Bệnh của tôm và cách phòng trị
Đối với bệnh MBV Rửa ấu trùng Nauplius của tôm bằng Formalin 100-150ppm trong 30 giây hoặc bằng nước biển sạch. Sau đó đưa ấu trùng ấp ở một bể mới được tẩy dọn sạch sẽ, kiểm tra tôm Poslarvae bằng phương pháp kiểm tra nhanh để loại trừ mầm bệnh MBV trước khi thả nuôi tôm thịt, dùng phương pháp ...
Đối với bệnh MBV
Rửa ấu trùng Nauplius của tôm bằng Formalin 100-150ppm trong 30 giây hoặc bằng nước biển sạch. Sau đó đưa ấu trùng ấp ở một bể mới được tẩy dọn sạch sẽ, kiểm tra tôm Poslarvae bằng phương pháp kiểm tra nhanh để loại trừ mầm bệnh MBV trước khi thả nuôi tôm thịt, dùng phương pháp sốc bằng Formalin và nước ngọt để chọn một đàn Postlarvae và các mầm bệnh khác, bỏ qua giai đoạn ương tôm giống trong ao; sử dụng mô hình nuôi tôm ít thay nước, nuôi tôm không thay nước trực tiếp từ biển mà có ao chứa lắng nhằm bảo đảm môi trường nuôi, giảm thiểu mầm bệnh và bảo vệ môi trường.
Đối với bệnh đốm trắng
Trong trại sản xuất giống không nên nuôi chung tôm bố mẹ sông ở mực nước sâu với tôm bố mẹ sống ở vùng nước nông, khi tôm mẹ chuẩn bị đẻ để riêng mỗi con vào một bể. Nên sử dụng tôm mẹ có kích thước chiều dài từ 25 – 26cm. Nếu sử dụng tôm mẹ nhỏ hơn hoặc lớn hơn sẽ sinh ra đàn Postlarvae kém chất lượng. Sau khi tôm mẹ đẻ chuyển chúng vào từng bể riêng và lấy một chân bơi để kiểm tra bệnh đốm trắng bằng phương pháp PCR cho kết quả dương tính của con tôm mẹ nào thì cho 100ppm Formalin vào bể trứng/Nauplius của con tôm mẹ để hủy và không sử dụng tôm mẹ nhiễm bệnh này. Kiểm tra Poslarvae bằng phương pháp PCR để chọn đàn tôm không nhiễm đốm trắng.
Đối với bệnh phân trắng
Cải tạo môi trường trong ao nuôi cho tốt hơn. Quản lý việc cho tôm ăn thật chặt chẽ vì khi tôm bị bệnh khả năng bắt mồi giảm, do đó việc cho ăn hết sức thận trọng, tránh hiện tượng thức ăn thừa trong ao sẽ làm cho vấn đề thêm nghiêm trọng. Tăng cường thay nước nếu thấy cần thiết. Dựa vào kết quả xét nghiệm để chọn loại thuốc thích hợp cho việc trị bệnh.