18/06/2018, 16:29

Tổ chức xã hội cổ truyền và bộ máy quản lí nhà nước tại tỉnh Sơn La dưới các chế độ cũ

Đại Việt thời Trần Khổng Đức Thiêm. I. TỔ CHỨC XÃ HỘI CỔ TRUYỀN Khu vực người Thái Từ thế kỷ XI, người Thái sinh tụ ở Việt Nam trong một cộng đồng được sử sách cũ gọi là nước Ngưu Hống. Thực thể này đãđược Đại Việt Sử ký Toàn Thư (Bảnkỷ, Q.4a) ghi nhận: “Đinh ...

LSQSVNT4-DaiVietthoiTran

Đại Việt thời Trần

Khổng Đức Thiêm.

I. TỔ CHỨC XÃ HỘI CỔ TRUYỀN

  1. Khu vực người Thái

Từ thế kỷ XI, người Thái sinh tụ ở Việt Nam trong một cộng đồng được sử sách cũ gọi là nước Ngưu Hống. Thực thể này đãđược Đại Việt Sử ký Toàn Thư (Bảnkỷ, Q.4a) ghi nhận: “Đinh Mùi/Long Chương Thiên Tự/năm thứ 2 [1067]. Mùa  xuân, tháng 2, các nước Ngưu Hống, Ai Lao dâng vàng bạc, trầm hương, sừng tê, ngà voi và các thứ sản vật địa phương”.

Ngưu Hống được phiên âm từ Ngu Hấu trong tiếng Thái, có nghĩa là Rắn Hổ Mang, một biểu trưng của lá cờ trận thời cổđại của người Thái Đen. Theo Quăm Tô Mương (Chuyện kể bản Mường), Ngu Hấu còn là tên hiệu của chúa Lò Lẹt ở Muờng Muổi hồi thế kỷ XIV, một người nổi tiếng về khéo xếp đặt công việc của châu mường, chăm chút công việc thờ cúng tổ tiên, đặt ra chữđể dạy cho dân. Có lẽ vì thế, tên hiệu của ông cũng là  biểu trưng cho cả khu vực Tây Bắc Việt Nam khi đó. Cầm Trọng, một nhà Thái học nổi tiếng trong công trình Những hiểu biết về Người Thái ở Việt đã có lý khi chỉ ra rằng: “Nói đến Mường Muổi, người hiểu biết thường suy tư tới các bậc tiên tổ như Ngu Hấu-Lò Lẹt, Ta Cầm, Ta Ngần đã có công dẫn dắt miền Tây Bắc phát triển đạt tới cực thịnh trong các thế kỷ XIII-XIV. Và chính thức đưa miền quê hương trở thành đất phên dậu án ngữ phía tây Tổ quốc được triều đình thời Trần-Lêđặt cho cái tên Thuận Châu với nghĩa châu mường thuận kỷ cương của đất nước”[1].

Ngưu Hống khi đóđược coi là cảMười sáu châu Thái (Xíp hốc châu Táy) mặc dù trong thực tế Ngưu Hống chỉ trông coi một châu mường lớn mà tiếng Thái gọi làmường luông. Châu mường lớn – mường luông trong xã hội người Thái được các mường bái hầu- mường vảy giao phó trọng trách thừa hành mệnh lệnh của nhà nước trung ương đối với toàn khu vực. Đứng đầu châu mường lớn, vì thếđược gọi làcụ chủ-pú chảu hoặc cụ trời-pú phạ, hàng năm được các mường bái hầu cống lễ. Cụ chủ-cụ trời được triều đình coi là viên đại tri châu. Sự thăng trầm, trồi sụt về quyền lực đối với địa phương, uy tín đối với nhà nước trung ương của các cụ chủ-cụtrời tạo ra những đổi thay về vị trí châu mường lớn-mường luông, theo Cầm Trọng, diễn tiến như sau:

– Thế kỷ X-XI. Hai cha con Tạo Xuông-Tạo Lò xây dựng mường luông Mường Lò.

– Thế kỷ XI-XII. Lạng Chượng chuyển vị trímường luông lên Mường Thanh (Then).

– Thế kỷ XIII-XIV, Mường luông Mường Muổi phát triển vàđạt tới cực thịnh dưới thời Lò Lẹt (Ngu Hấu), Ta Cầm vàđặc biệt là Ta Ngần.

– Thế kỷ XV-XVII. Vị trímường luông chuyểnvề Mường Xang.

– Thế kỷ XVIII. Mường La (Sơn La) giữ vị trímường luông.

– Thế kỷ XIX, nhà Nguyễn bãi bỏ chếđộmường luông; đặt các châu mường trực thuộc tỉnh Hưng Hoá. Mất 6 châu mường vì nhập vào bản đồ Trung Quốc theo hiệp ước Thiên Tân 1884. Đổi tên Mười sáu châu Thái thành Thập châu (mười châu).

– Cuối thế kỷ XIX, đầu XX, chính quyền thực dân xâm lược Pháp mặc dù còn trứng nước, nhưng đã dần chia các châu mường Thái thành các đơn vị tỉnh: Lai Châu, Sơn La, Lào Cai, Yên Bái. Người Pháp vẫn coi Mường Mụa (Mai Sơn) như một mường luông và duy trì tên truyền thống gọi là Mười hai châu Thái (Xíp xong châu Tay). Mười hai châu Thái thực chất chỉ tồn tại như một danh xưng, không phảiđơn vị tổ chức mường như khu vực Mười sáu châu Thái trước đây. Và xét cho cùng danh xưng này cũng chỉ tồn tại thời cụ Cầm Văn Oai làm người đứng đầu châu Mường Mụa. Năm 1934, sau khi cụ mất danh xưng ấy cũng chẳng còn nữa1.

Thế kỷ XIV là thời kỳ phát triển toàn thịnh nhất của khu vực Tây Bắc Việt Nam với sự hiện diện của Mười sáu châu mường như sau:

Các châu mường hiện tại nằm hoàn toàn trong lãnh địa hoặc một phần lãnh địa của tỉnh Sơn La:

  – Mường Vạt, nay là huyện Yên Châu

  – Mường Mụa, nay là huyện Mai Sơn, một phần các huyện Sông Mã và Sốp Cộp.

  – Mường Muổi, nay là huyện Thuận Châu, một phần của huyện Sông Mã và Sốp Cộp. Huyện Tuần Giáo (Điện Biên), xưa gọi là Mường Quài, theo truyền thống cũng thuộc Mường Muổi.

  – Mường La, nay là thành phố Sơn La và huyện Mường La.

  – Mường Tấc, nay là hai huyện Phù Yên và Bắc Yên. Ngoài ra còn bao gồm cả khu vực Thu Cúc, Lai Đồng, Xuân Đài (Phú Thọ).

  – Mường Xang, nay là huyện Mộc Châu. Ngoài ra còn Đà Bắc, Mai Châu (Hoà Bình).

  – Mường Thanh, chủ yếu thuộc tỉnh Điện Biên (thành phốĐiện Biên, hai huyện Điện Biên vàĐiện Biên Đông). Một phần châu mường thuộc vào Sông Mã và Sốp Cộp.

  – Mường Chiến, ngoại trừ huyện Quỳnh Nhai thuộc Sơn La còn lại các huyện thuộc về Lai Châu, Lào Cai.

Như vậy có tới một nửa trong tổng sốMười sáu châu Thái đóng góp hoàn toàn hoặc một phần lãnh địa để cấu thành tỉnh Sơn La ngày nay,ngoại trừ 6 châu mường đã bị sáp nhập vào tỉnh Vân Nam (Trung Quốc)[2], chỉ còn 2 châu mường nằm ngoài Sơn La:

Mường Lò, nay gồm thị xã Nghĩa Lộ và các huyện Văn Chấn, Trạm  Tấu, Mù Cang Chải (Yên Bái), Than Uyên (Lai Châu), Văn Bàn (Lào Cai).

Mường Lay, nay gồm thị xã Lai Châu và các huyện Mường Lay, Mường Tè, Mường Nhé, Sình Hồ, Tủa Chùa (Lai Châu).

Đơn vị tụ cư nhỏ nhất của người Thái làbản (riêng người Thái Đen còn cóđơn vị tụ cư trung gian làxổng) rồi đến mường phìa. Bản ởđây được hiểu là tương đương với thôn xóm, mường phìa tương đương với xã hoặc tổng ở khu vực người Kinh. Nhiều mường phìa hợp thành một chu, một nha– tức châu mường, tương đương cấp huyện.

Một khi châu mường trở thành trung tâm của Mười sáu châu Thái thìđược gọi làmường lớn-mường luông.

Bộ máy quản lý xã hội của người Tháiở châu mường ra đời khá sớm. Ngay từ thế kỷ XI, tại Mường Lòđã có sự phân định: họ Lường làm mo, họ Lò làm tạo. Mỗi châu mường Thái là một lãnh địa thuộc một dòng quý tộc Thái cai quản, hoặc nói như Cầm Trọng, châu mường làđơn vị tổ chức chính trị, kinh tế và văn hoá lớn nhất bao trùm toàn bộ mường trong tổng thể xã hội bản mường của người Thái ở Tây Bắc trong thời gian trước năm 1954. Mỗi một châu mường do một dòng quý tộc cai quản, theo lệ thế tập hoặc anh em trưởng thứ thay nhau giữ ngôi vị người đứng đầu. Các dòng quý tộc có họ gốc là Lò Cầm (Cầm có nghĩa là Kim) sau đổi thành: Cầm, Bạc Cầm, Điêu (Đèo, Dao hay Tao) Hoàng hoặc Hà hay Vi Cầm sau đổi là Sa Văn[3].

Ngoài cụ chủ-pú chẩu hoặc cụ trời-púphạ trông coi mường lớn- mường luông,đứng đầu các châu mường khác làchủ mường-chẩu mường. Cũng có tài liệu gọi làán nhá hoặc phìa, cả hai đều có nghĩa là thủ lĩnh, người đứng đầu. Chủ mường có nhiệm vụ thu đủ thuế và lương, là người đi đầu trong việc phá hoang, lập bản và phải là người giỏi văn, mạnh võ.

Trước hết, để trở thành chủ mường, người đó phải thuộc dòng quý tộc, đã nhiều đời thế tập, được tập đoàn quý tộc đó coi là người đứng đầu họ tạo. Vì thế, chủ mường trở thành người đại diện cao nhất của dòng quý tộc trong châu mường, qua đó mà bảo tồn đặc quyền, đặc lợi theo luật tục của châu mường và ngược lại châu mường thông qua Hội đồng bô lão toàn mường (thấu ké háng mướng) thực thi quyền tiến cử, bãi miễn, bắt phạt, xử tội và giám sát đối với chủ mường.

Việc tiến cử các chủ mường thường chỉđược diễn ra khi chủ mường đương nhiệm già yếu. Người được tiến cử rơi vào người con trai cả của chủ mường. Các cụ chủ-cụ trời của mường lớn chỉ dừng lại trong trách nhiệm tư vấn, nhận lễ tạơn, dẫn đầu đoàn đi nhận ấn tín, sắc phong của nhà nước trung ương.

Chủ mường còn có nhiệm vụ chọn trong giới quý tộc người làm phìaở các mường phìa để Hội đồng bô lão toàn mường xét duyệt. Giúp việc chủ mường cóđội ngũphìa lý, phìa phó, phìa thổ, phìa thông.

Hội đồng bô lão toàn mường là một tập hợp các chức dịch cơ sở sau đây:

– Các chức vịông, quan(Thái Đen), quảng (Thái Trắng), quan bản (xuất thân bình dân), tạo bản (xuất thân quý tộc).

Ở những mường phìa lớn của người Thái Đen còn cótạo lộng, tạo ken; của người Thái Trắng cótạophủ nhấu, người Thái ở Mộc Châu cótần tổng.

Đội ngũ chức dịch này khá phức tạp, sự xếp sắp, tên gọi, số lượng mỗi nơi mỗi khác nhưng tựu chung các chức dịch cơ sở này đều có nhiệm vụ về các công  việc trị an, thực thi và giám sát thực thi luật tục, tạp dịch.

– Các chức dịch quan cuông, quan ná, xự linh, xam linh, chá hướn luông, chá hướn nọi, căm tang, lam pọng… chuyên trách các việc phục dịch cho chủ mường, phìa về các vấn đề lao dịch trên đồng ruộng, gìn giữ và bảo vệ sự tôn linh của bản mường.

-Đội ngũ các mo, chang chăm lo củng cố và giữ vững thần quyền. Đây là một tập hợp những người hiểu biết một cách tinh tường các tập tục thờ cúng ở bản mường, ghi chép lịch sử của các dòng qúy tộc, thông thuộc nhiều áng văn thơ cổ, nắm bắt được nhiều thâm cung bí sử. Trong xã hội người Thái, họ Lường được quyền thế tập giữ chức mo mường.

Như vậy, từ cuối thế kỷ XIX trở về trước, hệ thống tổ chức hành chính cổ truyền trong xã hội người Thái,đã tồn tại song song với hệ thống tổ chức của chính quyền trung ương. Đặc điểm nổi bật nhất của tổ chức hành chính cổ truyền đó là, ở bất kỳđịa phương châu mường nào, chức vị chủ mường đều thuộc về một dòng họ quý tộc nhất định, cha truyền con nối. Các cuốn sử biên niên chép tay của người Thái ghi lại kháđậm nét dòng họ Lò Cầm (Lò Vàng) theo Tạo Ngần, Tạo Xuông và Lạng Chượng khai phá và chinh phục các cư dân và những thành phần dân tộc khác nhau,ở khắp khu vực Tây Bắc Việt Nam. Đây là hiện tượng phổ biến, có nguồn gốc từ xã hội bộ lạc cổđại. Qua tiến trình lịch sử và sự sàng lọc của thời gian,đãđể lại trong xã hội người Thái nhiều loại chủ mường khác nhau, quyền hạn to nhỏ tuỳ theo địa vực phụ trách, đại để như sau:

– Nắm giữ một vùng rộng lớn nhưMười sáu châu Thái, Mười châu Thái, những cụ chủ-cụ trời còn được gọi làchâu phen đin, điều này chỉ diễn ra trong lịch sử của người Thái Đen vào các thời kỳ Lạng Chượng, Ta Ngần và Bun Phanh. Riêng ở Mộc Châu, vào thời Lê họ Xa cũng được tôn vinh như vậy.

– Các chủ mường còn lại, về danh nghĩa phải chịu thần phục châu phen đin. Lớp chức dịch giúp việc chủ mường, hầu nhưđều có nguồn gốc xuất thân từ lớp quý tộc, cũng cha truyền con nối, hợp với dòng họ chủ mường thành tầng lớp thống trị.

– Đông đảo hơn cả làđội ngũphìa, tạo cai quản các mường nhỏ hoặc một bản.

Chủ mường, dòng họ chủ mường có nhiều quyền lợi về kinh tế. Họđược hưởng chiếm những khu rừng có nhiều sản vật và cầm thú, những khúc sông nhiều cá, những hang don, những tổ ong lớn, những bộ phận quý hiếm  của thú săn, một số ruộng không phải đóng thuế, lấy cuông làm người nhà, lấy pụa làm người lệ thuộc.

Lương của chủ mường và các chức dịch chính là số ruộng và số lao động được hưởng thông qua chếđộcuông, pụa. Quan hệ xã hội kể trên dẫn tới sự phân hoá  nội tại trong xã hội người Thái với nhiều đẳng cấp khác nhau:

Đẳng cấp quý tộc bao gồm các chủ mường, dòng họ quý tộc, các loại chức dịch thượng đẳng. Đẳng cấp này nắm quyền cai trị.

Đẳng cấp bình dân gồm những nông dân tự do, những người trở thành cuông, pụa, nhốc, côn hươn (gia nô) và những gia đình chức dịch hạđẳng.

Rõ ràng châu mường ở khu vực người Thái, có nhiều nét dị biệt với đơn vị hành chính phủ, huyện của người Kinh. Trước hết, ngoài ranh giới rõ ràng, mỗi châu mường phải có một lịch sử tạo thành được ghi chép trong các bộ biên niên sử hoặc tộc phả của dòng họ quý tộc. Trung tâm của châu mường phải trở thành chiềng với hàm ý là nơi đặt bộ máy cai quản, đầu não về kinh tế, chính trị, văn hoá của toàn khu vực.

Nhiều khảo sát cho thấy, trong các châu mường của người Thái, chiềng bao giờ cũng nằm ở vị thế trung tâm, đất đai màu mỡ nhất, gần sông suối, do đó chỉ có gia đình các phìa, tạo được cư trú. Ngày nay, một sốđịa danh mang tên chiềngở Sơn Lađã thoát li ý nghĩa ban đầu của nó[4].

  1. Khu vực người Mường, người Mông, người Khơ Mú

Người Mường tụ cư trong các chòm, xóm rồi hợp nhau lại thành mường, do các langđứng đầu, chi phối. Lang là chếđộ thế tập, cha truyền con nối nhưng lại phân biệt: chỉ có con trưởng của chi trưởng mới được làm lang cun (đại thủ quan)đứng đầu mường, được cai quản xóm chiềng là xóm lớn nhất, ruộng đất nhiều; con thứ ngành trưởng hoặc con trưởng ngành thứ thì cai quản các xóm nhỏ, gọi làlang đạo. Cách thức phân chia quyền lực, phạm vi cai quản trên của người Mường tạo ra chếđộnhà lang kháđặc trưng.

Những người được đứng trong hàng ngũ nhà lang được các ậuthổ lang giúp việc. Nhà lang tự mình chọn ra hoặc phế truất các ậu trong những người không thuộc dòng họ của mình. Người trở thành ậu phải làm cỗ khao chòm xóm, bảo vệ trị an, quản lý ruộng đất cũng như tài sản của toàn mường và của nhà lang, đôn đốc phu phen, thu tô hoặc đồ biếu xén cho nhà lang.

Lang cun có nhiều đặc quyền, đặc lợi.

Về ruộng đất, họđộc quyền chiếm hữu phần lớn các khoảnh ruộng lang trong mường, lại tìm mọi cách mở rộng thêm thông qua việc phạt vạ, thu lụt (tịch thu ruộng đất của những người không có con trai kế nghiệp), cho vay nặng lãi. Ruộng lang của lang cun bao giờ cũng vào loại thượng đẳng điền, tiện nguồn nước, gần thôn xóm, khi mùa đến được dân toàn mường chia nhau đến làm xâu (làm kiểu tập đoàn), làm nõ (làm kiểu đơn lẻ). Ai không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ sẽ bị phạt lợn, rượu.

Về bổng lộc, nếu họ có việc cưới xin, các ậu phải xuất tiền nộp lễ cưới; lang đạo lo việc nuôi tiếp tân khách và chia bổ phần tốn phí. Nếu họ có việc làm nhà thì dân toàn mường phải tân xuất để vào rừng đốn vật liệu (gỗ, tre, nứa, cỏ gianh), làm rào gỗ, phên thưa, nghi môn và chia nhau canh giữ quanh nhà. Khi họ sắp có giỗ chạp thì dân toàn mường phải cắt cửđi săn thú, đánh bắt cá, còn lang đạo phải nộp lợn, rượu và tề tựu đến lễ bái, ai thiếu sẽ phạm vào tội bất kính lang đạo và còn bị tước đoạt mất dân. Khi họ có việc tang lớn báo hiếu, dân toàn mường mỗi nhà phải lo nộp trâu, lụa, vải trắng, rượu để tiếp đãi quan khách; nhà nào cũng phải cắt tóc để tang như tang cha mẹđẻ của mình.

Ngoài ra, đối với lang đạo và dân trong mường, nếu nhà có tang lớn và việc cầu đảo hoặc việc gì phải mổ trâu, bò, dê, lợn thì phải nộp một số vật phẩm của con vật, một mâm cỗ chín. Mỗi năm, mỗi nhà dân còn phải nộp một số bông tơ sống, gai, thầu dầu và rượu. Người nào phạm vào điều gì của lệ mường phải tạ lệ, nếu thiếu sẽ bị bắt làm nô tỳ hoặc nộp trâu, mất ruộng.

Người Mông cư trú trong các giồng, giao gồm vài ba nhàđến hàng trăm gia đình. Đơn vị tụ cư này có thểở trên cùng một địa điểm cũng có thể trảira thành nhiều khu vực khác nhau, gần giống với thôn xóm của người Kinh, bản của người Thái, có một đến hai người đứng đầu theo chếđộ luân phiên, gọi làlèng thầu, xeo phải hoặc mã phải, tuỳ theo sự rộng hẹp của địa bàn cư trú. ởđịa vị cao hơn nữa là các chức vụtrống truổ-coi một xã, thống lýphó thống lý – coi một vùng.

Đội ngũ lý dịch của người Môngđều thuộc tầng lớp trên hoặc những người đứng đầu dòng họ lớn có uy tín đứng ra điều hành công việc ởđịa phương (thu thuế, bắt phu, giữ gìn trị an). Tuỳ theo địa vị của từng chức dịch mà họđược hưởng đất riêng thu về từ những gia đình tuyệt tự, chuyển cư hoặc mắc lỗi để làm khơ cù (đất tiếp khách) hoàn toàn do dân canh tác, thu hoạch. Họ còn được cấp tỷ súngđể làm tạp dịch (liên lạc, nước nôi, chăn ngựa), thú dung (thổ dõng) để bảo vệ. Xì trángđược giao nhiệm vụđiều khiển tỷ súng, thú dung.

Người Khơ Múở những khu vực cư trú thành những bản riêng, không phụ thuộc vào người Thái, có bộ máy cai quản riêng. ở mỗi bản như thế, trưởng bản làngười đứng đầu không phải chịu lệ cống nạp, làm lao dịch vàđược quyền sai khiến một vài người đồng tộc.

Tuy nhiên, phần lớn người Khơ Mú bị lệ thuộc hẳn vào xã hội Thái, sống rải rác thành từng bản trong các châu mường vì thế hầu hết họ phải làm pụa, làm cuông cho các chủ mường.

Rõ ràng, hệ thống quản lý xã hội cổ truyền của người Thái, người Mường, người Mông, người Khơ Mú chỉ mới dừng lại ở các buổi sơ kỳ chếđộ phong kiến Việt Nam, còn giữđược nhiều dáng vẻ nhẹ nhàng, thanh thoát và tính dân chủ của nó còn kháđậm đà.

II.BỘ MÁY QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THỜI LÊ

Muộn nhất, vào thời Lê, nhà nước trung ương đã can thiệp và chi phối mạnh mẽ vào bộ máy quản lý hành chính ở khu vực Tây Bắc Việt Nam. Phạm Thận Duật trong Hưng Hoá ký lược, viết năm 1856 khi đang làm Tri châu Tuần Giáo kiêm Tri châu Châu Luân cho biết: “Năm Quang Thuận thứ 7 đời [Lê]  Thánh Tông [1466] (Trương Quốc Dụng trong sách Thoái thực ký văn chép là năm thứ 10-đợi khảo) lập ra 13 đạo Thừa tuyên, trong đó có 1 đạo [Thừa tuyên] Hưng Hoá… Năm Quang Thuận thứ 9 [1468] định Thiên hạ bản đồ (xem Quốc sử, Trương Quốc Dụng chép năm Hồng Đức thứ 2-đợi khảo), [theo đó nước ta] gồm 52 phủ, 178 huyện, 50 châu. Trong trấn [đạo Thừa tuyên] Hưng Hoá có 3 phủ, 4 huyện, 17 châu (sách Thiên Nam dư hạ tập nói, vốn có 3 phủ, 4 huyện, 16 châu. ởđây căn cứ theo sách Trương Quốc Dụng)[5].

Những điều Phạm Thận Duật miêu tảđều trùng khớp với những sử liệu được nêu trong Đại Việt sử ký toàn thư[6], Khâm định Việt sử thông giám cương mục[7]. Căn cứ vào những chú giải của Quốc sử quán triều Nguyễn thì khi đó hầu hết tỉnh Sơn La ngày nay nằm trong phủ Gia Hưng (châu Phù Hoa, châu Mộc, châu Việt, châu Thuận)- chỉ trừ châu Mai và huyện Thanh Xuyên. Ngoài ra còn châu Quỳnh Nhai thuộc phủ Yên Tây được nhập vềđịa phương từ sau cách mạng tháng Tám (1945).

Như vậy, đã có nhữngsự biến thiên, thay đổi khá lớn về các đơn vị hành chính cấp châu, huyện cũng như tước vị của những người đứng đầu các đơn vị hành chính ấy.

Đạo Thừa tuyên Hưng Hoá thời Lê Thánh Tông có tới 16 hoặc 17 khu vực người Thái cư trúđược gọi là châu. Đứng đầu và là châu lớn (mường luông) khi đó là châu Mộc, người thủ lĩnh thuộc dòng họ Xa được gọi làĐại tri châu cònđứng đầu các châu khác thìđược gọi làTri châu hoặc Phụđạođược thực thi quyền hành trực tiếp trong khu vực mà họ quản lý. Ngoài ra còn có 4 huyện phần lớn là khu vực cư trú của người Mường,đứng đầu là lang cun được gọi làĐại thủ quan, lang đạo được gọi làPhụđạo, dưới quyền của các Tri huyện người Kinh đến thực thi nhiệm vụ theo chếđộ lưu quan.

Trong số 16 hoặc 17 châu Thái, phủ Yên Tây chiếm tới 10 châu, thời đó rất rộng lớn. Theo Đại Nam nhất thống chí: “Phủ này trước lãnh 10 châu, đến đời Lê Cảnh Hưng, 6 châu Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ và Khiêm bị mất về nhà Thanh, chỉ còn 4 châu Chiêu Tấn, Quỳnh Nhai, Lai và Luân”[8]. Ngoài ra, còn phải kểđến châu Mộc có tới 23 động, vào năm ất Mùiđời Lê Cảnh Hưng thứ 36 (1775) chia ra châu Mã Nam ở phía nam sông Mã và châu Đà Bắc ở phía bắc sông Đà. Sau châu Mã Nam nhập vào Thanh Hoá, rồi thành vùng Trấn Ninh bên Lào.

Để hiểu thêm về  bộ máy quản lý hành chính trong các châu Thái nằm trong địa vực vàđã bị phong kiến hoá theo thời gian ra sao, xin dẫn ra một vài tài liệu do người xưa để lại như sau:

  1. Châu Phù Hoa, tên gọi vào thời Lê của khu vực Mường Tấc. Cầm Trọng trong Người Thái ở Tây Bắc Việt Namviết[9]: “Cho đến nay vẫn chưa có một lý giải nào về sự xuất hiện châu Mường Tấc. Song có thể biết chắc chắn rằng trước khi ngành người Thái Đen tới Mường Lò thì tập sử thi Táypú xớcđã có câu Mường Tấc là mường của nàng người Kinh sống bên tạo (Mường Tấc, mướng náng Keo ma dú. Ma dú ma phong tạo). Mường Tấc là mường của người Thái Trắng. Nếu lấy mốc thời gian phù hợp với sự có mặt với ngành Thái Trắng ở miền Bắc Tây Bắc, có lẽ sự có mặt họởđây ít nhất cũng phải từ thế kỷ thứ VIII công nguyên. Trung tâm mường đặt ở lòng chảo gọi là Mường Tấc hay Viềng Tấc (nay là bản Viềng)”.

Theo Lê QuýĐôn, vào thời ông biên soạn Kiến văn tiểu lục châu Phù Hoa thuộc quyền của phụđạo Cầm Nhân Đôi, tiếp đó là trong tay con trai là Cầm Nhân Cai, vì phong tục của châu này, phụđạo chỉ nuôi một con trai, còn lại thì không nuôi nấng gì cả và cho rằng làm như vậy sẽ ngăn được mối tranh giành lẫn nhau. Dân ở châu đông đúc, ruộng đất màu mỡ. Sách Đại Nam nhất thống chí cũng chép rằng thổ tù phụđạo ở châu này là họ Cầm thế tập; năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) đổi làm châu Phù Yên, đặt lưu quan, đổi động làm xã; năm TựĐức thứ 6 (1854) lại đặt thổTri châu. Sách Đồng Khánh dưđịa chí, phần chú giải cho rằng, phải đến đầu niên hiệu Thiệu Trị (1841) vì kiêng tên huý của mẹ vua nên đổi Hoa thành Yên. Nguyễn Văn Siêu trongPhương Đình dưđịa chí cũng cho rằng năm đầu niên hiệu Thiện Trị mới có sự thay đổi như trên, tức là Phù Hoa đổi thành Phù Yên.

  1. Châu Mộc, tên gọi thời Lê của khu vực mà người Thái gọi là Mường Móc hoặc Mường Xang. Mường Móc trong tiếng Thái có nghĩa làmường có mây bao phủ, mường sương mù. Cầm Trọng còn cho rằng, mộc không phải là lối ghi âm của người Kinh mà là lối định danh của người Kinh về một vùng có nhiều gỗ quý. Ngoài ra, ông còn cho biết tên Mường Xang xuất hiện trong truyền thuyết về cuộc di dân lớn của người Thái Trắng từ Lào vào khu vực này. Đó là tên phát âm chệch của Mường Khang- có nghĩa làmường gang thép, gắn bó với truyền thuyết Nhọt Cằm, thủ lĩnh của cuộc di dân. Trung tâm của Mường Xang có núi Pha KhỉSút (sáp ong) và chùa Vặt Hồng mang phong cách kiến trúc Lào[10]. Đại Nam nhất thống chícho biết: “Tương truyền tiên tổ họ Xa là con thứ của Quốc trưởng Ai Lao. Quốc trưởng ban cho đất nước đểăn lộc. Người con thứ này tự xin đi tìm chỗđất tốt đểở, khi qua sông Nậu lấy cục đá cầu khấn trời rằng: – Đi tìm khắp núi sông, hễ chỗ nào đá có thể nói được sẽở chỗấy! Khi đi đến châu Mộc, người ấy bỗng tự nói: – Ta nên ở chỗ này! Bèn đỗ lại đấy. Người ấy bảo thổ tù cũ rằng: – Thần núi có nói trên đỉnh núi cao có tảng đá, hễ ai bắn trúng tảng đáấy mà mũi tên không rơi xuống đất thì cho làm tù trưởng! Sau đó họ Xa dùng nhựa trám dính vào đầu tên, quả nhiên bắn trúng mà mũi tên không rơi xuốngđất. Rồi lại sai người lên núi cao giả thác làm lời của thần núi nói: – Nay cho họ Xa làm thổ tù! Thổ tù cũ sợ thần bèn nhường. Sau quyền đến đời con cháu là Xa Khả Tham, giúp Lê Thái Tổ bình định đất nước, vì có công được cho Quốc tính, chức Tư không, cho đất châu Mộc làm thái ấp, con cháu được thế tập”[11].

Về sự kiện Xa Khả Tham, trong Đại Việt sử ký toàn thư cũng ghi nhận:

“Bọn phụđao Mường Mộc, trấn Gia Hưng là Xa Khả Tham quy thuận.

  Trao cho Khả Tham chức Nhập nội Tư không Đồng bình chương sự tri Đà Giang trấn thượng bạn; ban cho túi Kim ngư, tước Trụ quốc Quan phục hầu.

Cho Xa Lộc làm Kim ngô vệ Thượng tướng quân, tước Đại tri tự; Xa Bàn, Xa Điền [con trai của Xa Khả Tham] đều đươc làm Ngọc kiểm Vệđại tướng quân, tước Ninh tự, đều được ban Quốc tính [họ Lê của nhàvua]”[12].

Đến cuối thế kỷ thứ XVIII, theo Lê QuýĐôn, phụđạo châu Mộc là Xa Khả Phấn, sau khi Phấn mất, các chi tranh nhau. Năm Bínhthân (1776) viên lưu thủ là Lý Trần Thản giữ chức Hiệp đốc, mới chia làm 3 châu: đem Chính Trình vàĐàn Tổng, Hạ Tổng đặt làm châu Mộc cho Xa Văn Mang cai quản; đem động Hàm Bằng đặt làm châu Mã Nam cho Xa Văn Ôn cai quản; đem động Trình Sàng đặt làm châu Đà Bắc cho Xa Văn Khoa cai quản. Cả 3 đều làm Phụđạo, quản suất dân trong châu[13].

  1. Châu Yên, theo Quắm tố mướng, hồi thế kỷ XIII, địa phương xuất hiện với cái tên là Mường Vạt còn Đại Việt sử ký toàn thư ghi là Mường Việt nhân sự kiện Trần Minh Tông đóng quân trên đường đi đánh Ngưu Hống (1329). Sách Đại Nam nhất thống chícho biết, đầu đời Lêđặt làm châu Việt, thổ tù họ Hoàng được thế tập. Năm Minh Mệnh thứ 3 (1822) đổi làm châu Yên. Năm Minh Mệnh thứ 9 (1826) đổi động làm xã, vẫn đặt thổTri châu như cũ.

Theo Lê QuýĐôn, hồi cuối thế kỷ XVIII, Phụđạo châu Yên là Hoàng Nhân Sinh, có 3 động.

  1. Châu Thuận, tên gọi thời Lê vùng đất Mường Muổi của người Thái. Thời Trần gọi khu vực này là châu Mỗi. Cầm Trọng cho biết, hiện nay tuy chưa biết ý nghĩa tại sao có tên Mường Muổi nhưng có thể nói chắc chắn rằng đó là một mường xuất hiện vàđồng thời nổi tiếng từ khi Lạng Chượng dẫn người Thái di cư từ Mường Lòđến (thế kỷ XII). Nó trở thành châu mường từ thế kỷ XIII lúc dòng quý tộc Thái Đen rời trung tâm Mường Thanh xuống. Thế kỷ XIV Mường Muổi đã trở thành trung tâm thống nhất các vùng cư trú của người Thái ở miền Tây nói chung[14].

Lê QuýĐôn ghi nhận: Châu Thuận-thổâm là Mường Muổi, Phụđạo Bạc Cầm Châu là chi chính, viên Trấn thủ trước đãđổi bổ cho Bạc Cầm Chính làm chi thứ, em là Bạc Cầm Ngôi cũng làm Phụđạo[15]. Đại Nam nhất thống chí cho biết: nguyên trước châu Thuận có 9 động, sau vìđất đai quá rộng mới tách lấy 3 động Mai Sơn, Sơn La và Tuần Giáo đặt làm 3 châu, còn lại 6 động, sau hợp lại thành 5 động. Năm Minh Mệnh thứ 15 (1834) đổi động làm xã, vẫn đặt thổTri châu như cũ[16]. Hưng Hoá phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính viết rằng, Châu Thuậnnguyên thổâm là Mường Ly, khi Châu trưởng chết thì hoả táng rồi đúc hộp bằng bạc đểđựng tro, tìm nơi rất hiểm trong núi để mai táng, không cho người khác biết.

Sở dĩChâu Thuận còn có tên là Mường Ly vì trung tâm  của châu đặt ở Chiềng Ly, còn gọi là Chiềng Pha.

  1. Châu Mai Sơn, tên này xuất hiện vào gần cuối thế kỷ XVIII. Theo Hưng Hoá phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính, vào đầu đời Lê Cảnh Hưng, chúa Trịnh Sâm thấy đất quá rộng của Châu Thuận khó bề khống chếmới tách Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo ra lập thành châu. Dân chúng trong châu khoẻ mạnh, dũng hãn, khi có chinh chiến nên dùng họ làm hướng đạo. Dao dịch và thuếđiệu đều thuộc vềđây. Phụđạo cũng thuộc một biệt chi họ Cầm.

Người Thái gọi châu Mai Sơn là Mường Mụa. Tên gọi này xuất hiện trong bộ sử thi Táy pú xớc, thời kỳ Lạng Chượng dẫn người Thái Đen từ Mường Lò lên Mường Thanh (thế kỷ XII). Theo một số nhà Thái học, Mường Mụa là biến âm của Mường Pụa – tức mường của người Xinh Mưn, một tộc người có mặt khá sớm ở Tây Bắc.

Thời Lê QuýĐôn, Phụđạo châu Mai Sơn là Cầm Nhân Tuần rồi đến Cầm Nhân Hồng, Cầm Danh Quý kế tập.

  1. Châu Sơn La, tiếng Thái gọi là Mường La, thời Lê QuýĐôn, Phụđạo là Cầm Nhân Mang và họ Cầm chia nhau quản trị việc mường. Năm Minh Mệnh thứ 19 (1838) các động trong châu được đổi làm xã.
  2. Châu Quỳnh Nhai theo Lê QuýĐôn, người Thái gọi châu này là Mường Chăn, Phụđạo làĐèo Chính Chăn. Trong châu có 5 động, người nhiều đất tốt, khi đi lại phần nhiều dùng thuyền, con trai con gái đều giỏi bơi lội, nghề nghiệp chính là nghềđánh cá, không cứ nhà giầu nhà nghèo đều có vó lưới. Sách Hưng Hoá phong thổ lục của Hoàng Trọng Chính cho rằng Quỳnh Nhai có thổâm là Mường Cậy, họĐèo đời đời làm Phụđạo.

Theo Phạm Thận Duật, đại khái việc thay đổi chức quan ởđịa phương diễn ra như sau:

“ Huyện Tam Nông trước thuộc về Sơn Tây, vốn đặt lưu quan, có 16 châu, 4 huyện, từđời Lê trở về trước đều cho thế tập. Nhưng chức tước ban cho họ thì hoặc là Tri châu, Cai châu, Phó châu. Đồng Tri châu hoặc là Tuyên uý sứ, Chiêuthảo sứ, Phòng ngự sứ. Thổ dân đều gọi các quan chức ấy là Phụđạo. Triều ta phần nhiều theo lệ nhà Lê.

– Châu Mộc vàĐà Bắc                                          cho họ Xa thế tập

– Huyện Thanh Xuyên                                          cho họĐinh thế tập

– Châu Mai                                                 cho họ Hà thế tập

– Châu Yên                                                 cho họ Hoàng thế tập

– Châu Thuận                                                         cho họ Bạc thế tập

– Mai Sơn, Sơn La, Tuần Giáo                             cho họ Cầm thế tập

– Châu Thủy Vĩ                                                      cho họ Nguyễn thế tập

– Châu Phù Yên                                                     cho họ Cầm thế tập

– Quỳnh Nhai, Lai, Luân, Chiêu Tấn                  cho họĐèo thế tập

   Gồm 14 châu, huyện có Phuđạo

– Sách Thạch Lương, Hạ Lộở Văn Chấn, họ Lê cũng cho thế tập.

Còn 4 châu huyện: Văn Bàn, Ninh Biên, Trấn Yên, Yên Lập, và các sách Đại Lịch, Hương Sơn thì tuỳ nghi mà lập tù trưởng, chứ không cho thế tập”[17].

Thế kỷ XVII, Hưng Hóa có nhiều biến động về tổ chức vàđội ngũ quản lý các đơn vị hành chính sở tại

Tháng 9/1723, dưới triều Bảo Thái, phủ liêu được lệnh chiếu theo núi sông, đồng bằng và thung lũng ở các xứ mà vạch chia địa giới, cắt chỗ nọ sáp nhập vào chỗ kia, dứt khoát định rõ bờ cõi. Từ kết quả thực địa, phủ liêu đãđưa 7 sách Lăng Xương, Quan Đức, Phương Mao, Hoằng Nhuệ, Võ Song, Mông Hóa, Thái Hoà và xã Thư Pháp thuộc huyện Thanh Xuyên trấn Hưng Hoá sáp nhập vào huyện Hạ Hoa trấn Sơn Tây; sách Xuân úng trước thuộc huyện Yên Lập trấn Hưng Hoá sáp nhập vào huyện Hoa Khê trấn Hưng Hoá.

Tháng 6/1724, cũng dưới triều Bảo Thái, phủ liêu vâng lệnh truyền cho các trấn Tuyên Quang, Hưng Hoá, Lạng Sơn, Yên Quảng và Cao Bằng: phàm nơi nào khuyết viên quan quản mục lính thổ và người thổ thì cho phép phiên thần và phụđạo bảo cử lấy người xứng đáng để làm quản mục và chia làm 2 hạng: xảo khả(hạng khá) vàthứ xảo khả (hơi khá), kê khai họ tên và nộp ở nha môn lưu thủ và trấn thủđểđiều tra, làm tờ khải tấu lên xin lệnh thi hành.

Tháng 5/1739, dưới triều Vĩnh Hựu, triều Lê bàn luận về việc thi hành 6 điều để xử trí phiên trấn ngoài biên giới. Các phủ liêu cho rằng các trấn Thái Nguyên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang và Hưng Hoácũng như cái phên cái dậu của nhà nước, nên tuỳ tình hình mà xử tríđể nơi biên cảnh được yên. Sáu điều đó là:

  1. Phụđạo trong hàng phiên thần phần nhiều cầu cạnh để quản lãnh quân và dân. Nay nên giao cho viên quan ở trấn xét chọn, nếu người nào xứng đáng sẽ trao cho chức trách ấy.
  2. Các trưởng mỏ, nên theo chếđộ cũ, hạ lệnh cho phụđạo quản cố trông coi, để lính mỏ có thống thuộc.
  3. Người Nùng áo xanh đều nên có phương pháp khu xử.
  4. Gỗ lạt ở thượng lưu, có hạng người thường mua bằng lối đặt tiền trước, hoặc lối cho vay tiền, như thế có hại cho dân, tệ tục ấy nên trừ bỏđi.
  5. Các sở tuần ti thiện tiện đặt chi nhánh để thu thuế người buôn bán một cách ngang trái, cần phải nghiêm cấm để tỏ rõ lòng khoan hồng đối với lái buôn.
  6. Các trấn bịđiêu tàn, nên tha cho những thuế còn thiếu, để yên ủi dân ngoài biên giới.

Chúa Trịnh Giang cho thi hành bốn điều, còn hai điều phiên thần (điều 1) và trưởng mỏ (điều 2) vẫn để như cũ.

Về việc Hưng Hoá mất 6 hoặc 7 châu về tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), các ghi chép xưa đều khá thống nhất về thời điểm, nguyên nhân và quá trình đấu tranh với mong muốn giành lại chủ quyền diễn ra vào thời Tây Sơn vàđầu thời Nguyễn.

Lịch triều hiến chương – Dưđịa chí của Phan Huy Chú, phần viết về tỉnh Hưng Hoá cho biết:

“Sau Công Toản [con trai của Hoàng Công Chất] thì dân 7 châu lấy cớđường đất xa xôi, cứ cầu cạnh phụ thuộc về Trung Quốc, thế rồi huyện quan ở Trung Quốc cứ việc đánh thuế và lập sổ sách của họ. Cuối đời Lê, vào khoảng vài mươi năm dùng dằng không biện bạch xong, rồi đểđến mất”[18].

Phạm Thận Duật dẫn sách Địa dư chí của ông họ Bùi ở Hải
Thiên thì cho rằng: “Mười châu phủ Yên Tây, khoảng đời Vĩnh Hựu [1735-1740], Cảnh Hưng [1740-1786] nhà Lê, nghịch Chất tức Hoàng Công Thư chiếm cứđộng Mãnh Thiên trải trên mười năm. Thư chết, con y là Công Toản theo hàng Trung Quốc. Các châu Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm, đều dâng cho Trung Quốc, họ lập làm 6 “mãnh”. Năm Cảnh Hưng thứ 36 [vua] sai Đoàn Nguyễn Thục dẫn đầu sứđoàn sang cống Trung Quốc, trình bày với vua nhà Thanh. Vua Thanh đểđó không hỏi đến. Đời Tây Sơn, khi Nguyễn Quang Bình [tức Quang Trung] mới lấy Bắc Hà, dâng biểu xin xét về cương giới Hưng Hoá, lại bị Phúc Khang An  là Tổng đốc Quảng Tây bắtđi.

Bản triều, đầu đời Gia  Long vẫn để y như thế. Các châu trưởng châu Lai, Văn Bàn là bọn Điêu Chính Ngọc, Điêu Quốc Uy đem dân các động thuộc châu đó cùng dân các châu Tung Lăng, Hoàng Nham, Tuy Phụ, Hợp Phìđã tản mác từ trước trở về và xin được quan trấn chiêu hồi. Lúc đó quan trấn là Vũ Cẩn tựý bằng lòng. Thế là dân các động Mường Tế, Mường Phù…Na Hoà (tức là Lai Châu), Mường Am (thuộc châu Hoàng Nham), động Bình Lư (thuộc châu Tuy Phụ) dẫn nhau quay về. Tổng đốc Văn Qúy nhà Thanh đưa thư nói rằng: “6 mãnh, trại của họ là Mãnh Thích, Mãnh Lại, Mãnh Bang, Mãnh Lộng, Mãnh Đình, Mãnh Thoa, đều thuộc huyện Kiến Thuỷ, từđời Khang Hy [1662-1722] nhà Thanh, đã thuộc vào địa đồ Trung Quốc rồi. Từ bấy đến nay đã trải hơn một trăm năm, nay không có duyên cớ gì, quan trấn thủ Hưng Hoá lại dụ dỗ họ theo mình, thật là quái gở. Nay cần thông sức cho họ không được làm thế nữa”[19].

Nguyễn Văn Siêu trong Phương Đình dưđịa chí xác nhận điều này: “Ngày ấy Lai Châu còn cùng với châu Chiêu Tấn, châu Quỳnh Nhai nộp thuế. Còn 6 châu Hoàng Nham, Hợp Phì, Tung Lăng, Lễ Tuyền. Tuy Phụ, Khiêm Châu vẫn mất vào bên Tàu. Nhà Tây Sơn mới lên đưa thư xin thân chính ngay cũng không sao được. Sau này hai động Phong Thu, Bình Lưu thuộc châu Chiêu tấn, động Hoài Lai thuộc Lai Châu lại đặt làm huyện Kiên Thủy thuộc phủ Lâm An bắt hiếp dân phải đóng thuế mỏ bạc, lại đổi Mường Thu thuôc châu Chiêu Tấn làm Mãnh Thoa, Mường Thích thuộc Lai Châu lâm Mãnh Lai, liệt làm biên dân.Quốc triều lúc mới trung hưng cõi Bắc Hà;quan Tổng trấn Bắc Thành là Nguyễn Văn Thành xét kỹđầu cuối dâng sớ xin đưa thư thân chính bờ cõi hai châu Lai, Tấn nhân lại hỏi đến bờ cõi 6 châu Tung Lăng. Nhưng vì việc quân mới định chưa vộiđểýđến việc biên cương, sớ dânglên cũng bỏ không thi hành. Việc này vào năm thứ 5 niên hiệu Gia Long, ngang năm thứ 22 niên hiệu Gia Khánh nhà Thanh vậy”[20].

III. BỘ MÁY QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THỜI NGUYỄN

Cùng với việc lập ra Trấn Bắc Thành, giao cho Nguyễn Văn Thành cương vị “Phó vương”, Gia Long còn cho rằng, đời Lê cũ các trấn đều đặt phủ, huyện nhưng sang thời Tây Sơn không đặt phủ, chỉđặt văn thì phân chi, võ thì phân suất, chia làm việc huyện. Nay đất Bắc Hàđãđịnh, cần đặt lại phủ, huyện và quan chức. ở những khu vực vùng núi Yên Quảng, Thái Nguyên, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Nghệ thì cho đặt thổ quanđể quản lĩnh. Trấn Hưng Hoá vẫn gồm 3 phủ là Quy Hóa, Gia Hưng, Yên Tây với 4 huyện là Văn Chấn, Yên Lập, Trấn Yên, Thanh Xuyên; 16 châu là Thủy Vĩ, Văn Bàn, Sơn La, Thuận Châu, Mai Châu, Phù Hoa, Chiêu Tấn, Luân Châu, Tuần Giáo, Mai Sơn, Việt Châu, Ninh Biên, Mộc Châu, Đà Bắc, Lai Châu, Quỳnh Nhai. Trấn Hưng Hoáđặt một Trấn thủ (Nguyễn Văn Kiên), một Hiệp trấn (Lê Nguyên) và một Tham trấn (Nguyễn Thế Trung).

Ngoài ra, Gia Long còn sai tuyên bố lời dụ báo cho những điều họa phúc khiến cho thổ tùở Tuyên Quang, Hưng Hoá và Thái Nguyên kế nhau kéo đến hành tại triều kiến; lại cho xây dựng các đội thổ binh, lấy các thổ mục chia cho cai quản. Cuối năm 1802, triều đình ban chức tước cho các thổ tù phiên thần làĐinh Công Vượng, Đinh Công Vinh làm Tuyên uý sứ; Đinh Công Kiên làm Chiêu thảo sứ, Cầm Nhân Nguyện làm Phòng ngựđồng tri.

Để có những số liệu bước đầu sử dụng trong quá trình điều hành đất nước, trong năm Đinh Mão (1807), Gia Long cho tiến hành làm sổ hộ tịch ở Bắc Thành. Đến tháng 12 năm ấy [khoảng tháng 1/1808] hộ tịch của 23 phủ, 100 huyện, 848 tổng, 6280 xã, thôn, phường, vạn, trại, sách hoàn thành, cho  số liệu về sốđinh thực nạp là 193.389 nhân đinh- so với sốđinh trong sổ thường hành của triều Lê là 268.990 nhân đinh. Khi dâng lên, nhà vua thấy nhân đinh hao hụt so với thời trước, tỏ ra buồn phiền nhưng nghĩđất nước mới qua binhlửa, chính trị nênkhoan dung cho tạm gác lại.

Theo đề nghị của quan Bắc Thành: “Trước đây chức Quản phủở các phủ, đều lấy Quản cơở các trấn sung làm, quân lính đều làm binh thổ trước cả, rất có thể có kẻ cùng bọn thổ phỉ thông đồng nên việc bắt giặc bất lực. Xin đổi chỗ mà thay bổ, cho mang theo cả số quân họ vẫn cai quản”, tháng 2/1808, Gia Long đồng ý cho phép cải bổ Quản phủở Bắc Thành. Trong tháng, triềuđình còn ấn định số nhân viên cho Tả,Hữu thừa ty, Chiêm hậu ty, Lương y ty của các thành dinh trấn cùng thuộc lại ty các đạo.

Về Tả thừa ty gồm có: Lại phòng coi phòng việc văn từ thư trát; Hộ phòng giữ việc sổ sách, tiền lương, thuế lệ, thu phát, vận tải; Lễ phòng giữ việc tế lễ, tán xướng, nghi chế, tàu khách, xem thời tiết, ghi chép mưa gió hàng ngày.

Về Hữu thừa ty gồm có: Binh phòng giữ việc sổ sách, kiểm điểm binh số, đốc thúc công việc, kén chọn cấp phát binh lính, kiểm xét bến đò cửa ải, chạy trạm dịch; Hình phòng giữ việc kiện tụng tra khám; Công phòng giữ việc gỗ lạt, thợ thuyền, xây dựng cầu cống, đường sá, sông ngòi đêđiều.

Các chức nghiệp ở các ty kể trên, kể các Chiêm hậu ty đều được gọi chung làCâu kê, Cai hợp, Thủ hợp vàđông đảo nhất là Ty lại- các nhân viên văn phòng, còn ở Lương y ty thì gọi là Huấn khoa, Y sinh.

Đối với Hưng Hoá, toàn bộ số người giữ chức nghiệp ở 4 ty kể trên có chừng 150 người -160 người.

Do việc đào tạo thông qua con đường cử nghiệp bị gián đoạn nhiều năm, nhất làở Bắc Thành, triều đình phải cho phép lấy những người mới có học vịHương cống (Tú tài sau này) cho làm Tri huyện. Lại sai khắc chế triện gỗ cấp cho các Tổng trưởng và Xã trưởng để dùng làm tin khi thừa hành việc công.

Cũng nằm trong tính toán về sự nhất thể hoá kể trên là quyết định bãi bỏ lệ thổ ty thế tập ở Hưng Hoá và một số tỉnh miền biên viễn khác được Minh Mệnh ban hành vào tháng 7/1829.

Đại Nam thực lục,Chính biên (Đệ nhị kỷ, Q.LX) cho biết quá trình ra đời của chính sách đó như sau: “Thành thần tâu rằng: Lai Châu và châu Đà Bắc ở Hưng Hoá, châu Phổ Yên ở Thái Nguyên, châu Hàm Yên  ở Tuyên Quang, các thổTri châu, Tri huyện, Huyện thừa, Lại mục hãy còn khuyết xin cho bổ thí sai. Thổ ty ở các châu Lục Yên, Thu Châu, Đại Man, Vị Xuyên, Bảo Lạc thuộc Tuyên Quang đều già yếu; xin cho người thế tập cai quản.

Vua dụ rằng: -Đặt quan phân chức, nên có chương trình nhất định mà coi dân như một mới tỏđược ý nghĩa vương giả không để ai ra ngoài. Các trấn Tuyên – Hưng ở hạt thành, nên đặt thổTri châu, Tri huyện không những ở bốn châu ấy mà thôi, sao lại chỉ xin cho bốn châu ấy mà nơi khác không nói đến? Và những nơi ấy cóthổTri châu, Tri huyện, Lại mục là tạm thời cải bổ, chưa từng ấn định cho hạt ấy bao nhiêu chức quan, sao lại cho là thiếu được? Đến như việc xin cho tập quản thì lại hoá ra tạm bợ quá. Vì bọn ấy tuy là dân biên thùy, nhưng cũng đều là con của triều đình, há lại cứ noi theo thói tệ, không bàn đến kẻ hay người dở, cứ cho nhận làm của riêng anh em, con cháu thiện tiện nối nhau, lỡ có người không tốt, được thể làm càn thì có thêm lụy cho dân ta không? Thậm chí Nông Văn Vân ở Bảo Lạc đã cho làm thí sai thổTri châu, có chức hàm rồi, mà lại xin thế tập, chả hoá ra phức tạp quá dư! Nay cứ các châu huyện thuộc các trấn Tuyên Quang, Thái Nguyên, Quảng Yên, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hưng Hoá trong thành hạt, theo công việc ít nhiều, dân sốđông thưa, nên đặt thổTri châu, Tri huyện, Huyện thừa, Lại mục thì nghĩđịnh rõ ràng; không cứ thổ ty, hào mục, cứ trong hạt ai là thanh liêm, tài năng cần cán vốn được dân tin phục thì chọn cử tâu lên không được theo trước xưng là tập quản.

Thành thần bàn xin: Đinh từ 5.000 người, ruộng từ 500 mẫu trở lên, thì châu đặt 1 thổTri châu, huyện đặt 1 thổTri huyện cùng thổLại mục đều 1 người; đinh từ 100 người, ruộng từ 100 mẫu trở lên, thì châu đặt 1 thổTri châu, huyện đặt 1 thổHuyện thừa; đinh điền không đủ 100, thì chỉđặt 1 thổ lại mục. Vua y cho”[21].

– Tháng 9/1836 trên cơ sở lời thỉnh an của Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên là Lê Văn Đức, triều đình cho sắp xếp lại Huyện thừa, Tri sự, Lai mục ở các châu huyện. Chưa yên tâm với lệnh bãi bỏ chếđộ thổ ty, Minh Mệnh còn mật dụ cho Tạ Quang Cựđi kinh lý miền núi vì nhà vua cho rằng:

“Bấy nay thổ ty, thổ mục nối đời thế tập, noi theo cái nếp làm thông gia với nhau. Tập quán này lâu ngày đã trởthành phong tục. Nay nên một phen chỉnh đốn sửa lại, để bỏ thói hủ lậu. Vậy trong các thổ ty, ai là người lòng kính thuận, lập công vì triều đình, thì tâu xin để liệu cất nhắc thăng lên, bổ cho làm việc ở các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên; còn người nào tầm thường cũng tâu lên đểđổi đi Hưng Hoá, Lạng Sơn hoặc các tỉnh khác. Và lập rõđiều cấm: các đầu mục đều phải kết hôn ở trong xã, thôn mình, không được kết thông gia ở xã, thôn khác để kéo bè kết đảng với nhau”[22].

Tháng 8/1838, đặt lưu quan tại các châu Phù Hoa, Thủy Vĩ, Quỳnh Nhai, Ninh Biên, Mai Sơn, Mộc Châu, Luân Châu, Lai Châu; cho phép các lỵ sởđều tuỳ tiện dựng nên. Mỗi châu đều đặt 4 Thông lại, 20 lính lệ, mỗi năm cấp cho 20 quan tiền công, còn như các châu Sơn La, Chiêu Tấn, Tuần Giáo, Văn Bàn, Đà Bắc, Thuận Châu, Mai Châu, Yên Châu khi nào đặt lưu quan người Kinh thì cứ chiểu theo lệấy thi hành.

Nhằm tập trung quyền lực về nhà nước trung ương, từ thực tiễn không thành công của hai mô hình Bắc Thành và Gia Định thành suốt mấy chục năm qua tháng 11/1831 [Minh Mệnh năm thứ 12], triều đình cho giải thểđơn vị hành chính cấp Bắc Thành, lập ra đơn vị hành chính cấp tỉnh.

Với mong muốn chếđộ lưu quan phát huy được hiệu quả và nhất là có thể dùng người tại chỗ có trình độ như lưu quan, Minh Mệnh ban dụ cho các tỉnh miền núi tìm người khôi ngô, tuấn túđể nhà nước đào tạo thành tài.

Qua thực tế thực hiện chếđộ lưu quan, một số quan lại cho rằng: 8 châu: Thủy Vĩ, Văn Bàn, Phù Hoa, Mai Sơn, Quỳnh Nhai, Ninh Biên, Mộc Châu, Lai Châu mới đặt quan Kinh, đường đất thì xa, lam chướng thì nặng, lại là những nơi công việc rất ít, so với các huyện đường xuôi sự thể không giống nhau. Khi khuyết Tri châu, nếu theo lệ phái mới lại tiếp đến luôn; việc đón rước tần phiền, chỉ làm khổ cho dân. Xin từ nay châu nào có khuyết Tri châu, thì tỉnh một mặt tâu lên, một mặt thu lấy ấn tạm giữ phàm những việc quan trọng đều do tỉnh làm, việc thông thường thì uỷ cho lại mục người Thổ trước thừa hành, chờ khi quan mới đến sẽ tuân lệ thi hành. Vua y lời tâu[23].

– Tháng 8/1855, trước những áp lực kể trên, TựĐức phải cho bãi bỏ chếđộ lưu quan, đặt lại thổ quan ở 2 châu Mai Sơn, Phù Yên với lý do vì 2 châu ấy khíđộc rất nặng.

III. BỘ MÁY QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH THỜI THỰC DÂN PHÁP THỐNG TRỊ

  1. Thời kỳ trước cách mạng tháng Tám 1945

Ngay sau khi chiếm được thành Hưng Hoá, người Pháp tạm thời giao cho viên quan tư Duchesne quyền hành điều khiển địa phương. Ngày 15/4/1884, hai phương án cai trịđịa phương ra đời:

– Thành lập khu vực hành chín

0