Bệnh viêm nội mạc tử cung (Endometritis)
Viêm nội mạc tử cung (NMTC) tức là viêm niêm mạc tử cung mà bà con quen gọi là Viêm tử cung. Thực ra viêm tử cung được chia thành Viêm nội mạc tử cung (Endometritis), Viêm cơ tử cung (Myometritis), Viêm mô cận tử cung (Parametritis), Viêm thanh mạc tử cung hoặc còn gọi là Viêm quanh tử cung ...
Viêm nội mạc tử cung (NMTC) tức là viêm niêm mạc tử cung mà bà con quen gọi là Viêm tử cung. Thực ra viêm tử cung được chia thành Viêm nội mạc tử cung (Endometritis), Viêm cơ tử cung (Myometritis), Viêm mô cận tử cung (Parametritis), Viêm thanh mạc tử cung hoặc còn gọi là Viêm quanh tử cung (Perimetritis). Trong số này chỉ có điều trị viêm nội mạc tử cung cho hiệu quả kinh tế nhất.
Viêm nội mạc tử cung có thể xảy ra dạng cấp tính và dạng mãn tính. Theo tính chất viêm người ta chia ra thành viêm nội mạc tử cung dạng cata (tiết nhầy), viêm mủ, viêm màng giả, viêm hoại tử và viêm hỗn hợp. Theo tác nhân gây bệnh chia thành viêm do vi khuẩn, do nấm và viêm hỗn hợp. Lợn nái thường bị viêm nội mạc tử cung sinh mủ cata cấp tính sau đẻ, viêm nội mạc tử cung mãn tính và viêm nội mạc tử cung sinh mủ cata mãn tính.
Triệu chứng
Viêm nội mạc tử cung sinh mủ cata cấp tính thường xảy ra trong vòng 6 ngày sau đẻ. Lợn bệnh suy nhược, giảm hoặc bỏ ăn, thở nhanh. Lợn thường sốt nhẹ vào buổi sáng, sốt cao vào buổi chiều tối. Triệu chứng thường gặp là lợn nái luôn có tư thế rặn đái, rên rỉ nhưng không đái được hoặc đái ít. Từ âm môn chảy dịch nhầy màu trắng, hồng hay nâu đỏ loãng, lẫn mủ lợn cợn, mùi tanh.
Đặc trưng của viêm nội mạc tử cung cata mãn tính là từ âm môn thường chảy dịch nhầy lãn mủ màu vàng trắng hoặc trắng vào thời ky 1cm động dục. Trong một số trường hợp mủ đóng thành vết khô ở mép dưới âm môn hoặc chảy thành bãi ở sàn màu trắng (như phân cò ở chỗ lợn nái nằm lâu). Trong trường hợp viêm nội mạc tử cung cata mãn tính dịch nhầy đặc dính và thường chứa một ít Muxin, đôi khi lẫn máu. Những lợn nái này dễ bị rối loạn chu kỳ sinh dục dẫn đến vô sinh hoặc khả năng phục hồi sinh sản rất hãn hữu, hậu quả gây phối nhiều lần không chửa.
Bệnh tích
Niêm mạc tử cung sưng, sung huyết, xuất huyết, loét, phủ màng giả. Tử cung chứa dịch viêm (thanh dịch, dịch cata, mủ hoặc xuất huyết). Trong thời kỳ mang thai nếu lợn nái viêm nội mạc tử cung co thể tạo các chỗ dính giữa tử cung và nhau thai làm cho bào thai phát triển không bình thường, sinh sót nhau và đẻ non (sảy thai do Brucella). Trường hợp viêm nội mạc tử cung nặng dẫn đến viêm quanh tử cung, bao gồm vùng ngoài màng bụng ở chỗ giáp tử cung, kể ca viêm mô liên kết xốp vùng phụ cận. Viêm có thể dạng thanh dịch hoặc fibrin, đặc biệt chú ý nhất là viêm tử cung sinh mủ và viêm NMTC cata (phù tử cung) gây chửa giả lâm sàng. Trường hợp này, tử cung có thể chứa 4 – 5 lít mủ hoặc dịch cata. Nếu biến chứng viêm mủ tử cung thì thành tử cung teo, còn bị phù thì thành tử cung sưng to.
Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng.
Cần chẩn đoán phân biệt Viêm nội mạc tử cung với Viêm bàng quang, vì trong cả 2 trường hợp lợn bệnh đều có triệu chứng tương đối giống nhau. Điểm khác biệt, khi bị Viêm bàng quang mủ thường chảy cuối bãi đái, lợn cũng hay đái nhưng biểu hiện đau khi đái.
Điều trị
Chỉ có giá trị khi quá trình viêm đang ở giai đoạn đầu, khi biến chứng thành viêm mãn tính thì nái khỏi bệnh dễ vô sinh hoặc co nguy cơ sẩy thai thường xuyên.
Trước hết, phải chú ý đến chế độ ăn uống cho lợn bệnh, khẩu phần đủ các loại vitamin, nguyên tố vi lượng, bột thịt xương, thức ăn giàu Ca, P.
Điều trị Viêm nội mạc tử cung cần đạt 2 mục đích sau:
– Phục hồi nguyên vẹn niêm mạc tử cung;
– Phục hồi chức năng co bóp của cơ tử cung.
Tử cung liên quan mật thiết đến các cơ quan khác như nội tiết va thần kinh. Bởi vậy, điều trị Viêm NMTC bao gồm tác động cục bộ và tác động lên toàn bộ cơ thể. Trường hợp Viêm NMTC nặng, chảy nhiều dịch mủ hoặc Viêm NMTC mãn tính cần kết hợp dùng thuốc tiêm và thụt rữa tử cung. Trường hợp nhẹ chỉ cần tiêm thuốc kích thích đẩy dịch viêm ra ngoài và tiêm 1 – 2 mũi kháng sinh, không cần thụt rửa. Đối với nái hậu bị không được thụt rữa tử cung.
Thụt rữa tử cung: Thụt rửa tử cung là phương pháp bơm dung dịch sát trùng vào tử cung như dung dịch Lugol 0,1%, thuốc tím 0,05%, Iodine, hoặc nước vệ sinh của phụ nữ. Hòa dung dịch trong nước ấm bơm vào tử cung (khoảng 2 – 5 lít) và hút ra cho đến khi màu nước hút ra giống màu nước bơm vào. Thụt rửa 1 lần/ngày, có thể thụt rửa 2 lần kết hợp tiêm Phartocin (Oxytocin) để tăng co bóp tử cung đẩy dịch viêm ra. Nhiều người quên động tác hút ra, chỉ bơm vào tử cung lợn bệnh càng nhiều càng tốt, nhất là bơm mạnh làm cho dịch sát trùng chảy ngược lên làm tắc ống dẫn trứng, hậu quả gây vô sinh nhân tạo. Trường hợp Viêm NMTC mãn tính nên thụt rửa vào ngày động dục, vì cổ tử cung lợn bệnh mở dễ thực hiện.
Dùng thuốc điều trị:
Cách 1:
– Tiêm bắp một trong những loại kháng sinh sau: Oxyvet – L.A (1ml/10kgP/lần, chỉ tiêm 2 mũi cách nhau 3 ngày), Pharsulin (1ml/10kgP, 1 lần/ngày, tiêm 2 – 3 mũi).
– Kết hợp tiêm bắp Dexa – pharm (6ml/100kgP/lần) để giảm viêm, Phar – nalgin C hoặc Pharti – P.A.I, (1ml/10kgP) để giảm đau, hạ sốt.
– Phartocin, 3ml/nái/lần, 1 – 2 lần/ngày, tiêm 2 ngày để tăng co bóp tử cung.
Các cách