18/06/2018, 15:45

Xét lại vai trò của Stalin

Tiếp theo bài Làn sóng phi Stalin hóa thứ ba ở Nga , nghiencuulichsu tiếp tục đăng tải các bài từ báo chí Phương Tây và Nga về vai trò lịch sử của Stalin của dịch giả Phạm Nguyên Trường Khái niệm chủ nghĩa Stalin là một sự lầm lẫn Phạm Nguyên Trường dịch ...

Joseph Stalin, 1949

Tiếp theo bài Làn sóng phi Stalin hóa thứ ba ở Nga , nghiencuulichsu tiếp tục đăng tải các bài từ báo chí Phương Tây và Nga về vai trò lịch sử của Stalin của dịch giả Phạm Nguyên Trường

Khái niệm chủ nghĩa Stalin là một sự lầm lẫn

Phạm Nguyên Trường dịch

Fałszywe słowo “stalinizm”

Đại diện của chính quyền Nga mấy tháng gần đây đã bất ngờ khởi động – trong khuôn khổ chiến dịch hiện đại hóa – việc lên án “chế đội tội lỗi của Stalin”. Đề tài này đặc biệt được tăng cường trong thời gian thủ tướng Ba Lan, Donald Tusk, đến Katyn. Lúc đó ngay cả thủ tướng Vladimir Putin cũng tự cho phép mình nói một vài câu có tính cách phê phán đối với nhà độc tài Xô Viết. Nhưng hiện chiến dịch phê phán đang đạt đến cao trào. Duma quốc gia Nga lên án Katyn và coi đấy là tội ác của Stalin, còn các phương tiện truyền thông đại chúng và các chính khách Nga thì sử dụng từ “chủ nghĩa Stalin” dưới mọi hình thức có thể. Những tờ báo ra ở Moskva thì viết về cả một chiến dịch “phi Stalin hóa”, do chính tổng thống lãnh đạo, với mục đích là giải thích cho dân chúng biết rằng “chế độ của Stalin” là một chế đội tội lỗi. 

Tất cả những chuyện này đã gây ra ở Ba Lan một sự cộng hưởng mạnh mẽ. Các quan chức, các chính khách, các nghệ sĩ và nhà báo của chúng ta, những người đại diện cho những xu hướng tư tưởng hoàn toàn khác nhau, cùng phấn khởi nói và viết về phong trào “phi Stalin hóa” này. Họ làm như sự đoạn tuyệt với di sản của “chế độ Stalin” và hoài niệm về nó là đơn thuốc duy nhất không chỉ đối với sự nồng ấm trong quan hệ Warsawa-Moskva, mà còn là đơn thuốc đối với cả quá trình dân chủ hóa và những thay đổi sâu sắc ở nước Nga vậy.  

Nhưng chỉ cần bình tĩnh một chút và tự đặt câu hỏi có tính nguyên tắc: làm sao có thể đoạn tuyệt với cái chưa từng hiện diện? Bởi vì “chủ nghĩa Stalin” huyền thoại là một thuật ngữ do bộ máy tuyên truyền Xô Viết bịa ra. Tất cả bắt đầu vào năm 1956, khi một trong những tên tội phạm lớn nhất trong những năm 30 và 40 của nhà nước Liên Xô là Nikita Khrushchev, kẻ đã cướp được chính quyền Liên Xô, đọc trong đại hội Đảng bản báo cáo mật nổi tiếng có tên là Về tệ sùng bái cá nhân và hậu quả của nó.

Medvedev đi theo bước chân của Khrushchev

Ý tưởng khá đơn giản: đổ tất cả tội lỗi cho Stalin, đặt chủ nghĩa cộng sản tốt đẹp đối lập với chủ nghĩa Stalin. Theo cách giải thích này thì Liên Xô vốn là thiên đường trên trái đất, cho đến khi bất ngờ xuất hiện một kẻ phản loạn với những tham vọng ngút trời, chẳng khác gì một con quỉ nhảy ra từ hộp đựng thuốc lá vậy. Vâng, Stalin thậm chí không phải là người cộng sản chân chính nữa, ông ta chỉ là một nhà độc tài quân phiệt (đúng là ông ta có mặc quân phục thật!),  ông ta kẻ đã xuyên tạc những tư tưởng tuyệt vời của Lenin. 

Bước ngoặt vào năm 1956, xin gọi đấy là chiến dịch phi Stalin hóa thứ nhất, đã tạo ra ở phương Tây – lúc đó đang muốn tồn tại hòa bình với Liên Xô – một sự phấn khích chưa từng có. Cuối cùng thì tất cả đã rõ ràng: trại tập trung, khủng bố chính trị, những phát đạn bắn vào gáy đối thủ chính trị, thủ tiêu một loạt các dân tộc và những nhóm xã hội, bỏ đói hàng triệu người, xâm chiếm các nước láng giềng – tất cả đều là tội lỗi của Stalin, còn chính chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô thì vẫn hoàn toàn “OK”. 

Thế thì tại sao bây giờ, tức là vào năm 2010, việc nước Nga độc lập lại sử dụng chiến thuật mà nhà nước Liên Xô toàn trị đã từng sử dụng cách đây 54 năm lại làm cho người ta phấn khích đến như thế? Thật khó hiểu. Khó mà có thể gọi đây là sự tiến bộ. Công nhận rằng Katyn là tội ác của NKVD (Bộ nội vụ Liên Xô -ND) chứ không phải của GESTAPO cũng không phải là điều gì mới mẻ. Thế mà ở Ba Lan người ta lại coi là bước ngoặt có tính thời đại. Thực ra ngay từ năm 1990, tức là một năm trước khi Liên Xô tan rã, Mikhail Gorbachev đã công nhận như thế rồi. 

Chiến dịch “phi Stalin hóa” hiện nay, do bộ đôi Putin và Medvedev tiến hành, cũng có cùng mục đích như chiến dịch thứ nhất do Khrushchev thực hiện mà thôi: sơn phết lại Liên Xô, trong lần thăm dó dư luận gần 55% người Nga, tức là đa số cử tri, tỏ ra luyến tiếc Liên Xô. Còn chính Putin thì đã từng nổi tiếng với câu: việc tan rã khối Xô Viết là “thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỉ XX”. Tôi xin cam đoan là ông ta chưa thay đổi ý kiến của mình. Vấn đề không chỉ là khi nhắc lại lí thuyết của người Nga về “chế độ Stalin” (tôi đã đọc được ở đâu đó rằng năm 1939 Ba Lan đã bị “nước Đức phát xít và nước Liên Xô của Stalin chia nhau!”) là chúng ta đã tự đưa mình vào kịch bản tuyên truyền của điểm Cẩm Linh. Đây là điều không thể chấp nhận được, nhất là từ quan điểm đạo đức. 

Nạn nhân tốt và nạn nhân xấu 

Nếu chúng ta công nhận rằng trong lịch sử Liên Xô chỉ có giai đoạn cầm quyền của Stalin (1929-1953) là đáng bị lên án thì ta sẽ nói sao về các nạn nhân trong giai đoạn 1917-1929 và 1953-1991? Vì khủng bố ở Liên Xô không bắt đầu từ khi Stalin nắm được chính quyền và không kết thúc ngay sau cái chết của ông ta. Những người bị giết trong những căn phòng của Ủy ban khẩn cấp vào năm 1919 không đáng thương bằng nạn nhân của Bộ nội vụ trong năm 1937 hay sao? 

Tại sao người sĩ quan Ba Lan, tên là Pasternacki, rơi vào tay những người Bolshevik ở Śniadowo, trước khi bị giết đã bị cắt lưỡi, cắt tai và mũi lại không đáng được tôn trọng và tưởng nhớ hơn là người sĩ quan bị giết vào năm 1940? Chỉ vì rằng anh ta đã chết quá sớm, và không có cơ hội trở thành nạn nhân của “chủ nghĩa Stalin”? 

Trong bản báo cáo của mình, chính Khrushchev đã chia nạn nhân thành tốt và xấu rồi: “Sự khủng bố này trên thực tế không nhằm chống lại tàn dư của các giai cấp bóc lột [những người này có thể giết được – tác giả], mà là chống lại những cán bộ trung thành của Đảng và nhà nước Liên Xô, họ đã bị kết tội bằng những bản án bịa đặt, bôi nhọ, vô nghĩa. (…) Do sự nghi ngờ của Stalin (…) mà rất nhiều cán bộ chỉ huy quân đội và cán bộ chính trị đã bị thủ tiêu”, ông ta viết như thế. 

Dĩ nhiên là trong thời Stalin cầm quyền đã có hàng triệu người vô tội bị giết hại, thí dụ như những nạn nhân của việc tập thể hóa và công nghiệp hóa. Nhưng ta phải nhớ rằng đối với những nhà trí thức phương Tây và đối với rất nhiều người Nga hiện nay thì chủ nghĩa Stalin là tổ chức đàn áp trước hết là những cán bộ cộng sản. Trong quan niệm của họ thì tội lỗi lớn nhất của ông ta chính là hiện thực hóa luận điểm về cách mạng ăn thịt chính những đứa con của mình. 

Xin hãy hiểu tôi. Tôi đánh giá cao nền văn chương, trong đó người ta đã phân tích cơ chế của cuộc Đại khủng bố, tức là giai đoạn khi mà những người cộng sản tự tiêu diệt lẫn nhau dưới trào Stalin. Các tác phẩm của Aleksander Weissberg-Cybulski, của Arthur Koestler, của Viktor Kravtrenko, của Aleksander Sozhenitsyn (rất may là sau này ông đã chuyển từ quan điểm “bài Stalin” sang bài Xô) là những tác phẩm rất hấp dẫn và đáng đọc. 

Nhưng những người cộng sản cuồng tín, những kẻ đã bóp cổ “kẻ thù của nhân dân” để rồi ngày hôm sau hấp hối trong bốn bức tường nhà giam của Bộ nội vụ và thuyết phục các nhân viên điều tra rằng mình trung thành với Đảng, tôi lại không thấy đáng thương lắm. Xin nhắc lại rằng Nikolai Yezhov và hàng nghìn đảng viên cộng sản tội phạm khác cũng đã trở thành nạn nhân của các vụ thanh trừng. Nhưng chắc chắn là tôi cảm thấy không thương họ bằng thương hàng triệu người Nga yêu nước vô tội, những người đã bị cộng sản giết hại trong giai đoạn cách mạng và những năm sau cách mạng. Tất cả “những tên phản cách mạng đó”: các nhà trí thức, các nhà quí tộc, các sĩ quan, những người làm nghề tự do và thành viên gia đình họ đã bị giết trong thời gian khi mà chưa ai tưởng tượng được là Stalin sẽ trở thành lãnh tụ Liên Xô chứ chưa nói tới chủ nghĩa Stalin.

Ai đã tạo ra Stalin? 

Xin quay lại thời của chúng ta. Các nhà bình luận đã đúng khi nói rằng nếu Nga không chia tay với lịch sử kinh hoàng trong thế kỉ XX của mình thì nó sẽ không thể trở thành một đất nước bình thường được. Phần lớn bệnh tật của đất nước này, kể cả trong cơ cấu quyền lực lẫn trong tâm trí người dân bình thường, đều có xuất xứ từ ảnh hưởng của thời đại vừa qua. Không chỉ dân Nga mà dân chúng các quốc gia láng giềng cũng cảm nhận được một cách rõ ràng những căn bệnh đó. 

Việc thanh toán một cách có lựa chọn với lịch sử mà Medvedev và Putin đang tiến hành – đáng tiếc là đã được người Ba Lan chấp nhận một cách thiếu phê phán như thế – sẽ chẳng làm thay đổi được gì. Nước Nga không cần một chiến dịch phi Stalin hóa nào hết, nước Nga cần tiến hành một chiến dịch phi Xô Viết hóa một cách nghiêm túc và triệt để. Cần phải đoạn tuyệt không phải là với truyền thống do Stalin tạo ra – chưa đến một phần trăm dân chúng hiện nay còn nhớ truyền thống này – mà phải đoạn tuyệt với truyền thống của nhà nước Liên Xô. 

Vì không phải Stalin tạo ra chế độ toàn trị khát máu này mà chính chế độ đã tạo ra ông ta./.

Phi cộng sản hóa chứ không phải là phi Stalin hóa!

Nguồn Russ.ru

Phạm Nguyên Trường dịch

Lời tòa sọan tạp chí Nga (Russ.ru): Ngày 12 tháng 10 Tổng thống Dmitry Medvedev kí sắc lệnh bổ nhiệm Mikhail Fedotov làm cố vấn của Tổng thống Liên bang Nga, cũng như sắc lệnh bổ nhiệm ông này làm chủ tịch Ủy ban trực thuộc Tổng thống chuyên trách vấn đề phát triển các định chế của xã hội công dân và quyền con người. Hôm nay Phòng báo chí của Điện Cẩm Linh đã thông báo như thế. Người lãnh đạo mới của Ủy ban tuyên bố rằng “nhiệm vụ đầu tiên của Ủy ban trực thuộc Tổng thống về quyền con người sẽ là phi Stalin hóa nhận thức xã hội cũng như cải cách tòa án và cảnh sát”. Việc bổ nhiệm Mikhail Fedotov lại làm rúng động đề tài Stalin và chủ nghĩa Stalin, một đề tài tưởng như đã chẳng còn làm mấy ai bận tâm nữa. Phải chăng Iojef Vissarionovich [Stalin] đã chết từ lâu và bây giờ chỉ còn trong những cuốn sách giáo khoa lịch sử chứ không còn là vấn đề chính trị và văn hóa chính trị mà người Nga đang thảo luận nữa? Nếu đúng thế thì cần gì phải đấu tranh với nó? … Bài viết của nhà sử học Andrey Zubov sẽ trả lời những câu hỏi này

Phi Stalin hóa nhận thức xã hội đúng là vấn đề cấp bách của nước Nga ngày nay. Tất cả các cuộc thăm dò ý kiến đều cho thấy khỏang một nửa dân chúng Nga có thái độ khoan dung với ông ta, khỏang một phần tư, đôi khi đến một phần ba, còn đánh giá ông ta một cách tích cực nữa. Thế mà rõ ràng là Stalin là một nhân vật khủng khiếp, một bạo chúa, chẳng khác gì Hitler, đấy là nói về mức độ dã man và số máu người đã đổ, số tội ác và những vụ bạo hành đầy bất công dưới thời cai trị của ông ta, đương nhiên là phi Stalin hóa là công việc cần làm, không làm thì xã hội sẽ không thể lành mạnh được.

Nhưng chúng ta cần nói về hai vấn đề cực kì quan trọng khác, thiếu chúng thì quá trình phi Stalin hóa không thể nào xảy ra được. Vấn đề thứ nhất và cũng quan trọng nhất: đúng ra là phải thực hiện quá trình phi cộng sản hóa nhận thức xã hội, tương tự như quá trình phi phát xít hóa ở nước Đức thời hậu chiến vậy. Phi Stalin hóa là một thành tố của quá trình phi cộng sản hóa. Nghĩa là chúng ta phải đào tận gốc trốc tận rễ không chỉ những tình cảm tích cực đối với Stalin mà cả thí dụ như đối với Lenin và bộ hạ của ông ta. Đấy không chỉ là vấn đề của xã hội mà còn là vấn đề của nhà nước nữa. Vì vậy mà trong suốt gần hai mươi năm qua, sau khi chế độ cộng sản sụp đổ, ở Nga vẫn còn nguyên những biểu tượng của quá khứ thời Lenin, thế mà chính Lenin mới là người thành lập chế độ cộng sản và không phải vô tình mà trong lúc Stalin cầm quyền người ta đã viết: Stalin là Lenin của ngày hôm nay.

Lenin vẫn còn là biểu tượng dân tộc chính diện của chúng ta. Thành phố nào, khu dân cư nào, thậm chí làng nào cũng có tượng của ông ta. Trên thực tế, trong tất cả các tòa công sở cũ đều có thể tìm thấy hình của ông ta. Hôm qua tôi vừa tới Trụ sở hội nhà báo: một bức tượng bán thân Lenin to đùng bằng đá hoa cương đứng ngay chân cầu thang. Mấy đường phố ở Moskva mang tên Lenin, đại lộ Lenin, đường quốc lộ mang tên Leningrad, quảng trường Ilich. Ở ngọai ô Moskva có nhà ga mang tên Di huấn của Lenin. Thế mà Lenin là nhà độc tài khát máu, là bạo chúa kinh hòang, và theo một số nghĩa nào đó thì còn là người phản quốc hơn cả Stalin. Vì Lenin đã kí hòa ước Brest, Lenin đã tiêu diệt nước Nga lịch sử. Chính Lenin đã phát động cuộc khủng bố đỏ vào tháng 9 năm 1918, với hàng chục ngàn nếu không nói là hàng trăm ngàn nạn nhân, trong đó có phụ nữ, trẻ em, nhà tu hành, đã bị giết và cũng chính Lenin đã kí nghị định về khủng bố đỏ. Lenin viết: treo cổ, nhất định phải treo cổ càng nhiều kulak, nông dân, cha cố, người tu hành, càng tốt – hiện những tài liệu này đã được công bố rồi.

Vì vậy mà việc vi phạm quyền con người một cách tòan diện trong thế kỉ XX ở Nga không chỉ gắn với tên tuổi của Stalin mà còn gắn với tên tuổi của Lenin nữa. Thực ra, Stalin chỉ tiếp tục công việc của Lenin mà thôi. Và câu chuyện không chỉ về Lenin mà còn về tòan bộ nhóm đảng viên cộng sản đầu sỏ nữa. Ở thành phố nào cũng có những đường phố mang tên Quốc tế III, mang tên Volodarsky, mang tên Uritsky, mang tên Klara Setkin, mang tên Voikov, Sverdlov và Dzerzhisky. Ở Moskva có ga xe điện ngầm mang tên Voikovskaia, còn ở Peterburg thì có phố Dybenko ..v..v.. . Đến tận bây giờ mà một số chủ thể của liên bang vẫn còn mang tên những tên tội phạm và sat nhân đó như tỉnh Leningradskaia, tỉnh Svedlovkaia, tỉnh Ulianovskaia, tỉnh Kirovskaia. Ở đâu cũng có thể gặp tượng Kirov, thế mà đấy cũng là một tên lưu manh và tội phạm chẳng khác gì Lein và Stalin. Và mặc dù một tên tội phạm là Stalin đã giết một tên tội phạm khác là Kirov, nhưng chẳng có tên nào tốt hơn tên nào. Tất cả những điều này chính là biểu tượng của đời sống của chúng ta, tất cả cùng góp phần hình thành nhận thức cộng sản trong đầu óc người dân, kể cả việc củng cố chủ nghĩa Stalin và là mảnh đất màu mỡ cho chủ nghĩa Stalin mới.

Một người trung bình sẽ coi những hình ảnh này là có ý nghĩa tích cực vì không một đất nước bình thường nào lại dùng tên những kẻ tội phạm và sát nhân để đặt cho đường phố và không dựng tượng cho những kẻ như thế. Luzhkov, người vừa bị mất chức thị trưởng Moskva, nói rằng từ ngày ông ta nắm quyền vào năm 1994, chưa có một tên gọi công cộng nào bị thay đổi cả. Ông ta đã kịch liệt phản đối việc đổi tên ga xe điện ngầm Voikovskaia và ngõ Voikovskye, mặc dù đấy là quan điểm cực kì phi lí: Nhà thờ Nga đã phong thánh cho hòang đế Nokolai II, còn Voikov là kẻ lãnh đạo tổ chức đã hành quyết Nikolai II, nhưng không có ga nào mang tên Nikolai II cả, trong khi lại có ga mang tên Voikovskaia.

Dễ hiểu là nhà nước đang đứng cùng ai, chính quyền đang đứng cùng ai – nó tìm hiểu tên của ai, nó chữa tượng của ai thì là nó yêu người ấy. Xã hội bị giày vò và đau khổ vì chuyện đó, đôi khi có thể là vô thức và dĩ nhiên là mất phương hướng nữa. Thanh niên cho rằng cần phải bắt chước những người được dựng tượng trong ga xe điện ngầm, bắt chước những người mà những con đường và thành phố của chúng ta mang tên. Phi Stalin hóa nhận thức xã hội trong tình hình như thế là việc làm bất khả thi. Cần phải bắt đầu bằng việc phi cộng sản hóa, mà trước hết là phi cộng sản hóa nhận thức của chính quyền. Phi cộng sản hóa phải là phi cộng sản hóa bộ máy quyền lực, cả trên bình diện quốc gia, khu vực và công ty. Việc chính quyền tiếp tục kỉ niệm những ngày lễ của Ủy ban đặc biệt tòan Nga (UBĐB), Cơ quan bảo vệ chính trị quốc gia, Dân ủy nội vụ (DUNV) [Đây là những cơ quan chuyên chính thời Liên Xô – ND] và Cơ quan an ninh Liên bang (CQANLB) như một tổng thể là không thể chấp nhận được. Dường như chính quyền sẽ có lợi khi nhấn mạnh rằng Cơ quan an ninh Liên bang hiện nay không có liên quan gì với những tổ chức tội phạm như Ủy ban an ninh nhà nước (UBANNN), Dân ủy nội vụ và Ủy ban đặc biệt tòan nga. Nhưng trên thực tế mọi việc hòan tòan ngược lại – cứ có dịp là người ta lại đúc những huy hiệu mới “80 năm UBĐB – DUNV – UBANNN – CQANLB”, “90 năm UBĐB – DUNV – UBANNN – CQANLB”. Và nhiều quan chức cấp cao tầm cỡ quốc gia, nhiều chính khách hàng đầu lấy làm tự hào khi đeo những chiếc huy hiệu đó. Thế mà ở Nga không có cơ quan nào phạm nhiều tội lỗi và khát máu hơn là cảnh sát chính trị. Vì vậy mà phi cộng sản hóa là một quá trình cực kì nghiêm túc và sâu sắc.

Trong xã hội cũng có một lọat vấn đề rất quan trọng. Không có một đất nước lịch sự và tự trọng nào lại có những cuộc bầu cử như ở nước ta. Ứng viên phải được chính quyền hành pháp đồng ý thì mới được đưa vào danh sách. Những cuộc bầu cử mà sử dụng nguồn lực của nhà nước thì sẽ bị chính quyền làm giả. Thế mà xã hội vẫn yên lặng, xã hội đã quen với chuyện đó rồi. Vì sao? Vì trong thời Xô Viết đã từng diễn ta những cuộc bầu cử hệt như thế: chỉ có một ứng viên được giới thiệu, và bầu cử vẫn diễn ra – thật khôi hài, bây giờ thanh niên không thể nào hiểu được những cuộc bầu cử mà không có lựa chọn như thế. Thế mà đáng lẽ ra chính quyền phải để dân chúng làm quen với cách hành xử khác. Xuyên tạc những cuộc bầu cử lại có thể giáo dục được dân chúng lòng tự trọng hay sao? Mà không có lòng tự trọng thì xã hội sẽ không muốn chia tay với Stalin – sống với “cha già của dân tộc” thì thanh thản hơn, chẳng cần phải bận tâm đến bất cứ chuyện gì hết. Đấy chính là cội rễ của chủ nghĩa Stalin mới.

Ở nước ta người dân vẫn chưa quen với chế độ tự quản, mà cũng chưa có chế độ như thế nữa kia. Chưa quen với báo chí tự do, chưa quen với các phương tiện truyền thông đại chúng tự do, mà cũng không có những phương tiện như thế. Như mọi người đều biết, trên các kênh truyền hình chính, mọi thứ đều được quay từ trước, xem xét trước, rồi sau đó mới đưa lên sóng. Đấy là cách làm của thời Xô Viết, nền kiểm duyệt Xô Viết. Chuyện đó cũng đang diễn ra ở nước Trung Quốc cộng sản. Chả lẽ chúng ta lại coi mình ngang hàng với những chế độ như thế hay sao? Vì vậy mà phi Stalin hóa là một thành tố quan trọng, nhưng chỉ là một trong những thành tố của quá trình phi cộng sản hóa nước Nga mà thôi. Nếu không làm được chuyện đó thì chúng ta sẽ không có tương lai. Chúng ta sẽ mãi mãi là một đất nước dối trá. Ngay cả Liên Xô cũng không dối trá hơn vì nó tuyên bố rằng đấy là những nguyên tắc cộng sản và đưa nmhững nguyên tắc đó vào cuộc sống. Ai thích thì thích, ai không thích thì thôi. Còn chúng ta tự tuyên bố là đất nước dân chủ và tự do, trong Hiến Pháp của chúng ta có những nguyên tắc cao cả, có ai lẽ cũng sẵn sàng kí tên dưới những nguyên tắc đó, nhưng trên thực tế chúng ta vẫn có tượng Lenin, tượng Kirov, các phương tiện thông tin đại chúng và những cuộc bầu cử của chúng ta đều bị kiểm soát. Tất cả những chuyện này dĩ nhiên là đều có nguồn gốc từ thời kì Xô Viết.

Trước cách mạng chỉ những người có một số lượng tài sản nhất định mới được tham gia ứng cử và bầu cử, theo quan điểm hiện nay thì đấy rõ ràng là bất công rồi. Phụ nữ không được tham gia bầu cử. Nhưng đấy là luật và hệ thống họat động trong khuôn khổ của bộ luật đó. Nghĩa là không có chuyện luật nói một đằng nhưng trên thực tế người ta lại làm một nẻo. Nhưng đấy chính là điều đã diễn ra dưới thời Xô Viết. Hiến pháp Liên Xô năm 1936 có tất cả các quyền dân chủ, nhưng tất cả những người nghĩ đến tự do, dù chỉ trong thâm tâm, cũng đếu bị đưa vào Gulag hết. Đáng tiếc là hiện vẫn chưa thanh tóan hết được tính nước đôi, lá mặt lá trái, sự dối trá có từ thời Xô Viết. Vì vậy mà tôi nghĩ rằng sáng kiến của Mikhail Aleksandrovik Fedotov là hòan tòan đúng, nhưng tôi cho rằng phải mở rộng ra hơn nữa. Vì nếu chúng ta không thực hiện quá trình phi cộng sản hóa xã hội một cách rộng khắp, phi cộng sản hóa một cách tòan triệt, thì chúng ta sẽ không thể đánh bại được Stalin trong tâm trí người dân. Người nào tiến hành việc đó, chính quyền nào thực hiện được việc đó sẽ được các thế hệ tương lai – cho đến khi nước Nga còn tồn tại – cám ơn.

Tôi biết Mikhail Fedotov, tôi biết ông là người có tính nguyên tắc, một người chống cộng, một người có quan điểm dân chủ và tự do. Ông biết rõ Stalin là người thế nào, Lenin là người thế nào. Cho nên đương nhiên là ông tuyên bố như thế. Tôi nghĩ rằng chính việc nhà nước bổ nhiệm ông chứng tỏ rằng trong chính quyền hiện nay đang có một tinh thần phi cộng sản hóa nhất định. Tôi có cảm giác rằng trong chính quyền hiện nay đang có hai xu hướng đối địch với nhau: một nhóm trong đó muốn giữ nguyên và bảo tòan đất nước thời hậu Xô Viết, không muốn làm cho nó trở thành nước Nga thực sự; trong khi đó nhóm thứ hai lại muốn đọan tuyệt với di sản của Liên Xô, nhằm chí ít là cũng để lại thanh danh với thế hệ sau, để không mãi xấu hổ với thế giới và xấu hổ ngay với con cháu của mình, tức là xấu hổ với những người từ Thụy Sĩ hay Anh về nước trong những kì nghỉ hè, vì chế độ cộng sản đã sụp đổ hai mươi năm rồi mà vẫn còn giữ người thành lập ra nó – “Bác Lenin” – trong quan tài kính ngay ở trung tâm của nước Nga. Và có lẽ việc bổ nhiệm Mikhail Fedotov là chiến thắng nho nhỏ của nhóm thứ hai. Tôi rất muốn tin như thế./.

Nói rằng Stalin khác Hitler là sai!

Bản tiếng Nga  Inosmi.ru,

Nguyên bản tiếng Ý  Che errore fare differenze, 

 Phạm Nguyên Trường dịch

Dùng con mắt của luật pháp để đọc lịch sử không phải là việc hay, mà đem phân tích theo kiểu tòa án hình sự các tiến trình lịch thì còn dở nữa. Trong những ngày, khi mà Liên hiệp châu Âu thảo luận rồi sau đó bác bỏ việc đánh đồng những nạn nhân của Holocost (Vụ đàn áp và giết hại người Do Thái của chủ nghĩa Nazism) với những nạn nhân của các vụ đàn áp của Stalin, nghĩa là đánh đồng chủ nghĩa cộng sản với chủ nghĩa xã hội dân tộc (Nazism), tôi đã vào thư viện và đọc cuốn Koba khủng khiếp của Martin Amis, do nhà xuất bản Einaudi ấn hành cách đây vài năm.

Tôi không tin vào việc hình sự hóa chính trị, tôi coi thường cách tiếp cận theo lối phân tâm, được thể hiện dưới hình thức những bài viết của các nhà sử học, cũng như những bài phân tích tâm thần chủ nghĩa xã hội dân tộc không bao giờ thuyết phục được tôi, tôi cũng bàng quan trước những bài phân tích chủ nghĩa Lenin và chủ nghĩa Stalin được tiến hành trên những tiêu chí như thế. Nhưng cuốn sách này đặc biệt đến nỗi đã buộc tôi phải thay đổi quan niệm. Amis không phải là một nhà sử học, ông là một nhà văn người Anh, con của Kingsley Amis, một người cộng sản khét tiếng trong những năm 30 và 40 của thế kỉ trước, nhưng lại là người chống cộng đầy nhiệt tình trong suốt hai mươi năm tiếp theo. Chủ nghĩa cộng sản của ông là hiện tượng trí tuệ mang đầy màu sắc Anglo-Saxon, dựa trên kinh nghiệm và thực tiễn. Marin Amis, sinh năm 1949, theo một nghĩa nào đó thì đã được tiêm liều thuốc làm cho ông phải lặp lại kinh nghiệm của chính cha mình, nhưng thời trai trẻ của ông trùng với sự thăng hoa mới, tuy chóng tàn, của chủ nghĩa cộng sản, điều đó được thể hiện trong những cuộc phản đối vô chính phủ và phong trào đấu tranh đòi giải phóng cho các nước Thế giới Thứ Ba. Tất cả những điều đó làm cho ông trở thành chứng nhân đáng tin cậy của thời và ảnh hưởng của học thuyết đó trong những năm này.

Tác phẩm đã nói được điều gì đặc biệt về Kobe khủng khiếp để độc giả phải quay trở lại với đề tài mà không cần đến sự sụp đổ của bức tường Berlin họ cũng đã đánh giá được cái sự không tưởng đấy tiêu cực của thế kỉ XX này rồi? Amis đã chỉ ra được yếu tố chính, cho phép giải thích gần sáu mươi năm thành công và quyến rũ của chủ nghĩa cộng sản đối với người dân Nga và cả những người nằm bên ngoài biên giới của nó: đấy là một cuộc thí nghiệm do một nhóm các nhà cách mạng chuyên nghiệp – những trí thức tiền phong, những người tự đối lập mình với toàn bộ xã hội – tiến hàng đối với một đất nước sằn sàng hi sinh. Nhằm biện hộ cho sự ưu việt về mặt “đạo đức” của chủ nghĩa cộng sản so với chủ nghĩa xã hội quốc gia, người ta thường nói rằng khác với chủ nghĩa xã hội quốc gia, dưới chế độ cộng sản không có việc tiêu diệt một cách có hệ thống một sắc dân nào, không đàn áp một dân tộc cụ thể nào, nhưng người ta lại quên nói thêm rằng đã xảy ra một hiện tượng khủng khiếp hơn, mà cụ thể là: tiêu diệt bằng bạo lực tất cả những gì không phù hợp với hệ tư tưởng của nhà cầm quyền. Chủ nghĩa cộng sản không giết người Do Thái chỉ vì họ là người Do Thái, mà nó tiêu diệt toàn bộ nước Nga: nó giết tầng lớp trí thức, nghĩa là tiêu diệt các chuyên gia, các kĩ sư, các giáo sư, các doanh nhân, điền chủ, nông dân, nhà buôn, nghĩa là giết tất cả, không phụ thuộc vào địa vị xã hội của họ, chỉ vì họ là hoặc bị nghi ngờ là thù địch hoặc bàng quan đối với đường lối mới. Đấy là vụ giết tróc dựa trên bạo lực, tố cáo, lừa bịp; vụ giết tróc này chỉ có thể xảy ra vì trong xã hội đã hoàn toàn không còn lòng thương hại và sự đồng cảm. Những mối quan hệ gia đình, bạn bè hay đẳng cấp, thậm chí phong tục đã không còn ý nghĩa gì; chỉ còn lại sự tuân phục tuyệt đối hệ tư tưởng và chính quyền, một chính quyền đang tìm mọi cách nhằm xây dựng xã hội cộng sản trên toàn bộ hành tinh.

Trả lời cho một luận điểm sáo mòn là mục đích biện minh cho phương tiện hay mục đích tốt đẹp đã bị những biện pháp không phù hợp xuyên tạc, Amis đưa ra nhận xét sáng suốt như sau: “Không thể nào hiểu nối, làm sao mà ý tưởng cho rằng có thể đi qua địa ngục để đến thiên đường có thể sống nổi, dù chỉ một phút, nếu đấy là những người có tư duy lành mạnh. Cứ giả sử “thiên đường”, như Trotsky hứa, bỗng nở hoa kết trái trên những đống tro tàn do cuộc nội chiến trước năm 1921 để lại. Nếu biết trước rằng hàng triệu người đã chết trong công cuộc tạo dựng những thiên đường như thế, thì ai là người muốn sống trong đó? Thiên đường mà phải trả giá như thế thì không còn là thiên đường nữa. Người ta nói rằng mục đích biện minh cho phương tiện, nhưng ở Liên Xô thì người ta chỉ tìm được một thứ duy nhất: đấy chính là phương tiện. Có một mâu thuẫn trong lòng mâu thuẫn: người không tưởng, hướng đến sự hoàn thiện, nhưng ngay ở đầu con đường sự nghiệp của mình anh ta đã cảm thấy vô cùng tức tối và giận dữ trước sự bất toàn của chính bản chất của con người. Nadezhda Mandelshtam (phu nhân của thi sĩ Mandelshtam nổi tiếng – ND) đã nói về sự càn rỡ của những người bolshevik, sự thiếu tự tin và thù hằn khủng khiếp và sự tuyệt vọng cũng khủng khiếp của họ.

Điều này cũng giải thích một điểm nữa, rất đặc trưng cho chủ nghĩa toàn trị Mác-Lê Nin. Chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa xã hội dân tộc rất tàn nhẫn đối với đối thủ, nhưng sự tàn nhẫn của họ được thể hiện trong việc tiêu diệt về mặt thể xác. Còn những người bolshevik thì bao giờ cũng tiêu diệt về mặt tư tưởng trước khi giết. Họ không hài lòng khi thấy xác chết đã khuất phục, họ cần linh hồn khuất phục cơ. “Thú tội”, “các phiên toàn” là nhằm mục đích đó, buộc người ta phải công nhận sai lầm, phải chuộc tội và công nhận tính chính nghĩa của những người bolshevik: tôi không chỉ công nhận tội lỗi của mình, tôi ghê tởm con người của chính mình, tôi đề nghị trừng phát tội lỗi của mình…

Cơ cấu của hệ thống đó chỉ có thể tồn tại được nếu sự tàn nhẫn là tuyệt đối, và mọi người đếu tin rằng tàn nhẫn là không tránh khỏi. Chính việc quân sự hóa toàn bộ đời sống xã hội, biến tất cả các thành viên của xã hội thành những người chiến sĩ và người bảo vệ sự nghiệp chính nghĩa và như thế cũng có nghĩa là thành những tên gián điệp, những tên chỉ điểm, những kẻ bán rẻ tất cả mọi người và mọi thứ, mới có thể làm cho chế độ đó tồn tại trong nhiều năm liền. Ngay khi bầu không khí đó dịu đi, ngay khi sự căng thẳng phi nhân tính đó lắng lại – sự căng thẳng như thế không thể kéo dài quá một thế hệ – thì sẽ có khủng hoảng và chế độ bắt đầu tan rã. Như Solzhenitsyn đã viết, chính “sức mạnh phi nhân, châu Âu không thể nào tưởng tượng được” là cơ sở cho sự tồn tại lâu dài của chế độ đó. Nhà sử học Robert Conquest giải thích rằng “người ta thường không tin là Stalin đã làm những việc như thế vì không thể nào tin là lại có sự dã man đến như thế. Phương pháp của ông được xây dựng trên những hành động mà trước đây bị coi là không thể tưởng được cả về mặt đạo đức lẫn thể xác”.
Tác phẩm của Amis kể cho ta nghe về một cố gắng nhân tạo trong việc tạo ra “con người mới” phi nhân, một người không còn những đặc điểm của đời sống văn minh, đấy chỉ là một cỗ máy đã lập trình của nhà nước toàn trị, cỗ máy sẵn sàng làm tất cả để phục vụ cho ý tưởng, kể về một xã hội bình đẳng theo kiểu trại lính, đã biến thành một nghĩa địa đấy ám khí.

 
Sự khó tin của thí nghiệm cho phép người ta giải thích nó, nhưng không thể tha thứ được cho sự tán đồng nó ở phương Tây. Ngày 7 tháng 4 năm 1935 trên tờ Sự Thật [Cơ quan ngôn luận của Đảng cộng sản Liên Xô – ND) người ta đã công bố bộ luật cho phép áp dụng đối với trẻ con từ mười hai tuổi (12) trở lên tất cả các biện pháp ngăn chặn tội phạm, kể cá tử hình. Amis cho rằng luật này nhắm hai mục tiêu: “Một – về mặt xã hội – thúc đẩy tiến trình tiêu diệt những trẻ em mồ côi và lang thang, do chính chế độ đẻ ra. Mục tiêu thứ hai – về mặt chính trị – tạo áp lực dã man lên những người đối lập cũ, trong đó có Kamenhev và Zinoviev, những người có con khoảng tuổi đó. Chẳng bao lâu sau những người này cùng với gia đình họ đã bị giết. Luật ngày 7 tháng 4 năm 1935 là bản chất của chủ nghĩa xã hội phát triển. Xin hãy tưởng tượng cú đấm của một võ sĩ có đeo găng vào chính mặt bạn”. Thế mà Đảng cộng sản Pháp, khi buộc phải bình luận về đạo luật này, đã coi nó là công bằng. Đúng là trong chủ nghĩa xã hội trẻ con lớn rất nhanh… Câu nói đùa này có thể làm người ta mỉm cười: nhưng đằng sau nụ cười đó là “hai mươi triệu người đã chết”, như phụ đề của tác phẩm Koba khủng khiếp. Có thể so sánh chủ nghĩa xã hội quốc gia với chủ nghĩa cộng sản hay không? Đây là câu hỏi dành cho Cộng đồng châu Âu.

Stalin là người đã làm Liên Xô tan rã

Peter Rutland và Philip Pomper

 Phạm Nguyên Trường dịch

Nguồn: Stalin Caused the Soviet Collapse

Peter Rutland là giáo sư về quản lí nhà nước của đại học Wesleyan University ở  Middletown, Connecticut. Philip Pomper là tác giả cuốn: Lenin’s Brother: The Origins of the October Revolution.” 

Hai mươi năm sau cuộc đảo chính làm tan rã Liên Xô, cần phải trở lại với câu đố về sự cáo chung bất ngờ của nó. Nhân vật nào phải chịu trách nhiệm nhiều nhất về sự sụp đổ của Liên Xô? Câu trả lời thường là nhà lãnh đạo Liên Xô Mikhail Gorbachev (đối với những người theo phái tự do) hay tổng thống Mĩ Ronald Reagan (đối với những người bảo thủ). Nhưng trên thực tế, chỉ có một nhân vật xứng đáng được quan tâm mà thôi: đấy là Josef Stalin. 

Stalin thường được người ta mô tả như là một thiên tài độc ác nham hiểm, người đã lợi dụng sự kém cỏi của phương Tây và sự hiện diện của Hồng quân ở Berlin vào năm 1945 nhằm mở rộng đế chế Xô Viết vào sâu trong lãnh thổ châu Âu. 

Trên thực tế, sự phóng chiếu sức mạnh của Liên Xô vào Trung Âu là sai lầm chiến lược, đã đưa nhà nước Xô Viết đến chỗ diệt vong. Stalin chấp nhận hoàn toàn luận cứ của Vladimir Lenin, cho rằng chủ nghĩa đế quốc là “giai đoạn tột cùng của chủ nghĩa tư bản”. Điều này có nghĩa là còn tồn tại thì chủ nghĩa tư bản còn tìm cách bành trường bằng những cuộc chiến tranh đế quốc và chinh phục lãnh thổ. Để bảo vệ Liên Xô trước cuộc tấn công như thế, Stalin quyết định giữ lại những đội quân khổng lồ ngay cả trong thời bình và đầu tư nhằm bảo đảm an ninh cho một dải đất rộng lớn ở Đông Âu, coi đấy là vùng đệm trước những cuộc đột kích trong tương lai. 

Nhưng tư duy chiến lược của Stalin là tư duy cổ lỗ. Trong những thập niên sau năm 1945 đã không hề có một cuộc tấn công đế quốc chủ nghĩa nào. Việc triển khai tên lửa đạn đạo xuyên đại dương có gắn đầu đạn hạt nhân làm cho chiến tranh giữa các siêu cường trở thành phi lí. Hơn nữa, não trạng đế quốc chủ nghĩa đã tự tan vỡ sau những vụ tắm máu liên tiếp trong Thế chiến I và Thế chiến II. Trong suốt thập kỉ sau năm 1945 các đế chế ở châu Âu rơi vào tình trạng phân rã, còn Mĩ thì không quan tâm tới việc xây dựng đế chế hay khởi sự những cuộc chiến lớn trên bộ nữa. 

Như vậy là, Stalin đã bảo vệ mình trước mối đe dọa không tồn tại nữa và ông ta đã biến Liên Xô thành đế chế đa sắc tộc trong thời đại khi mà việc xây dựng đế chế đã trở thành lỗi thời và chủ nghĩa dân tộc đang ngày càng có thêm sức mạnh. 

Những người bảo vệ Stalin – ở nước Nga đương đại hiện vẫn còn nhiều người như thế – mô tả ông ta là nhà lãnh đạo có con mắt nhìn xa trông rộng, người đã cứu Liên Xô khỏi cuộc tấn công của chủ nghĩa quốc xã. Họ biện hộ cho những đau khổ mà nhân dân Liên Xô phải chịu đựng dưới thời Stalin, coi đấy là giá phải trả cho quá trình công nghiệp hóa đất nước một cách nhanh chóng và bảo đảm an ninh cho quốc gia trước kẻ thù – hai điều kiện tiên quyết hằm bảo đảm cho các công dân một tương lai tươi sáng. Nhưng trên thực tế, Stalin đã rơi vào bẫy của những giả định cổ lỗ sỹ của thế kỉ XIX về tính chất của chiến tranh và bản chất của quyền lực trong hậu bán thế kỉ XX. 

Trong khi tìm cách bảo vệ mình trước chủ nghĩa đế quốc phương Tây, Stalin lại đưa nước Nga vào con đường tự hủy diệt. Liên Xô đã è cổ gánh khoản ngân sách quân sự quá lớn, ngốn ít nhất cũng khoảng 25% GDP và phải triển khai mấy triệu binh sĩ để kiểm soát những khu vực thuộc địa ở Đông Âu. 

Trước khi Thế chiến II kết thúc, Stalin đã sát nhập các nước vùng Baltic,Moldova và Tây Ukraine vào Liên Xô. Đa số tuyệt đối dân chúng những vùng lãnh thổ bị chiếm đóng này không muốn trở thành một phần của Liên Xô, thậm chí sau này những nhà lãnh đạo cộng sản của các nước đó cũng có những tình cảm như thế. Nếu Stalin không khăng khăng sát nhập các nước vùng Baltic mà để cho họ đi theo con đường của Phần Lan – tức là độc lập với Nga từ năm 1918 – thì có khả năng là những cố gắng cải cách của Gorbachev trong giai đoạn perestroika đã thu được thắng lợi rồi. Như đã thấy, công cuộc cải cách của ông ta đã trệch hướng vì những cuộc bạo loạn mang tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước vùng Baltic và khu vực Caucasus. Hơn thế nữa, việc Gorbachev sẵn sàng chấp nhận sử dụng bạo lực một cách có giới hạn nhằm đè bẹp những người có tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở Liên Xô, từ Azerbaijan đến Lithuania, đã làm cho những lực lượng dân chủ ủng hộ Boris Yeltsin rời bỏ liên minh cải tổ. 

Gorbachev được trao Huân chương Nobel Hòa bình vào năm 1990 vì ông đã tự nguyện lãnh đạo công cuộc giải tán đế chế Xô Viết ở Đông Âu một cách hòa bình. Nhưng quyết định quan trọng nhất về việc không sử dụng quân đội Liên Xô nhằm bảo vệ khối cộng sản thì không phải là của Gorbachev, được đưa ra vào năm 1988, mà là của Yury Andropov, được đưa ra vào năm 1981. Đối mặt với phong trào Đoàn Kết ở Ba Lan, chủ tịch KGB lúc đó là Andropov đã thuyết phục Tổng bí thư Đảng Leonid Brezhnev rằng đưa quân vào Ba Lan, tức là lặp lại các sự kiện ở Praha năm 1968, sẽ chỉ có hại cho Liên Xô – đấy là chưa kể quân đội đang bị sa lầy ở Afghanistan. Các lãnh tụ cộng sản Ba Lan phải tự giải quyết lấy công việc của mình – chủ yếu dựa vào thiết quân luật, điều này đã giúp họ giữ được chính quyền thêm vài năm nữa. Năm 1988 Gorbachev chỉ làm một việc là công khai tuyên bố chính sách đã có hiệu lực trên thực tế từ năm 1981 mà thôi. 

Các cường quốc phải thích ứng với những đặc tính luôn thay đổi của hệ thống thế giới, đấy là nói nếu họ vẫn muốn dẫn đầu. Các nhà lãnh đạo phải lo trước thiên hạ chứ không thể chỉ dựa mãi vào những thành tích của quá khứ. Cả các chính khách lẫn các viên tướng đều không được đánh mãi cuộc chiến đã qua. Trong những lựa chọn chiến lược của mình, Stalin đã mắc chính cái sai lầm mà người ta thường mắc như thế. Ông ta tưởng là sẽ còn một Thế chiến II nữa và sẽ còn một hiệp đấu nữa trong trận xung đột mang tính đế quốc chủ nghĩa. Những người kế tục ông ta cũng như hai thế hệ người Nga đã phải trả giá quá đắt ./.

0