Cảm nhận của em về mười bốn câu giữa trong đoạn trích Trao duyên
Đề bài: Bài làm - Chẳng phải ngẫu nhiên mà một nhà thơ đã viết: “Trải qua một cuộc bể dâu Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình Nổi chìm kiếp sống lênh đênh Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều” Bởi lẽ, tác giả Nguyễn Du vô cùng nổi tiếng với kiệt tác ...
Đề bài:
Bài làm
-Chẳng phải ngẫu nhiên mà một nhà thơ đã viết:
“Trải qua một cuộc bể dâu
Câu thơ còn đọng nỗi đau nhân tình
Nổi chìm kiếp sống lênh đênh
Tố Như ơi! Lệ chảy quanh thân Kiều”
Bởi lẽ, tác giả Nguyễn Du vô cùng nổi tiếng với kiệt tác “Truyện Kiều”. Trong tác phẩm này, nhà thơ đã thành công khắc họa lên số phận bất hạnh của nàng Kiều với mười lăm năm lưu lạc và bị đọa đày. Bắt nguồn từ sự đau khổ của nàng Kiều cũng là giây phút phải chọn giữa chữ hiếu và chữ tình. Mười bốn câu giữa trong đoạn trích “Trao duyên” đã thành công thể hiện nội dung ấy.
Đoạn trích "trao duyên" thuộc phần hai gia biến và lưu lạc. Đoạn trích nằm từ câu 723 đến câu756 trong tác phẩm. Bọn sai nha gây nên vụ án oan với gia đình Thúy Kiều khiến nàng buộc phải bán mình để cứu cha và em khỏi lao tù. Việc bán mình thu xếp xong xuôi, Kiều ngồi thức trắng đêm đến thân phận và tình yêu lỡ dở của mình. Nàng khẩn khoản nhờ Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho chàng Kim. Sau khi biết Thúy Vân đã nhận lời, Thúy Kiều trao lại những kỉ vật của mình cho em trong niềm đau xót khôn nguôi:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên!
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Mai sau dù có bao giờ,
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này.
Trông ra ngọn cỏ gió cây,
Thấy hiu hiu gió, thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề,
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt, khuất lời,
Rảy xin chén nước cho người thác oan”
Ở mười bốn câu thơ tiếp theo là lúc Thúy Kiều trao gửi kỉ vật cho Thúy Vân:“Chiếc vành”, “bức tờ mây”, “phím đàn”, “mảnh hương nguyền”. Đó là những kỉ vật thiêng liêng của Kiều và Kim Trọng. Nhớ trong đêm trăng sáng vằng vặc ngày nào, Kiều và Kim Trọng đã “đinh ninh hai miệng một lời song song”. Họ trao cho nhau những kỉ vật để khẳng định tình yêu chung thủy như vàng son của hai người. Vậy mà giờ đây, gia đình Thúy Kiều gặp biến cố, là người chị cả, Thúy Kiều đành hy sinh bản thân, lấy một người mình không hề yêu thương để làm tròn chữ hiếu. Thế nhưng, khi chữ hiếu đã trọn thì chữ tình lại vỡ làm đôi. Thúy Kiều không còn lựa chọn nào khác là trao lại mối duyên của mình cho em gái. Đau đớn làm sao, xót xa bao nhiêu thì có lẽ chỉ Thúy Kiều hay những người phải rơi hoàn cảnh giống nàng mới cảm nhận được hết nỗi đau ấy.
Khi trao những kỉ vật này :tâm trạng của Kiều cũng vô cùng đau đớn. “Của chung” vốn là những kỉ vật của Kim,của Kiều nay là của Vân. Thúy Kiều tự cho rằng khi mất đi tình yêu với Kim Trọng: nàng chính là kẻ số phận bất hạnh (mệnh bạc). Người con gái trong sáng và tốt đẹp chưa bao giờ đổ lỗi cho ai khi nàng phải rơi vào hoàn cảnh éo le này. Nàng coi đó như là số kiếp của đời mình phải gánh chịu. Khi để mất đi mối tình đẹp đẽ và trong sáng với chàng Kim, tâm hồn Thúy Kiều chết lặng và nàng dự cảm về cái chết của chính mình. Bởi lẽ, với nàng, mất đi tình yêu thì đâu khác nào mất đi cả cả cuộc sống, cả tâm hồn, nàng sống mà như người đã chết “Mai sau dù có……chị về”; “Rảy xin …….người thác oan”: Nàng muốn trở về với tình yêu và linh hồn bất tử sau khi chết. Điều này càng thể hiện tình yêu chung thủy, bất diệt của nàng. Hàng loạt những từ nói về cái chết: hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, thác oan càng thể hiện nỗi đau đớn tuyệt vọng , nàng chỉ nghĩ đến cái chết và những điều rủi ro, không may mắn. Nhưng cho dù có chết đi như cây bồ liễu thì trong trái tim nàng vẫn giữ mãi mối tình với chàng yêu.
Đọc những câu thơ của đoạn tríc này, chúng ta chợt nhớ đến hồn Đạm Tiên đã trở về như báo hiệu cho Thúy Kiều về số phận bất hạnh của nàng. Phải chăng, những người phụ nữ trong xã hội xưa họ dù xinh đẹp hay giỏi giang cũng sẽ chịu những hoàn cảnh và số phận bất hạnh?
Để thể hiện tâm trạng và hoàn cảnh đau khổ, éo le của Thúy Kiều, tác giả đã sử dụng một loạt những từ ngữ hình tượng, điển tích điển cố cùng với đó là tài hoa bậc thầy trong việc sử dụng và chọn lọc ngôn từ. Thông qua đó, người đọc càng thêm xót xa và cảm thông cho nhân vật Thúy Kiều nói riêng và số phận người phụ nữ trong xã hội xưa nói chung.
Gấp lại trang thơ của Nguyễn Du, người đọc vẫn không khỏi thổn thức cho số phận bất hạnh của nàng Kiều. Phải đồng cảm với nỗi bất hạnh của người phụ nữ bao nhiêu thì Nguyễn Du mới viết được những vần thơ chan chứa cảm xúc đến vậy. Xin được gửi đôi lời đồngvọng với Đại thi hào qua những những vần thơ của tác giả Tố Hữu qua bài “Kính gửi cụ Nguyễn Du"
“Tiếng thơ ai động đất trời
Nghe như non nước vọng lời ngàn thu
Nghìn năm sau nhớ Nguyễn Du
Tiếng thương như tiếng mẹ ru những ngày”
Nhẫn Đông