này dĩ nhiên là hữu lý. Trung Cộng đã nhấn mạnh quyền lợi to lớn của họ qua sự thiệt hại của Miền Bắc Việt Nam.

Điều ngụy biện nổi bật trong tập tài liệu của Lê Duẩn là cuộc đối thoại mà ông ta nói xẩy giữa ông ta và Chu Ân Lai ở Hà Nội (có lẽ vào khoảng tháng 11 năm 1971). Trước khi Nixon qua Trung Cộng, Lê Duẩn kể, mục đích của ông ta là gỡ rối quan hệ giữa Hoa kỳ và Việt Nam qua sự giúp đỡ của Trung Cộng, trong khi đó lôi kéo Trung Cộng theo Hoa Kỳ trong vấn đề ngoại giao quốc tế. Nghe nói thì Chu Ân Lai nói với Lê Duẩn: “Trong lúc này, Nixon đến thăm tôi, chính là để bàn về vấn đề Việt Nam, vì vậy tôi phải đến gặp đồng chí để trao đổi quan điểm.”

Theo lời Lê Duẩn thì ông ta trả lời: “Đồng chí có thể nói bất cứ điều gì đồng chí thích, nhưng tôi sẽ không nghe theo. Đồng chí là người Trung Quốc, tôi là người Việt Nam. Việt Nam là của tôi; không phải của đồng chí.” Một lần nữa, Lê Duẩn nói đã nói chuyện một cách hằn học với người Trung Cộng trong cuộc họp với mình. Lần này có thể tin được. Nói chuyện một cách hằn học với Chu Ân Lai ở Hà Nội năm 1971 thì dễ hơn là nói với họ Mao ở Wuhan năm 1963. Đó là điều lý thú để xem nếu bản tường trình buổi họp tháng 11 năm 1971 của họ Chu ở Hà Nội có nhắc đến lòng quốc gia cương trực của Lê Duẩn.

Lời nói về nhu cầu tìm tòi các văn kiện

Trong suốt thập niên 90, liên hệ Việt Nam-Trung Cộng tiến triển rất khả quan. Năm 1979 là năm tồi tệ nhất, và Trung Cộng và Việt Nam hãy còn thù địch nhau qua suốt thập niên 80 với quân đội đông đảo của hai bên dọc biên giới, không đường hỏa xa, mọi đường xá bị đóng. Liên hệ ngoại giao từ từ tiến triển ở giữa thập niên 80, và Việt Nam rút quân ở Cam Bốt về năm 1989 đánh dấu một bước tiến dài, mở đường cho bình thường hóa liên hệ ngoại giao năm 1991. Ngày Ba Mươi Tết năm 1999 (dương lịch), hai vị bộ trưởng ngoại giao đã ký một hiệp định về biên giới ở Hà Nội, và họ giờ đây quyết ý phân vẽ lại những vùng biển ở vịnh Bắc Việt trước cuối năm 2000 (Trung Cộng và Việt Nam đã họp để cố giải quyết vấn đề này, cả hai bên đều công bố đã gặt hái nhiều kết quả tốt đẹp về hải phận, nhưng Hoàng Sa và Trường Sa thì Trung Cộng vẫn khư khư bảo là của mình. – Nguyễn Phượng Hoàng). Điều này đã hoàn tất công tác mà Lê Duẩn và Đặng Tiểu Bình đề ra cho chính họ năm 1977, lúc đó không có một chút hy vọng gì cả. Đường hỏa xa bây giờ đã được mở lại, và buôn bán dọc biên giới phát triển lớn mạnh. Liên hệ giữa hai nước, giữa hai đảng và giữa hai quân đội ngày càng trở nên thường xuyên hơn, và những tỉnh biên giới đóng một vai trò quan trọng trong việc kết chặt văn hóa và phát triển thương mại. Các lãnh vực nghiên cứu của người Việt Nam và Trung Cộng cũng đã trao đổi với nhau. Điều này có thể thấy ở buổi Hội Thảo Nghiên Cứu Việt Nam thật quy mô ở Hà Nội năm 1988, nơi mà các nhà khoa học xã hội Việt Nam và Trung Cộng bàn luận cả những vấn đề có tính cách thuyết phục (như vấn đề gốc gác của những người sống dọc biên giới giữa hai nước) ngay trước mặt những nhà nghiên cứu ngoại quốc.

Điều này có nghĩa gì cho việc nghiên cứu lịch sử hiện đại về mối liên hệ Việt Nam và Trung Cộng? Khi hai quốc gia phát triển sự liên hệ tốt đẹp, điều này thông thường bao gồm những nghiên cứu về những khó khăn của họ trong quá khứ. Những nhà sử học Việt Nam và Trung Cộng sẽ làm sao để nghiên cứu tìm hiểu những vấn đề lịch sử về sự liên hệ? Có một cách là mỗi quốc gia tự viết những nghiên cứu riêng của mình, các nhà sử học Trung Cộng tìm tòi ở văn khố Trung Cộng và viết sách tiếng Tầu về Chính Sách của Trung Cộng với Việt Nam, và những nhà nghiên cứu Việt Nam tìm tòi trong các văn khố Việt Nam để viết những sách Việt Nam về những khó khăn của Việt Nam với người hàng xóm to lớn phương bắc. Một cách khác là tiến trình song phương với các nhà sử học Việt Nam và Trung Cộng làm việc với nhau để tìm hiểu lịch sử mối liên hệ của hai nước, và cùng phát hành chung những sử liệu, hay nhất là bằng cả hai thứ tiếng. Điều này có thể thực hiện dưới một hình thức cao cấp, theo cách kín, với các sử gia tin tưởng của cả hai bên tạo thành một ủy ban liên hợp và có đặc quyền tra cứu các tài liệu đã được các nhà lãnh đạo của cả hai đảng cho phép, hay nó có thể thực hiện dưới một hình thức cởi mở hơn (21). Cách thứ ba là một tiến trình học thức mở rộng, tất cả các học giả nghiên cứu vấn đề đều được phép sử dụng những nguồn tài liệu của Việt Nam và Trung Cộng, và một số các sách hay các bài viết thi đua được xuất bản bằng tiếng Việt, Tầu, Anh và các ngôn ngữ khác.

Cả ba cách thức trên được đề ra dựa trên sự giả định là chính quyền Việt Nam và Trung Cộng ngày nay đã trở nên tự tin hơn ngày trước, không còn sợ hãi các cuộc nghiên cứu độc lập, và cho phép sử dụng những nguồn sử liệu then chốt. Hiện tại lúc này, bầu không khí trí thức của cả hai nước hình như khô cứng hơn. Điều này có thể kéo dài tình trạng kỳ quái hiện tại là những học giả ở bên ngoài Việt Nam và Trung Cộng lại có thể sử dụng những nguồn liệu tốt hơn những người bạn đồng nghiệp ở trong nước, và được tự do viết và xuất bản những gì họ muốn. Cách duy nhất để đảm bảo những học giả trong nước Việt Nam và Trung Cộng có thể đóng một vai trò hữu hiệu khi nghiên cứu lịch sử về quan hệ hỗ tương của hai nước là cho phép một bầu không khí trí thức mới, cởi mở hơn với các nguồn liệu được công khai hóa, các buổi thảo luận liên hợp và khuyến khích các cuộc nghiên cứu có tính cách học hỏi.

* Bài viết “Chứng Cớ Mới Về Trung Cộng, Đông Nam Á, và Chiến Tranh Việt Nam”, tường trình tại buổi Hội Thảo Quốc Tế, Hồng Kông, ngày 11-12 tháng 1 năm 2000* bởi ông Stein Tonnesson, Trung Tâm Phát Triển và Môi Sinh, Viện Đại Học Olso.

-Tác giả chân thành cảm ơn ông Christopher E. Goscha đã cung cấp tập tài liệu của Lê Duẩn và đã tốn rất nhiều công lao để dịch tập tài liệu này. Tác giả cũng xin thành thật cáo lỗi với ông Chris Goscha vì đã viết Lời Giới Thiệu quá chậm trễ đến nỗi ông Chris không có cả cơ hội để đọc và cho ý kiến trước khi Lời Giới Thiệu được gửi tới Hồng Kông (ngày 5 tháng 1, 2000)

**Bài phát biểu của đ/c Lê Duẩn năm 1979: VỀ BỌN BÀNH TRƯỚNG BẮC KINH (nghiên cứu lịch sử xin phép dẫn lại để bạn đọc tham khảo)

Tài Liệu Tham Khảo Và Chú Thích:

(1) Sự Thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [The Truth concerning Vietnamese-Chinese Relations over the Past 30 Years], Hanoi: Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1979. Cuốn Bạch Thư cũng được phát hành bằng ngoại ngữ, và kể từ lúc này chúng tôi tham khảo bằng ấn bản tiếng Pháp La vérité sur les relations Vietnamo-Chinoises durant les trente dernières années, Hanoi, Ministères des Affaires Etrangères, 1979.

(2) Cuốn Bạch Thư của Việt Nam đã được trả đũa bởi một cuốn tương tự được phát hành bởi Trung Cộng: On the Vietnamese Foreign Ministry’s White Book Concerning Viet Nam-China Relations, Beijing: Foreign Languages Press, 1979. Theo sự đáp lời của Trung Cộng thì cuốn bạch thư của Việt Nam là một sự cố gắng để “bóp méo, phá rối và ngụy tạo lịch sử trong nỗ lực làm đảo lộn lịch sử giữa hai nước là 30 năm kết chặt tình hữu nghị và cộng tác trở thành điều là Trung Cộng đã cố gắng để kìm chế Việt Nam” (trang 2-3). Không may thay, Trung Cộng thấy rằng những điều “sạo sự” của Việt Nam thì “không đáng để phản luận lại từng điều một”. Vì vậy cuốn bạch thư của Trung Cộng có ít chi tiết và ít điều thích thú cho các sử gia hơn là cuốn bạch thư của Việt Nam.

(3) Odd Arne Westad, Chen Jian, Stein Tonnesson, Nguyễn Vũ Tùng và james G. Hershberg (eds), 77 Cuộc Đối Thoại Giữa Trung Cộng và Những Nhà Lãnh Đạo Ngoại Quốc Về Những Cuộc Chiến Tại Đông Dương, 1964-1977, trang 6 (Lời Tựa của Chủ Bút).

(4) Một cuốn sách hữu ích, nghiên cứu tỉ mỉ về những bài luận thuyết của các viên chức Việt Nam, bao gồm cả những bài viết của Lê Duẩn, có thể được thấy qua Eero palmujoki,Revolutionary Pragmatism and Formal Marxism-Leninism. An Analysis of Vietnam’s Foreign-Policy Argumentation from the Fall of Saigon to the Collapse of the Socialist World System, Tampere (PhD dissertation), 1995. Bài nghiên cứu bao gồm một số các tài liệu trước cả năm 1975.

(5) Sự kiêu ngạo của Lê Duẩn trong tập tài liệu này có thể được coi như là đã chứng minh đúng một số điều buộc tội của Bùi Tín trong cuốn Following Ho Chi Minh. Memoirs of a North Vietnamese Colonel, London: Hurst, 1995. (See esp. p. 66.). Bùi Tín cũng nói rằng “Lê Duẩn rất hiếm khi viết bất cứ điều gì xuống giấy. Ông ta nói những gì trong đầu ngay lúc đó. Ông ta bị nói cà lăm rất nặng và rất khó nghe. Đó là điều ai cũng cảm thấy. Tất cả mọi người trở nên mệt mỏi để cố gắng hiểu xem ông ấy đang nói cái gì vì lối nói chuyện không văn phạm của ông ấy.” (trang 105).

(6) William J. Duiker, The Communist Road to Power in Vietnam, Boulder CO: Westview, 1996 (2nd ed.), p. 385, note 4.

(7) Ralph B. Smith, “Appendix: The Vietnam Workers’ Party and its Leaders”, An International History of the Vietnam War, vol. 1 (London: Macmillan, 1983), pp. 263-271.

(8) Ralph B. Smith còn tuyên bố xa hơn nữa là Hồ Chí Minh và Lê Duẩn là hai kẻ đối đầu. R.B. Smith, An International History of the Vietnam War, vol. 1, p. 129. Pierre Asselin cũng tuyên bố tương tự như vậy, biện chứng rằng vào năm 1965, Hồ Chí Minh đã (cũng bởi vì sức khoẻ ngày càng suy kém) “bị cố ý và có mục đích cho đứng ngoài lề.” Pierre Asselin, “Le Duan and the Creation of an Independent Vietnamese State”, unpublished paper presented at the International Conference on Vietnamese Studies in Hanoi, July 1998, p. 2. Bùi Tín (thần tượng là Tướng Giáp) tuyên bố rằng Lê Đức Thọ, Lê Duẩn và Phạm Hùng “đã liên tục cố gắng vô hiệu hóa Hồ Chí Minh” và Phạm Văn Đồng trong nỗ lực tranh đấu của họ để làm giảm thiểu vai trò và uy tín của Tướng Giáp. Bui Tin, Following Ho Chi Minh, p. 32.

(9) Pierre Asselin tuyên bố rằng Lê Duẩn “là một thí dụ điển hình là người Việt Nam không kính phục cả hai nước đàn anh” (Nga và Trung Cộng), và sau khi ông ta mất năm 1986 đã mở cửa cho mối liên hệ gia tăng giữa nước Việt Nam không chỉ với Trung Cộng mà ngay cả với Liên Bang Sô Viết. Pierre Asselin, “Le Duan and the Creation…”, p. 8. Điều này có vẻ thổi phồng quá đáng trong quan điểm nước Việt Nam dựa vào Liên Bang Sô Viết một các nặng nề giữa khoảng thời gian 1978 và 1986, tuy nhiên nếu có mộ tí sự thật nào thì văn khố Nga sẽ cho thấy.

(10) Stephen J. Morris, Why Vietnam Invaded Cambodia. Political Culture and the Causes of War, Stanford CA: Stanford University Press, 1999, p. 181. Morris tìm được tài liệu này trong văn khố của nước Nga.

(11) Có lẽ có một số điều đúng với ấn tượng của Lê Duẩn. Mặc dù đích thân Đặng Tiểu Bình ra lệnh cho Trung Cộng “tự vệ phản công” chống Việt Nam, nhưng cũng chính ông ta là người làm thất bại cuộc hành quân tháng Ba, sau khi Trung Cộng tổn thất hơn 30 ngàn tử vong. Và họ Đặng đã bị chỉ trích sau đó là đã không bẻ gẫy được ngón tay của Việt Nam, chỉ làm đau họ một chút thôi. Xem Richard Baum, Burying Mao. Chinese Politics in the Age of Deng Xiaoping, Princeton NJ: Princeton University Press, 1994, p. 80.

(12) “Aujourd’hui, les forces révolutionnaires ont grandi et occupent une position des plus favorables.” La vérité sur les relations Vietnamo-Chinoises, op.cit. p. 58.

(13) Ibid.

(14) Trong cuốn 77 Cuộc Đàm Luận có những đoạn trích từ những bản tường trình buổi họp của 3 buổi tiếp xúc giữa Chu Ân Lai và Lê Duẩn năm 1971 (7 tháng 3 ở Hà Nội, 13 tháng 7 ở Hà Nội, và tháng 11 ở Bác Kinh). Không có đoạn trích dẫn nào có nói về hiệp định Geneva, nhưng cả hai họ Mao và họ Chu trước đó đã thú nhận khi nói chuyện với Hồ Chí Minh và Phạm Văn Đồng đó là điều sai lầm ở Geneva.

(15) See François Joyaux, La Chine et le règlement du premier conflit d’Indochine, Genève 1954, Paris: Publications de la Sorbonne, 1979.

(16) See Ilya V. Gaiduk, The Soviet Union and the Vietnam War, Chicago: Ivan R. Dee, 1996; and Mari Olsen, Solidarity and National Revolution. The Soviet Union and the Vietnamese Communists 19541960, Oslo: Institutt for Forsvarsstudier 4/1997.

(17) Chen Jian, “China’s Involvement in the Vietnam War, 1964-69”, The China Quarterly,no. 142, June 1995, pp. 356-387 (p. 357).

(18) Theo Bùi Tín, Lê Duẩn nói với người viết về tiểu sử cuộc đời của ông ta trong một cuộc phỏng vấn năm 1983 rằng ông ta giỏi hơn Bác Hồ. Họ Hồ lúc nào cũng “vâng, dạ” với bất cứ điều gì Stalin và họ Mao nói với ông ta. “Còn tôi, tôi đà dám tranh luận với Khrushchev và họ Mao.” Bùi Tín, Following Ho Chi Minh, p. 43.

(19) 77 Conversations, pp. 74 (note 117), 163-164.

(20) Chen Jian, “China’s Involvement… “, pp. 368-369. See also 77 Conversations, p. 85, Lê Duẩn nói với Liu Shaoqi hôm 8 tháng 4 năm 1965: “Chúng tôi muốn có một số phi công tình nguyện, lính tình nguyện… và những người tình nguyện khác, bao gồm những đơn vị xây cất đường xá và cầu.”

(21) Một sự hợp tác cởi mở giữa các nhà sử học Na Uy và Thụy Sĩ đã được khởi đầu để sửa soạn cho cuộc kỷ niệm 100 năm tách rời liên bang Thụy Sĩ-Na Uy trong năm 2005.

.Nguồn bài đăng

0