Bệnh liên cầu khuẩn ở lợn (Streptococcus)
Streptococcus suis là loại vi khuẩn thường xuyên có mặt trên lợn nuôi tại nhiều nơi trên thế giới. Vi khuẩn sống trong amidan và trong phần lớn các trường hợp chúng không gây bệnh cho lợn. Khi có các điều kiện bất lợi như stress (thời tiết nắng gắt, ngột ngạt, vận chuyển, san ghép đàn, cân, tiêm ...
Streptococcus suis là loại vi khuẩn thường xuyên có mặt trên lợn nuôi tại nhiều nơi trên thế giới. Vi khuẩn sống trong amidan và trong phần lớn các trường hợp chúng không gây bệnh cho lợn. Khi có các điều kiện bất lợi như stress (thời tiết nắng gắt, ngột ngạt, vận chuyển, san ghép đàn, cân, tiêm phòng) chúng gây bệnh cho vật chủ với các dạng: viêm màng não, viêm phổi, “Hội chứng lợn con gầy còm”, viêm khớp, viêm màng van tim, viêm cơ tim, viêm bao tim, viêm đa thanh mạc, sẩy thai. Đặc biệt liên cầu khuẩn là bệnh thứ phát chiếm ưu thế trong bệnh Tai xanh và gây nhiều tổn thất cho đàn lợn.
Bệnh không những gây chết lợn, mà còn gây viêm màng não, gây điếc, suy đa phủ tạng dẫn đến chết người (do ăn tiết canh, lẩu tái…thịt lợn ốm).
Triệu chứng
Lợn mọi lứa tuổi đều có thể bị nhiễm vi khuẩn liên cầu, nhưng hay bị nhất là lợn mới cai sữa. Thời gian nung bệnh kéo dài 1 – 2 ngày, có khi lên đến 7 ngày.
Trường hợp nhiễm trùng máu ở lợn con mới đẻ: Lợn con lúc đầu đẻ ra bình thường, bú khỏe, nhưng 1 – 2 ngày sau ngừng bú, lờ đờ, chạm tay vào thấy lạnh và thường chết trong khoảng 12 – 24 giờ sau khi đẻ. Số sống sót chậm lớn mà người ta thường gọi là “Hội chứng lợn con gầy còm”.
Trường hợp quá cấp: Lợn bệnh bị viêm màng não, chết đột ngột. Hiện tượng này hay xảy ra nhất ở lợn mới cai sữa.
Trường hợp cấp tính: Thường xảy ra trong vòng 3 tuần sau cai sữa. Lợn bệnh giảm rồi bỏ ăn, sốt từng cơn, da đỏ, yếu, mất thăng bằng, đi khập khiễng, bại liệt, run rẩy, kho đứng, co giật, một số bị mù hoặc điếc. Lợn bệnh đôi lúc bị tiêu chảy và viêm phổi. Một số biếu hiện thần kinh, liệt 2 chân sau nên ngồi có tư thế “như chó ngồi”, lúc đi ưỡn người ra phía sau, co giật rồi chết.
Trường hợp mãn tính: Thường xảy ra trên lợn thuộc lứa tuổi lớn hơn, biểu hiện viêm một hoặc nhiều khớp, nên lợn bệnh đi lại khó khăn.
Viêm phổi do Streptococcus suis hay xảy ra trên lợn con 2 đến 4 tuần tuổi. Trên lợn vỗ béo Streptococcus suis hay xảy ra với dạng ghép với các vi khuẩn khác như Pasteurella multocida, Ạctinobacillus (Haemophillus, pleuropneumoniae) mà người ta thường gọi là Viêm phổi ghép và với vi rút giả dại.
Tỷ lệ mang khuẩn Streptococcus ở đường hô hấp trên của lợn nuôi tại các địa phương là khác nhau. Lợn mẹ, lợn giống và lợn đực có tỷ lệ mang khuẩn cao hơn lợn con và lợn thịt (Trịnh Phú Ngọc, 2002). Như vậy, lợn nái, đực giống và lợn trưởng thành là nhân tố mang mầm bệnh mãn tính gây nguy hiểm cho đàn con.
Bệnh tích
Mổ khám lợn chết dạng quá cấp và cấp tính thấy xuất huyết nhiều ở thanh mạc và niêm mạc. Lợn bị viêm màng não, biểu hiện phù thũng, tụ máu ở não và màng não, thấy có nhiều dịch não tủy màu đục. Trường hợp nhiễm trùng máu thấy xác chết có màu đỏ, nhu mô và các hạch lâm ba sưng. Viêm thượng tâm vi có fibrin và viêm tăng sinh van lá của tâm thất trái. Tích dịch máu trong các xoang. Phủ màng fibrin ở màng phổi, bao tim, lá mỡ và bề mặt gan. Lách sưng màu đỏ thẫm, vỏ lá lách căng, mép tròn. Dưới vỏ lách thấy xuất huyết điểm hoặc từng đám. Lách đặc, dai nên khi cầm vào có cảm giác như cầm miếng cao su. Hạch lâm ba màng treo ruột sưng, mọng nước, sung huyết. Thùy đỉnh và thùy tim của lá phổi đặc lại, đôi khi có những đám sung huyết lẫn ổ viêm bã đậu. Trường hợp mãn tính thấy viêm đa khớp có mủ kèm tăng dịch, bao hoạt dịch có thể dày lên. Viêm phế quản phổi dạng fibrin, nhục hóa ở nhiều mức độ khác nhau.
Chẩn đoán
Dựa vào triệu chứng lâm sàng, kết quả điều tra dịch tễ và xét nghiệm của cơ quan chuyên môn (qua xét nghiệm mẫu phủ tạng, máu, dịch ri viêm hoặc dịch viêm khớp).
Cần chẩn đoán phân biệt với bệnh Dịch tả lợn (cũng bị viêm màng não biểu hiện thần kinh), bệnh Giả dại (cũng biểu hiện thần kinh, nhưng bị nặng trên lợn con, đứng quì chân trước), bệnh Đóng dấu lợn (cũng bị viêm khớp, thường trên da nổi nhiều dấu), Haemophillus (gây viêm phổi và viêm đường hô hấp trên), bệnh Viêm phổi – màng phổi ở lợn, bệnh do Toxoplasma (lợn con sốt cao, viêm phổi; lợn lớn yếu, run rẩy nhưng không sốt; lợn nái sẩy thai, đẻ thai gỗ và đẻ non)
Ngoài ra, cần biệt phân biệt “Hội chứng gầy còm lợn con” vói đàn lợn gầy do thiếu ăn, dinh dưỡng kém. Do lợn cai sữa chết đột ngột và có triệu chứng thần kinh nên cần phân biệt với bệnh Phù đầu lợn con. liên cầu khuẩn
Điều trị
Hộ lý:
– Chăm sóc nuôi dưỡng tốt để giảm thiểu stress, không nhốt lợn quá chật, chuồng thông thoáng, vệ sinh đảm bảo.
– Ngừng các công việc phẫu thuật gây chảy máu (cắt đuôi, cắt số tai, thiến hoạn) làm cho bệnh lan nhanh hơn.
– Phun thuốc sát trùng, đặc biệt thuốc diệt ruồi (Etox – pharm, 1 ml/lít nước, 10 – 15 ngày phun 1 lần) vì vi khuẩn liên cầu sống trong cơ thể ruồi được trên 5 ngày.
Dùng thuốc điều trị
Đây là bệnh điều trị được, can thiệp càng sớm hiệu quả càng cao. Những ca biểu hiện thần kinh, nằm co giật rất khó điều trị. Cần điều trị tổng thể cả đàn và điều trị cá thể bị ốm. Cho cả đàn ăn/uống 5 ngày như sau:
– Kháng sinh Pharamox (hoặc Ampi – col) với liều 1g/20kgP/lần, 2 lần/ngày hoặc 1 g/lít nước. Đối với lợn vỗ béo có thể trộn 2kg thuốc/tấn cám để diệt mầm bệnh.
– Phartigum B (1g/10kgP/lần, 2 lần/ngày hoặc 2g/lít nước. Đối với lợn vỗ béo có thể trộn 4kg thuốc/tấn cám) hoặc Para – c mix (10g/66kgP/lần, 2lần/ngày hoặc 10g/3,3 lít nước uống) để giảm đau, hạ sốt.
Đối với cá thể có triệu chứng lâm sàng cần tiêm thêm 3 – 5 mũi một trong các loại kháng sinh sau: 1ml Bocinvet – L.A, Bocin – pharm, Pharthiocin, Pharcolapi hoặc phối hợp 1ml Enroseptyl – L.A với 1ml Pharseptyl – L.A tiêm cho 10kgP, 1 lần/ngày.
Ngoài ra, có thể điều trị theo triệu chứng như dùng thuốc an thần, tiếp nước (12ml/kgP/ngày), cho uống/ăn điện giải (Dizavit – plus, 2g/lít nước hoặc 2g/10kgP/ngày).
Phòng bệnh
Thực hiện tốt công tác vệ sinh thú y, định kỳ sát trùng chuồng trại, tích cực diệt ruồi. Đặc biệt lưu ý không được để nước thải tồn đọng tạo thành ao tù trong khu vực chăn nuôi, nhất là khi dùng phân lợn để nuôi cá trong ao. Đó là lý do tại sao ngoài bệnh Liên cầu khuẩn, các bệnh khác như Viêm da do tụ cầu, Tiêu chảy ở lợn con, Viêm tử cung ở lợn nái, kể cả lợn hậu bị, liên tục xảy ra trong cơ sở chăn nuôi có ao cá bên trong.