18/06/2018, 15:34

Quân Vương- Machiavel

Dich thuật : Vũ Mạnh Hồng & Nguyễn Hiền Chi nguồn vnthuquan.net Niccolò di Bernardo dei Machiavelli (sinh 3 tháng 5 1469 – 21 tháng 6 1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc gia, nhà thơ, nhà soạn kịch. Ông được xem là một trong những sáng tổ của nền ...

Dich thuật: Vũ Mạnh Hồng & Nguyễn Hiền Chi

nguồn vnthuquan.net

niccolo-machiavelli

Niccolò di Bernardo dei Machiavelli (sinh 3 tháng 5 1469 – 21 tháng 6 1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc gia, nhà thơ, nhà soạn kịch. Ông được xem là một trong những sáng tổ của nền khoa học chính trị hiện đại.[1] Ông là một nhân vật của thời phục hưng Italia và là nhân vật trung tâm của bộ máy chính trị nước Ý thời Phục Hưng. Ông được biết đến với các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực chính trị (tác phẩm Quân Vương) và chủ nghĩa cộng hòa (tác phẩm Discourses on Livy). Hai cuốn sách này – cùng với cuốn History of Florence (Lịch sử Florence) được sự ủy quyền của nhà Medici – đã được xuất bản vào năm 1531 sau khi ông mất. Sau việc Savonarola bị trục xuất và hành quyết, Đại hội đồng đã chọn Machiavelli làm Đại pháp quan thứ hai của Cộng hòa Florence vào tháng 6 năm 1498

LỜI NHÀ XUẤT BẢN : 
  
  
Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một nhà chính trị thực tiễn, nhà văn, nhà sử học, nhà tư tưởng vĩ đại người Italia. 

Với khối kiến thức đồ sộ do thừa hưởng giáo dục của một gia đình có nguồn gốc quí tộc, với niềm đam mê trí thức mãnh liệt và nhãn quan chánh trị nhạy bén, Machiavelli đã viết lên nhiều công trình chính luận sâu sắc về nhà nước, chính trị, pháp luật… Trong số đó, cuốn Quân Vương (The Prince) là công trình nổi tiếng nhất. 

Suốt mấy thế kỷ qua, dưới nhiều ngôn ngữ khác nhau, Quân vương không ngừng thu hút sự quan tâm của hàng triệu độc giả trên thế giới, gây ra nhiều tranh luận và thậm chí có khi bị chỉ trích kịch liệt. Cho đến nay, nhiều hướng tiếp cận đối với tác phẩm Quân vương cũng như toàn bộ di sản Machiavelli chưa hề thỏa mãn nhu cầu của công chúng trong việc tìm hiểu, nghiên cứu các giá trị tư tưởng nhân văn của ông và dường như thách đố khả năng khám phá và sự sáng suốt của các nhà nghiên cứu và đông đảo độc giả. 

Cty sách Alpha và nhà xuất bản Lao động-Xã hội trân trọng giới thiệu tác phẩm Quân vương tới bạn đọc với bản dịch của các dịch giả Vũ Mạnh Hồng & Nguyễn Hiền Chi. 
Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp phê bình của bạn đọc. 
                                                                                               NHÀ XUẤT BẢN LAO ĐỘNG-XÃ HỘI.

LỜI GIỚI THIỆU 
  
   Machiavelli là người bạn, là người cùng thời với Leonardo Da Vinci. Nếu như ngay từ thế kỷ 16, thiên tài Leonardo Da Vinci đã đưa ra những nguyên tắc cơ sở của máy bay trực thăng và tàu ngầm thì Machiavelli còn nghĩ ra những nguyên tắc cơ sở của thứ vũ khí nguy hiểm hơn gấp bội – vũ khí chính trị, với tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là Quân vương. 
  Quân vương chủ yếu nói về thuật trị nước và thuật hưng quốc, là cẩm nang để nhà cầm quyền củng cố địa vị, quyền lực với vấn đề trung tâm là bàn về thủ đoạn chính trị. Đây là cuốn sách kinh điển, chuyên luận bàn về nhà nước, phẩm chất và các thủ thuật chính trị của những người đứng đầu nhà nước. Có thể nói, Quân vương là tác phẩm đầu tiên đặt nền tảng cho ngành chính trị học hiện đại. 
   Quân vương là kết quả của những đêm lạnh lẽo, Niccolò Machiavelli ngồi suy tư miệt mài và hy vọng đặt vào đó nỗi niềm của một con người có lòng yêu nước nồng nhiệt với mong ước thống nhất nước Italia và xây dựng một quốc gia hùng mạnh. Suy nghĩ của ông là suy nghĩ của một con người có kinh nghiệm thực sự, là kết quả của việc đọc vô số các tác phẩm chính trị và lịch sử. 
   Sống trong thời kỳ khi trật tự chính trị cũ kỹ của châu Âu đang tan vỡ, những vấn đề mới đang nảy sinh và nhiều biến động mạnh mẽ đang diễn ra trong xã hội, Machiavelli cố gắng lý giải ý nghĩa logic của các sự kiện để dự đoán những điều không thể tránh khỏi và để hình thành những luật lệ chi phối mọi hoạt động chính trị đang diễn ra trong bối cảnh hình thành một quốc gia. 
   Bằng những nỗ lực đầy trí tuệ của các dịch giả tác phẩm này, chúng tôi hy vọng rằng độc giả Việt Nam sẽ cảm thấy thích thú khi biết đến tư tưởng của con người là hiện thân của tinh thần nhân văn cao cả của thời đại Phục Hưng của thế kỷ 15-16. Qua tác phẩm này, độc giả sẽ nghĩ suy về thực trạng xưa, nay để rồi có thể sẽ ít nhầm lẫn hơn khi đối mặt với những gì thuộc về đương đại. 

Hà Nội, tháng 1/2005 
Tiến sỹ Nguyễn Ngọc Đào

VỀ TÁC GIẢ & TÁC PHẨM 

                       
         Niccolò Machiavelli sinh ngày 3 tháng 5 năm 1469 tại thành phố Florence, Italia. Người ta biết rất ít về tuổi thanh xuân của Machiavelli nhưng một điều chắc chắn là ông đã được thừa hưởng nền giáo dục về văn hóa, lịch sử Hy Lạp và La Mã. 
           Khi Machiavelli còn trẻ, Italia đang chia thành 5 vương quốc lớn: Vương quốc Naples ở phía Nam, Công quốc Milan ở Tây Nam, nhà nước cộng hòa Venice ở Tây Bắc, Cộng hòa Florence và nhà nước của giáo hội ở miền Trung. Khi đó, Florence đang trong giai đoạn huy hoàng dưới sự cai trị của gia đình Medici đầy uy quyền với người đứng đầu là Lorenzo de Medici. Khi đó, Florence là một thành phố giàu có, sôi động, là trung tâm của nghệ thuật và tri thức, còn Lorenzo như thể một mạnh thường quân. 
           Nhưng đến năm 1494 gia đình Medici bị lật đổ, và bị thay bằng một chính quyền cộng hòa chịu nhiều ảnh hưởng của Girolamo Savonarola, một giáo sĩ dòng tu Đa Minh mới gây được uy tín. 
           Năm 1498, chính quyền chịu ảnh hưởng của Savonarola lại sụp đổ và một chính quyền cộng hòa mới ra đời ở Florence, còn Machiavelli được bổ nhiệm  vào chức vụ bộ trưởng ngoại giao khi mới 29 tuổi. Trí tuệ tuyệt vời và lòng nhiệt huyết của Machiavelli đã thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các chính khách Florence lúc bấy giờ. Chỉ sau đó một tháng, ông đã được bầu làm thư ký Hội đồng quân sự và ngoại giao. Với vai trò như một sứ thần, ông đã đi khắp các vương quốc trên lãnh thổ Italia cũng như các đế chế lớn của Châu Âu để thương thảo với các đồng minh tiềm năng, thu thập thông tin và đồng thời là người phát ngôn của Hội đồng về những chính sách đối ngoại của Florence. 
           Trong suốt 14 năm phụng sự nền cộng hòa Florence, Machiavelli đã có dịp tiếp xúc nhiều chính khách nổi tiếng và chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử. Ông đã tiếp kiến nữ bá tước Caterina Sforza (năm 1499), vua Louis VII nước Pháp (trong các năm 1500, 1504, 1510 và 1511), Cesare Borgia (vào các năm 1502 và 1503), Pandolfo Petrucci (vào các năm 1503 và 1506), Giáo hoàng Julius II (vào các năm 1503 và 1506), và hoàng đế Maximilian II (từ năm 1507 tới 1508). Các sứ mệnh ngoại giao này cùng với kinh nghiệm về chính sách đối ngoại đã hình thành nên nhiều nguyên lý mà ông đã thể hiện trong tác phẩm Quân vương, còn những nhân vật nổi tiếng ông được tiếp xúc đã trở thành những tấm gương và bài học trong tác phẩm này. 
           Ông cũng trở thành người bạn của Piero Soderini, người được bổ nhiệm làm gonfaloniere (người đứng đầu chính phủ Florence) vào năm 1502. Do quá chán nản trước sự kém cỏi của đội quân đánh thuê mà chính phủ Florence sử dụng, ông đã thuyết phục Soderini hậu thuẫn việc xây dựng quân đội quốc gia của Florence bất chấp những ý kiến phản đối của giới qúy tộc Florence. Machiavelli đã đứng ra tuyển chọn, đào tạo và tập luyện cho đội quân này. Vào năm 1509, sự sáng suốt của ông đã được minh chứng khi quân đội Florence giành được quyền kiểm soát thành phố láng giềng Pisa sau một cuộc chiến kéo dài suốt 15 năm. Thành công này đánh dấu một bước tiến trong sự nghiệp của Machiavelli. 
           Là một đồng minh trung thành của nước Pháp, Florence đã đối đầu với Giáo hoàng Julius II người đang tìm cách đánh đuổi quân Pháp ra khỏi đất Italia. Giáo hoàng Julius II đã kêu gọi sự trợ lực của đồng minh Tây Ban Nha để lật đổ chính quyền của Soderini. Năm 1512, quân đội quốc gia Florence của Machiavelli bị đội quân Tây Ban Nha thiện chiến đánh bại tại thành phố Prato, và Soderini buộc phải từ chức. Gia đình Medici trở lại nắm quyền ở Florence và Soderini bị tống giam. Vì là người ủng hộ chính quyền của Soderini, Machiavelli bị bãi chức và bị cấm rời khỏi lãnh thổ Florence. 
           Vài tháng sau, hai thanh niên bất mãn với chính quyền bị bắt cùng với danh sách những kẻ âm mưu chống lại gia đình Medici. Trong đó có tên của Machiavelli. Dù không có dấu hiệu nào chứng tỏ ông có liên quan, nhưng Machiavelli vẫn bị tống giam và tra tấn. Từ trong tù, ông đã viết hai bài thơ xô-nê gửi Giuliano de Medici để xin can thiệp nhưng không có kết quả. Tuy nhiên, nhân đợt ân xá khi người chú của Giuliano là Giovanni được bầu làm Giáo hoàng Leo X vào tháng Ba năm 1513, Machiavelli được tha và ông lui về sống tại một trang trại nhỏ ở quê nhà. Trong thời gian này, ông viết nhiều thư cho người bạn thân là Francesco Vettori, một nhà ngoại giao Florence được bổ nhiệm giữ chức đại sứ tại thành Rome để nắm bắt thông tin của thế giới bên ngoài và hy vọng Vettori có thể tiến cử ông cho nhà Medici. Trong hoàn cảnh bức bách đó, ông đã viết cuốn Quân vương (Il Principe). Tác phẩm này chắt lọc những nhìn nhận của ông về bản tính con người, nghệ thuật lãnh đạo cũng như chính sách ngoại giao. Ông dâng tặng nhà Medici tác phẩm này nhằm chứng tỏ sự tận tâm  của mình nhưng không thành công. Cho tới năm 1515, nhà Medici vẫn không để mắt tới ông và sự nghiệp ngoại giao của ông đã chấm dứt. 
           Trong suốt mười năm sau đó, vì không được tham gia chính sự, Machiavelli chuyển hướng sang sáng tác. Trong giai đoạn này, ông đã viết một tác phẩm về nghệ thuật chiến tranh, đúc rút từ kinh nghiệm của một người tổ chức lực lượng quân đội  và một bình luận về tác phẩm của nhà sử học La Mã cổ đại Livy. Thông qua việc xem xét các ghi chép của Livy về nền cộng hòa La Mã, Machiavelli đã luận bàn chi tiết khái niệm chính phủ cộng hòa. Trái ngược với cuốn Quân vương, một tác phẩm ủng hộ nền quân chủ và thậm chí là quân chủ chuyên chế, cuốn Luận bàn về Livy thường được trích dẫn như một bằng chứng về sự nhiệt thành của Machiavelli đối với thể chế cộng hòa. Ông cũng sáng tác thơ ca và ba vở hài kịch. 
           Các tác phẩm của ông đã thu hút được sự chú ý của Hồng y Giáo chủ Giulio de Medici, người đã nắm quyền ở Florence một vài năm và nhờ đó, ông đã được giao nhiệm vụ viết về lịch sử của Florence. Ông viết cuốn Lịch sử Florence từ năm 1520 tới năm 1524. Năm 1523, Giulio được bầu làm Giáo hoàng Clement VII và Machiavelli đệ trình cuốn Lịch sử Florence cho giáo hoàng vào năm 1525. Sự giảng hòa với nhà Medici đã giúp Machiavelli được tham gia chính sự trong một thời gian ngắn. Ông được giao trách nhiệm phụ trách các vấn đề quân sự tại Florence cho Giáo hoàng. Tuy nhiên, Giáo hoàng Clement mắc mưu kẻ thù và thành Rome bị bị quân đội Tin lành của Đức cướp phá. Sự cố này đã khiến cho người dân Florence làm cuộc lật đổ nhà Medici vào năm 1527. Machiavelli, người suốt đời ủng hộ và bảo vệ nền cộng hòa Florence, lại một lần nữa không gặp may vì bị những người cộng hòa nghi ngờ là cấu kết với nhà Medici. Tuy nhiên, ông không phải tiếp tục chứng kiến định mệnh trớ trêu của mình bởi ông qua đời sau một trận ốm vào tháng 6 năm 1527. 
           Quân vương là tác phẩm nổi tiếng nhất của Machiavelli nhưng không được xuất bản khi ông còn sống mặc dù được lưu hành rộng rãi dưới hình thức các bản chép tay. Quân vương được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1532, với sự cho phép của Giáo hoàng Clement VII. Trong vòng 20 năm sau đó, tác phẩm này đã được tái bản bằng tiếng Italia tới 7 lần. Nhưng đến năm 1559, tất cả các tác phẩm của Machiavelli bị đưa vào “Danh mụch sách cấm” của Giáo hội cơ đốc giáo vì bị coi là tà giáo. Điều đó không làm ảnh hưởng với sự lan truyền của cuốn sách và Quân vương đã sớm được dịch sang tất cả các thứ tiếng quan trọng của châu Âu. Ngày nay, Machiavelli tiếp tục được công nhận là một trong những nhà tư tưởng chính trị hiện đại và là một nhà bình luận sắc sảo về tâm lý học và nghệ thuật lãnh đạo. 
            Tên  tuổi  và  ảnh  hưởng  của Machiavelli 
           Các tác phẩm của Machiavelli, đặc biệt là cuốn Quân vương, đã nổi tiếng trong suốt gần 5 thế kỷ và thậm chí, tên tuổi của Machiavelli trở nên quen thuộc với hàng triệu người chưa từng đọc các tác phẩm của ông nhưng đối với rất nhiều người, ông bị chỉ trích là một kẻ rao giảng loại chính trị vô đạo đức và là đồng lõa của quỷ dữ. 
           Còn Francis Bacon (1561-1626) đã nhận xét: “Chúng ta chịu ơn Machiavelli và những tác giả đã viết về những điều mà con người làm chứ không phải điều con người nên làm”. Sự nhìn nhận  đúng đắn về Machiavelli như một người quan sát và miêu tả chân thực bản tính của con người đã đem lại cái nhìn tích cực hơn rất nhiều về tầm quan trọng và giá trị của ông. 
           Mặc dù đối với phần đông mọi người, Machiavelli vẫn bị mang tiếng xấu là một kẻ thủ đoạn, nham hiểm, phản trắc nhưng hầu hết các tác giả đương đại đều coi ông là người sáng lập ra hệ tư tưởng chính trị học hiện đại. 
           Thomas Hobbes (1588-1679), nhà lý luận chính trị có ảnh hưởng rất lớn và là người chủ xướng luận thuyết cơ bản về chế độ quân chủ chuyên chế, đã sử dụng những nhận xét cay nghiệt của Machiavelli về bản tính mưu mô, quỷ quyệt của con người để đưa ra yêu cầu về một chính quyền mạnh nhằm giữ cho các cá nhân không làm hại nhau và tránh cho sự suy thoái của xã hội. Trong cuốn Quân vương, Machiavelli đã sử dụng  nhuần nhuyễn phương pháp đưa ra các kết luận trên cơ sở những ví dụ trong lịch sử cũng như trong thời đại của chính ông và đây đã trở thành phương pháp nghiên cứu khoa học chính trị hiện đại. Ngay cả Montesquieu (1689-1755), tác giả cuốn Tinh thần pháp luật (1748) cũng chịu nhiều ảnh hưởng của phương pháp này. 
           Machiavelli không chỉ có ảnh hưởng rất lớn tới tư tưởng chính trị mà còn trực tiếp tác động tới những hành động chính trị. Những nhà phê bình có thái độ thù địch với Machiavelli cho rằng, những nhà cai trị độc tài như Napoleon I và Adolf Hitler đã coi Quân vương là cuốn cẩm nang để tranh giành quyền lực. 
           Tuy nhiên, hầu hết các học giả đã coi lời buộc tội này là một sự hiểu lầm cơ bản. Mục đích của Machiavelli là miêu tả những thực tế của đời sống chính trị chứ không phải để tạo ra những bạo chúa. Một điều chắc chắn là rất nhiều chính khách đã đọc cuốn Quân vương và học hỏi được rất nhiều từ tác phẩm này. Nhưng nếu những sự thật mà Machiavelli phơi bày được các nhà độc tài của thế kỷ 19-20 như Napoleon và Hitler áp dụng thì thực tế này cho chúng ta thấy: Machiavelli đã hiểu được tận gốc rễ khía cạnh chính trị của bản chất con người. 
           Hơn thế nữa, Machiavelli còn ảnh hưởng sâu rộng tới hai lĩnh vực khác của đời sống chính trị. Trước hết, Machiavelli là một người yêu nước nồng nàn. Ông sống vào thời kỳ Italia bị chia nhỏ thành hàng chục công quốc và thành bang nhưng riêng ông gắn bó rất nhiều với Florence, thành phố quê hương. Lời kêu gọi giải phóng Italia khỏi nạn ngoại xâm mà Machiavelli đề cập ở chương cuối cùng của cuốn Quân vương đã làm thức tỉnh lòng yêu nước của người dân Italia và báo hiệu về một đất nước Italia thống nhất. Phải tới hơn 3 thế kỷ sau, ước mong này của ông mới trở thành sự thật khi vào năm 1861, Italia hoàn toàn thống nhất, thoát khỏi ách đô hộ và chiếm đóng của các lực lượng ngoại bang, còn Machiavelli được thừa nhận là một nhà tiên tri của chủ nghĩa yêu nước hiện đại. 
           Thứ hai, Machiavelli đã có những đóng góp vĩ đại với tư cách là một nhà tư tưởng quân sự. Ông được nhìn nhận là người sáng lập của môn khoa học quân sự hiện đại. Tác phẩm Nghệ thuật chiến tranh của ông đã đặt nền móng cho kỹ thuật quân sự hiện đại. Nói một cách tổng quát hơn, những luận điểm của ông trong cuốn Quân vương về việc sử dụng vũ lực để chiếm đoạt, nắm giữ và tăng cường quyền lực chính trị là nền tảng vững chắc cho những công trình nghiên cứu của nhà lý luận quân sự vĩ đại Karl von Clausewitz (1780-1831) – tác giả cuốn Luận về chiến tranh (1833). 
           Đồng thời, đề xuất không ngừng của Machiavelli về quân đội quốc gia và những nỗ lực của ông khi còn đương chức trong việc xây dựng đội quân như vậy cho nhà nước cộng hòa Florence đã tiên đoán về tầm quan trọng và mức độ phổ biến của quân đội quốc gia trong hầu hết các cuộc chiến tranh giữa các nhà nước hiện đại, kể từ sau cuộc Cách mạng Pháp. 
           Lịch sử cho thấy Machiavelli đã có ảnh hưởng sâu sắc tới nhiều thế hệ độc giả. Chắc chắn là chúng ta sẽ học được rất nhiều từ ông về bản chất chính trị của con người và tư tưởng của nhân loại vào thời kỳ Phục hưng. Đây là những bài học quan trọng và rất quý báu. Tầm quan trọng của Machiavelli còn nằm trong chính tấm gương của ông là một con người tiêu biểu của thời kỳ Phục hưng. 
           Ông là một con người luôn hành động, một chính khách và là một nhà ngoại giao. Ông cũng là một con người của thơ văn với những công trình kinh điển trong lĩnh vực chính trị học, lịch sử và thậm chí cả sân khấu kịch nữa. Vở kịch Mandragola do ông viết kịch bản được đánh giá là vở hài kịch vĩ đại nhất của Italia. Ông đã dùng những kinh nghiệm tham gia chính sự của mình làm chất liệu cho các tác phẩm này. Đồng thời, ông đã dựa vào tài thơ văn, học vấn uyên thâm và trí tuệ của mình để vượt qua những rối ren, đôi lúc rất nguy hiểm của chính sự. Bởi vậy, ông là một tấm gương về sự uyên bác, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tư tưởng và hành động và được đánh giá rất cao trong thời kỳ Phục hưng. 

Về  Tác  Phẩm 

           Kể từ khi xuất hiện vào đầu thế kỷ XVI, tác phẩm Quân vương đã luôn là một đề tài gây tranh cãi. Tập sách mỏng này đã trở thành một tác phẩm kinh điển về tư tưởng xã hội hiện đại và là phần không thể thiếu khi bàn đến những tác phẩm vĩ đại, đến học thuyết chính trị và về văn hóa thời Phục Hưng và đến nay, cuốn sách này vẫn tiếp tục là đề tài tranh cãi nóng hổi. 
           Mặc dù Machiavelli hoàn toàn dự đoán được những phản ứng quyết liệt của độc giả đối với giọng văn phê phán của ông, nhưng có lẽ chính bản thân ông cũng sẽ ngạc nhiên trước những cách hiểu phong phú và đa dạng về tác phẩm này trong bốn thế kỷ qua. Khi tác phẩm ra đời, mục đích thực tiễn ban đầu của Quân vương đã thay đổi, nhưng cách xử lý tận gốc rễ và triệt để các vấn đề cơ bản về triết học và chính trị vẫn luôn hấp dẫn độc giả, cho dù phần nhiều trong số họ không ý thức được mục tiêu chính trị thực tế mà Machiavelli ngầm đưa ra trong luận điểm của mình. 
           Mặc dù chứa đựng nhiều khái niệm cơ bản về triết học chính trị của Machiavelli nhưng tác phẩm này không phải là một sự trình bày hệ thống, hoàn hảo tất cả các quan điểm của ông về bản chất của chính trị. Do mục đích trước mắt của ông, các tiên đoán lý thuyết của Machiavelli về bản chất của vương quốc và người cai trị nêu ra trong tác phẩm này, về mặt nào đó, vẫn còn những hạn chế nhất định. Đó là thuyết phục gia đình Medici khởi xướng một cuộc thập tự chinh chống lại những kẻ xâm lược “man rợ” đã can thiệp vào cuộc sống của người Italia kể từ cuộc xâm lược của nước Pháp năm 1494, sự kiện đã biến Italia thành bãi chiến trường của châu Âu. Đồng thời ông mong muốn gia đình Medici có thể thống nhất được các vương quốc, lãnh địa và các nước cộng hòa trên bán đảo Italia. 
           Trong khi đưa ra những lời khuyên thực tế và mục tiêu chính trị cụ thể cho dòng họ Medici, Machiavelli sử dụng khuôn khổ truyền thống các bài giảng chủ nghĩa nhân văn thời Trung cổ để bàn về bản chất của sự lãnh đạo chính trị. 
           Như chính ông đã nói : “Tìm tòi về bản chất của một vấn đề thì phù hợp hơn là việc tưởng tượng ra vấn đề đó … Có một khoảng cách giữa việc sống như thế nào trên thực tế và cách mà người ta phải sống thế nào. Người nào từ bỏ những gì đáng lẽ đã làm trên thực tế để thực hiện những gì phải làm thì sẽ bị diệt vong chứ không phải là được bảo toàn”(Chương XV). Những người cùng thời với Machiavelli vốn đã quen với hình ảnh lý tưởng của những nhà cai trị nhân đức theo đường lối Cơ Đốc giáo, hẳn sẽ bàng hoàng trước quan điểm mạnh mẽ của ông về một quân vương vượt ra khỏi đạo đức và tư tưởng truyền thống. 
           Việc xuất bản cuốn Quân vương đã gây ra một cuộc tranh luận phức tạp về những hàm ý lý thuyết và tư tưởng của tác phẩm này, vượt xa những tranh luận về mục tiêu chính trị tức thời và mối liên hệ của tác phẩm với khát vọng và thời cơ chính trị của gia đình Medici. Các nhà đạo đức học, đặc biệt ở Anh và Pháp, công kích tác phẩm như là sự tổng kết của chủ nghĩa hoài nghi, chỉ phù hợp với những bạo chúa tội lỗi. 
           Gần bốn trăm tác phẩm tham khảo thời Elizabeth về Machiavelli đã đưa tên của Machiavelli vào ngôn ngữ tiếng Anh để chỉ sự gian trá, quỷ quyệt và phản trắc cũng như những kẻ như thế. Giới tăng lữ đã coi Quân vương là tác phẩm của quỷ dữ và tác giả của nó là kẻ dị giáo. Tên của Machiavelli gắn liền với thuật ngữ thường dùng để chỉ quỷ dữ và cuốn sách bị tấn công từ mọi phía. Năm 1559, Giáo hội Cơ Đốc giáo đưa Quân vương vào Danh sách các cuốn sách cấm. Còn đối với những nhà cải cách Tin lành thì tác phẩm này tiêu biểu cho tất cả những gì vẫn bị nền văn hóa kiểu Italia của châu Âu thời Phục hưng đỉnh cao khinh miệt. 
           Trong thời kỳ Khai sáng, hoàng đế Frederick II của nước Phổ đã ủng hộ Voltaire công kích kịch liệt những tư tưởng vượt khỏi các chuẩn mực thông thường của Machiavelli, nhưng các nhà tư tưởng khác như Hume, Rousseau, Montesquieu  đã ca ngợi người con xứ Florence này như nhà tư tưởng hiện đại đầu tiên trình bày về bản chất của chính thể chính trị. Thậm chí sau đó, trong thời kỳ đấu tranh thống nhất Italia vào thế kỷ XIX (còn được gọi là thời kỳ Risorgimento), người dân Italia đã coi chương cuối của cuốn Quân vương như sự báo hiệu về một tổ quốc mới. 
           Ngay trong thời đại này, cuốn sách cũng gợi ra nhiều cách hiểu khác nhau. Quân vương được coi như một tác phẩm đầu tiên phân tích về sự lãnh đạo của các lãnh tụ chính trị cũng như xác lập tính độc lập của chính trị với thần học. 
           Hiểu biết về lịch sử trường phái Machiavelli và bối cảnh lịch sử ra đời cuốn Quân vương góp phần giúp chúng ta tránh được việc hiểu sai lệch về tác phẩm này. Đến nay vẫn chưa có một trí tuệ uyên thâm về lịch sử nào có thể giải thích được các vấn đề  tư tưởng Machiavelli đã đề cập, đặc biệt là ở chân dung một vị quân vương nổi tiếng của ông. Lấy ví dụ, Machiavelli đã chọn Cesare Borgia làm hình mẫu cho vị quân vương. Điều này vào cuối thế kỷ XVI là không thể chấp nhận được khi cuốn Lịch sử Italia của Francesco Guicciardini được đón nhận ở Châu Âu đã lan truyền tin đồn  về quan hệ loạn luân giữa Giáo hoàng Alexander, Cesare và Lucrezia Borgia cũng như về những kẻ mưu sát bí ẩn . 
           Đơn giản hóa quan điểm phức tạp của Machiavelli về chính trị và đạo đức (“mục đích biện minh cho phương tiện”) là một sai lầm hoàn toàn khi dựng lên một rào cản hầu như không thể vượt qua để có thể đến được với tư tưởng của Machiavelli. Chỉ biết tới luận điểm này, người ta dễ hình dung về những kẻ cai trị quyền năng và điên rồ theo đuổi những mục tiêu phi đạo đức bằng những phương cách còn vô đạo đức hơn, nhưng Machiavelli không bao giờ nói đến sự biện minh. Ông chỉ tuyên bố, trong hành động của con người, nhất là của bậc quân vương thì không bao giờ có một người phán xử công bằng. Bởi vậy, chỉ có kết quả cuối cùng là đáng quan tâm. 
           Nhưng Machiavelli tinh tế hơn người ta tưởng. Ông không bao giờ ảo tưởng rằng sẽ có hành động chính trị nào đó không thể bị phán xét và ông chỉ rõ rằng, ông nhận thức được những đòi hỏi về đạo đức truyền thống. Ông lên án những chính khách chỉ biết theo đuổi quyền lực, những kẻ giết đồng loại, phản bội bạn bè, những kẻ không biết đến lòng trung thành, sự dung thứ và lòng sùng đạo. “Bằng những phương cách này”, ông tuyên bố, “ người ta có thể đạt được quyền lực chứ không thể có vinh quang”. Quyền lực không đem lại vinh quang và cũng không đồng nhất với lẽ phải. Mục đích hướng tới là yếu tố để phân biệt những quân vương chỉ có quyền lực với những quân vương xứng đáng được ngợi ca. 
           Mục đích duy nhất thể hiện trong các tác phẩm của Machiavelli, kể cả cuốn Quân vương, là tạo dựng một thể chế chính trị ổn định và vững mạnh có thể biện hộ cho những hành động bị coi là ngang ngược và phi đạo đức theo các chuẩn mực truyền thống của đạo Cơ Đốc. Vương quốc phải được lãnh đạo bởi vị quân vương nào biết tự bảo vệ bằng quân đội gồm những công dân tự do và biết giành lấy quyền lực từ sự mến phục của thần dân. 
           Đứng trước hoàn cảnh đất nước Italia bị các lực lượng ngoại bang xâm lược, giày xéo và cơ hội lịch sử hiếm hoi để dòng họ Medici thực hiện công cuộc thống nhất Italia, mặc dù là một người ủng hộ chế độ cộng hòa và đồng thời là một người yêu nước nồng nàn, Machiavelli đã chấp nhận đánh đổi một chế độ cộng hòa yếu ớt bị ngoại xâm đe dọa sự độc lập của đất nước và sự ổn định nội bộ trong nước. Chính vì vậy, trong tác phẩm Quân vương, Machiavelli đã đưa ra những thủ đoạn chính trị để giúp thống nhất và ổn định một đất nước bị chia cắt và đang trong tình trạng hỗn loạn. 
           Hoàn cảnh nguy nan đòi hỏi phải có những biện pháp cực đoan, một “liều thuốc mạnh” như ông vẫn nói. Để thành công trong việc bảo vệ nước Italia mới, vị tân vương phải học cách không trở thành một quân vương Cơ Đốc giáo ngoan đạo. Vị quân vương này phải quên đi những kế hoạch mơ hồ, viển vông và không tưởng. Theo Machiavelli, không thể cai trị các quốc gia bằng tôn giáo. Vượt xa việc chỉ đơn thuần  loại bỏ yếu tố đạo đức khỏi đời sống chính trị, Machiavelli đưa ra một hệ thống các nguyên tắc đạo đức mới mẻ có tính đột phá, hoàn toàn đối nghịch với những đòi hỏi nghiêm khắc của hệ tư tưởng Cơ Đốc giáo truyền thống. 
           Machiavelli phân biệt rạch ròi giữa việc theo đuổi các nguyên tắc đạo đức và mục tiêu thực tiễn. Khi bước vào lĩnh vực chính trị, ông khuyên rằng : “Quân vương phải biết học hỏi từ bản tính của dã thú, biết kết hợp sức mạnh của sư tử với sự tinh ranh của cáo. Sư tử không thể tự bảo vệ mình tránh các cạm bẫy còn cáo thì không chống lại được sói”. Thay vì đưa ra bức tranh đạo đức về một quân vương Cơ Đốc giáo cai trị các thần dân trung thành như người chăn cừu bảo vệ đàn cừu dễ bảo, Machiavelli tập trung vào thế giới chính trị học đầy quyền lực. 
           Mặc dù hy vọng gia tộc Medici sẽ đón nhận lòng yêu nước đáng trân trọng của mình nhưng ông cũng ý thức được rằng một thái độ thực tế và thực dụng như vậy nằm trong tay một người không xứng đáng có thể sẽ bị sử dụng cho những mục đích xấu xa. 
           Sau khi thay thế những giá trị đạo đức truyền thống bằng những mục tiêu và ý tưởng chính trị mang tính đột phá, Machiavelli đã kết thúc luận thuyết của mình một cách châm biếm với giọng văn đậm nét tôn giáo và hình ảnh của Kinh Thánh. Ở cuối tác phẩm Quân vương, Machiavelli khẳng định rằng một nhà tiên tri không có binh lực thì chẳng được đất nước mình ngợi ca. Ông so sánh sự thành lập quốc gia Italia với việc rời bỏ Ai Cập của người Do Thái và thời cơ của gia đình Medici được coi như một món lộc trời cho. 
           Nhưng sự tranh luận về mâu thuẫn giữa quyền lực nhà nước với đạo đức cá nhân thực sự là một thành công đầy trí tuệ. Và nhận thức sắc sảo của ông về vai trò của sự ảo tưởng và vẻ bề ngoài trong những vấn đề quốc gia vẫn đưa ra là một bức tranh chính xác tuyệt vời về tính chất thực tế của quyền lực ở mọi thời đại và của bất kỳ ai. Mục tiêu chính trị của riêng ông về một đất nước Italia thống nhất được dẫn dắt bởi những nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực chính trị hướng tới tương lai. 
           Đọc tác phẩm Quân vương của Machiavelli, các độc giả ham thích chính trị học không khỏi ngạc nhiên vì sự giống nhau giữa những nhận xét lạnh lùng về bản tính của con người và những luận điểm  trong tác phẩm Hàn Phi Tử – một trong những tác phẩm chính trị học đầu tiên của thế giới ra đời trước Quân vương trên 1.700 năm . 
           Một nhà nghiên cứu đã nhận xét về tương lai của Quân vương như sau: Người ta sẽ luôn luôn đọc nó chừng nào con người vẫn chưa thôi cái trò chơi nguy hiểm  nhưng hấp dẫn có cái tên là “chính trị” kia. Ở mọi thời đại, cuốn sách này sẽ luôn thức thời vì nó đề cập một vấn đề được quan tâm nhất nhưng không phải ai cũng với tới và giải quyết một cách êm thấm, đó là vấn đề quyền lực.

Đề Tặng 
  
NICCOLÒ MACHIAVELLI GỬI ĐỨC ÔNG LORENZO DE MEDICI 

           Phàm lệ, để chiếm được cảm tình của bậc quân vương, người ta phải tự tiến cử mình bằng những thứ họ cho là đắt giá nhất hoặc những món quà được xem là sẽ làm hài lòng quân vương nhất. Bởi vậy, các quân vương thường được dâng tặng ngựa quý, vũ khí, châu báu và những tặng phẩm tương xứng với địa vị cao quý của họ. 
           Nay, với mong muốn tự tiến cử mình lên Đức Ông, và để thể hiện lòng tận tụy, tôi lại chẳng tìm thấy trong gia sản của mình vật gì đáng giá hơn là sự hiểu biết về sự nghiệp của những vĩ nhân mà tôi đúc rút từ kinh nghiệm bản thân đối với những thực tế đang diễn ra cũng như từ việc miệt mài nghiên cứu kinh nghiệm đời xưa. Sau thời gian dài trăn trở, tôi xin gửi gắm những điều đó vào cuốn sách nhỏ bé này để dâng, tặng lên Đức Ông với tất cả tấm lòng trân trọng. 
           Tôi chắc là với địa vị của ngài thì tác phẩm này không có mấy giá trị nhưng với lòng bao dung, ngài hẳn sẽ nhận nó, vì tôi không có món quà nào đáng giá hơn để dâng tặng, ngoại trừ các phương tiện để trong một thời gian ngắn, ngài có thể nắm bắt được những vấn đề mà trong nhiều năm với nhiều nỗi vất vả và hiểm nguy, tôi mới có thể hiểu và đánh giá được giá trị của chúng. Tôi không viết tác phẩm này với những câu văn cầu kỳ, những từ ngữ hào nhoáng hay với bất kỳ một thủ pháp nào mà các nhà văn thường sử dụng để trình bày và làm phong phú thêm chủ đề chính, bởi tôi mong muốn sự hấp dẫn của tác phẩm phải đến từ sự phong phú của tư liệu và sự nghiêm túc của nội dung. 
           Tôi cũng không muốn người ta coi cuốn sách này là sự tự phụ khi một người ở địa vị thấp kém dám luận bàn và chỉnh lý nền cai trị của những bậc quân vương. Bởi vì, cũng như những họa sĩ vẽ tranh phong cảnh, người ta phải đứng ở một vị trí thấp hơn nơi bình nguyên để nắm bắt hồn của những ngọn núi và phải đứng trên đỉnh những ngọn núi để ngắm bình nguyên. Cũng vậy thôi, hiểu dân không ai bằng bậc quân vương và hiểu được bản chất của quân vương chính là các thần dân. 
           Cầu xin Đức Ông hãy đón nhận món quà nhỏ này đúng với bản chất của nó. Nếu ngài để tâm một chút thôi, ngài sẽ thấy ở đó những mong ước tận đáy trái tim tôi và có thể ngài sẽ tìm thấy cơ hội lớn lao trong tầm tay ngài. Và nếu Đức Ông, từ địa vị tôn quý của mình, có một lúc nào đó nhìn xuống dân chúng, ngài sẽ thấy sự bất công mà số phận buộc tôi phải gánh chịu

1 CÁC HÌNH THỨC QUỐC GIA VÀ PHƯƠNG THỨC HÌNH THÀNH 
           
           
Các chính thể xưa nay giữ vai trò thống trị tại tất cả các quốc gia, lãnh thổ đều là chế độ cộng hòa hoặc chế độ quân chủ. Chế độ quân chủ gồm chế độ thế tập, là chế độ mà quyền cai trị được truyền trong dòng họ hoàng gia từ đời này sang đời khác và chế độ quân chủ mới. 
            Các hình thức quân chủ mới có thể là hoàn toàn mới, như Milan dưới thời Francesco Sforza4 [4 Francesco Sforza : Viên tướng đánh thuê nổi tiếng (1401-1466), cưới con gái của Fillippo Maria Visconti, công tước Milan,sau đó cai trị Milan vào năm 1450.]  hoặc được hình thành khi các nước chư hầu sáp nhập vào quốc gia quân chủ thế tập của quân vương đã thôn tính các nước đó, như vương quốc Naples của vua Tây Ban Nha5. [5 Vua Tây Ban Nha :tức là Ferdinand II xứ Aragon (1452-1516) đã đồng ý chia vương quốc Naples với vua Louis XII của Pháp tại Hiệp ước Granada (11/11/1500). Sau này, vua nước Pháp đã phải công nhận Ferdinand là vua của xứ Naples
            Trong những quốc gia bị thôn tính theo cách này, có nơi dân chúng đã quen sống dưới quyền cai trị của một quân vương nào đó; nơi khác dân chúng lại quen hưởng nền tự do. Các quốc gia này bị thôn tính bằng quân đội của chính quân vương hoặc bằng các loại bạo lực khác, nhờ vận may hoặc nhờ tài trí.

2 CÁC QUỐC GIA QUÂN CHỦ 
  
  
            Ở đây, tôi không bàn về thể chế cộng hòa bởi thể chế này đã được đề cập chi tiết ở tác phẩm khác[6 Mặc dù câu này đã gây ra khá nhiều tranh luận và khiến cho các học giả cho rằng tác phẩm Luận bàn của Machiavelli được viết trước tác phẩm Quân Vương (do quyển 1 của Luận bàn đề cập rất nhiều đến chủ đề này), nhiều khả năng câu này đã được thêm vào khi Machiavelli viết Luận bàn, tức là sau khi Quân vương đã được hoàn thành]. Trong tác phẩm này, tôi chỉ đề cập đến nền quân chủ trên cơ sở phát triển các đề tài nói trên và bàn đến cách trị vì và bảo vệ các quốc gia quân chủ đó. 
            Như đã nói, nền quân chủ thế tập thuộc quyền cai trị của một dòng họ thì dễ bảo toàn hơn nhiều so với các nền quân chủ mới; bởi vì khi đó, quân vương nối ngôi chỉ cần không phá bỏ những tập tục lâu đời và biết điều chỉnh hành vi của mình trước những biến cố bất ngờ. Cứ như thế, một quân vương, với năng lực bình thường, luôn có thể duy trì đất nước của mình trừ khi có một thế lực đặc biệt và bất thường phế truất ông ta. Và cho dù điều đó có xảy ra, ông ta vẫn có thể dễ dàng giành lại đất nước nhờ một sai lầm nhỏ nhất của kế tiếm quyền. 
          Ví dụ như công tước xứ Ferrara7[7 Machiavelli đồng thời đề cập đến hai đời công tước xứ Ferrara: Ercole d’Este (1471-1505), người đã mất rất nhiều đất cho xứ Venice và đồng minh là Giáo hoàng Sixtus IV trong cuộc chiến với vua Ferranter xứ Naples. Con trai ông là Alfonso d’Este (1486-1534), người bị Giáo hoàng Julius II (tấn công?) năm 1510] của Italia đã chống lại được các cuộc tấn công của xứ Venice (1484) và của Giáo hoàng Julius8 (1510) [8 Giuliano della Rovere (1443-1513, trở thành Giáo hoàng Julius năm 1503). Ông đã củng cố các vương quốc thuộc Giáo hội trong lòng Italia và tổ chức Liên minh Cambrai chống lại Venice và Liên minh Thần thánh chống lại nước Pháp. Giáo hoàng Julius II còn là nhà bảo trợ các các nghệ sỹ nổi tiếng thời Phục Hưng như Michelangelo, Raphael và Bramante] chủ yếu nhờ vào truyền thống cai trị của dòng họ này. Bởi quân vương thì vốn dĩ chẳng có nhiều lý do cũng như chẳng cần gì nhiều để làm hại đến thần dân, bởi vậy quân vương thường được yêu quý nhiều hơn là bị thù ghét. Và nếu chẳng vì một thói xấu quá đáng nào khiến người ta phải thù ghét, thì điều hoàn toàn hợp lý và bình thường là mọi thần dân đều mến chuộng quân vương. Và dưới sự cai trị lâu đời và liên tục đó, những động cơ cho sự sáng tạo và cải cách đều lụi tàn, vì cái mới thường phải xây lên từ khoảng trống mà cái cũ để lại[9 Tại nguyên bản tiếng Italia, Machiavelli sử dụng thuật ngữ addentellato chỉ lượt đá răng cưa cuối một bức tường thường được để lại để thuận lợi cho việc xây dựng sau đó].

3 CÁC QUỐC GIA QUÂN CHỦ MANG TÍNH HỖN HỢP 
  
  
           Nhưng các quốc gia quân chủ mới lại gặp nhiều vấn đề phức tạp hơn. Trước hết, nếu quốc gia này không phải hoàn toàn mới mà chỉ là kết quả của sự sáp nhập (khi hai vương quốc được hợp lại làm một thì có thể gọi là quốc gia mang tính hỗn hợp) thì rắc rối xuất phát từ bản chất của tất cả quốc gia quân chủ  mới: dân chúng hoan hỉ thay đổi kẻ cai trị và tưởng rằng mọi chuyện  sẽ tốt hơn; và lòng tin đó đã khiến họ cầm vũ khí chống lại người trị vì cũ. Nhưng họ đã lầm tưởng bởi vì thực tế sau này cho họ thấy  mọi sự còn trở nên tồi tệ hơn. 
            Điều này bắt nguồn tự một nguyên nhân bình thường và rất tự nhiên. Vị quân vương mới giành được quyền lực thường khiến các thần dân mới của mình thù ghét bởi binh lính và những thương đau gắn với cuộc chinh phạt của ngài. Do vậy, tất cả những người mà ngài làm tổn thương  khi xâm chiếm một đất nước sẽ trở thành kẻ thù của ngài trong khi những người đã giúp ngài nắm quyền lực lại không thể mãi là bạn bè, bởi vì ngài không thể làm họ hài lòng theo cách mà họ muốn hoặc có thể ngài không dám dùng những biện pháp mạnh10 do ngài phải chịu ơn họ. [10Những biện pháp mạnh: hiểu theo nghĩa đen, medicineforti có nghĩa là liều thuốc mạnh]  
            Cho dù có quân đội hùng mạnh nhất, sự ủng hộ của dân bản xứ vẫn luôn là điều cần thiết để chiếm giữ một vùng đất. Chính vì lý do này, vua Louis XII của nước Pháp11 [ 11 Vua Louis XII của Pháp : Con trai của Charles d’Orléans (1462-1515), kế vị người em họ là vua Charles VIII vào năm 1948, hưởng quyền thế tập đối với xứ Naples và Milan, liên minh với người Venice chiếm đóng Milan một thời gian ngắn vào năm 1499, bị công tước Milan chiếm lại vào năm 1500, sau một cuộc nổi loạn chống lại viên thống sứ người Pháp] đã nhanh chóng chiếm được Milan và cũng nhanh chóng đánh mất thành phố này. Và ngay lần đầu tiên, chỉ riêng các đạo quân của Ludovico12 [12 Ludovico: Ludovico Sforza (1451-1508) được gọi là “il Moro” (người Moor), là con trai của Francesco Sforza, Công tước xứ Milan và Bianca Maria Visconti. Ông trở thành công tước xứ Milan năm 1494 sau khi Pháp xâm lược Italia và sau khi người cháu của ông, là Gian Galeazzo Visconti chết (có thể do chính ông ám sát). Trong khi Ludovico cố gắng chiếm lại Milan vào năm 1500, quân đội của ông chiến đấu với lính Pháp tại Novara, và khi các lính đánh thuê Thụy Sĩ của Ludovico đã không chịu đánh nhau với những người “đồng bào” của mình trong quân đội của vua Louis, nên Sforza đã bị bắt, bị cầm tù đến chết tại một nhà tù gần Tours. Ông cũng là một trong những nhà bảo trợ của Leonardo da Vinci]  cũng đã đủ để chiếm lại Milan, bởi vì chính những người dân đã mở cổng thành cho vua Louis cảm thấy bị lừa dối, thất vọng vì tương lai tốt đẹp hơn mà họ ảo tưởng đã không đến và họ đã không thể ủng hộ sự chiếm đóng của người cai trị mới thêm nữa. 
            Rõ ràng là những vùng đất đã nổi loạn nhưng bị chinh phục lại sẽ khó mất hơn vì nhân cơ hội dẹp loạn, vị chủ nhân của vùng đất đó bớt e dè trong việc trừng phạt những kẻ chống đối, truy lùng những kẻ tình nghi và khắc phục những điểm yếu của mình. Như vậy, chỉ cần công tước Ludovico đe dọa các vùng biên giới là đã đủ để nước Pháp phải mất Milan lần thứ nhất. Nhưng để người Pháp phải bỏ Milan lần thứ hai, cả thế giới13 đã phải chống lại nước Pháp, tiêu diệt và truy đuổi quân Pháp khỏi Italia. [13 Người Pháp nhanh chóng chiếm lại Milan sau trận chiến Ravenna (1512), một chiến thắng phải trả giá đắt mà tại đó người Pháp đã đánh bại Liên minh Thần thánh do Giáo hàng Julius II chỉ huy nhưng lại mất vị thống chế dũng cảm là Gaston de Foix. Machiavelli dùng từ “cả thế giới” để ám chỉ việc Liên minh Thần thánh không chỉ gồm Tây Ban Nha, Venice và Giáo hoàng mà ít nhất là trên giấy tờ còn gồm cả vua Henry VIII của Anh và hoàng đế Maximilian I của Đức
            Những lý giải chung về lần đầu nước Pháp mất Milan đã được bàn ở trên, bây giờ, tôi xin được đề cập tới những lý do dẫn tới việc mất Milan lần thứ hai cũng như xem xét các biện pháp mà vua nước Pháp đã áp dụng và những biện pháp đáng lẽ nên áp dụng trong trường hợp đó để chiếm giữ một cách hữu hiệu hơn. Các vùng đất bị chinh phục và sáp nhập vào vương quốc lâu đời của người chiến thắng có thể có chung hoặc không cùng chung vùng địa lý, ngôn ngữ. Với những xứ bị chinh phục có chung vùng địa lý và ngôn ngữ, việc chiếm giữ dễ dàng hơn, đặc biệt là khi những vùng đất này không quen với tự do; và để chiếm giữ một cách chắc chắn thì biện pháp duy nhất cần làm là tiêu diệt hoàng tộc cũ. 
            Con người thường sinh sống một cách hiền hòa miễn là cách sống quen thuộc không bị đảo lộn, tập tục không bị thay đổi. Chúng ta có thể thấy điều đó qua trường hợp của các xứ Burgundy, Brittany, Gascony và Normandy14 [14 Xứ Normandy được sáp nhập vào nước Pháp năm 1204, xứ Gascony được giành lại từ người Anh năm 1453, xứ Burgundy được nhập vào nước Pháp năm 1477, xứ Brittany thuộc về nước Pháp sau cuộc hôn nhân của vua Charles VIII với quận chúa Anne của xứ Brittany, sau này quận chúa Anne lại lấy vua Louis XII ]– những vùng đất đã trở thành một phần của nước Pháp trong thời gian dài. Mặc dù có vài khác biệt về ngôn ngữ nhưng do phong tục tương đồng nên sự hòa hợp trở nên dễ dàng. Bất kỳ ai muốn thôn tính và giữ được các vùng đất thuộc loại này cần nhớ hai điều: thứ nhất, phải tuyệt diệt hoàng tộc cũ; và thứ hai, không nên thay đổi luật lệ và thuế khóa. Được vậy, các vùng đất mới sẽ nhanh chóng hợp nhất vào chính quốc. 
            Nhưng khi các vùng đất bị chiếm đóng không tương đồng về ngôn ngữ, phong tục và luật lệ thì khó khăn sẽ gấp bội, và muốn vượt qua được thì cần phải có thật nhiều may mắn và tốn nhiều công sức. Tốt nhất, người chinh phục phải đích thân tới sống ở vùng đất vừa chiếm được. Nhờ thế, việc chiếm đóng mới lâu dài và bền vững, như hoàng đế Thổ Nhĩ Kỳ đã áp dụng với Hy Lạp. Bởi vì cho dù thực hiện tất cả các biện pháp đề phòng khác, nhưng nếu ông ta không tới đó sống thì việc giữ được các vùng đất này là điều không thể. 
           Bởi vì, chỉ khi mà người chinh phục sống ngay tại nơi đó thì mới có thể phát hiện vấn đề từ trong trứng nước và nhanh chóng tìm ra biện pháp giải quyết. Không sống ở đó, các bậc quân vương chỉ có thể biết được tình hình sau khi vấn đề đã trở nên trầm trọng và khi ấy thì vô phương cứu chữa. Hơn nữa, không nên để bọn quan lại cướp bóc vùng đất vừa chiếm được bởi dân chúng mong muốn được trông cậy trực tiếp vào nhà vua của mình. Muốn trở thành các thần dân tốt, họ sẽ có nhiều lý do để yêu mến vua hơn và muốn trở thành các thần dân xấu, họ sẽ có nhiều lý do để sợ vua. Bất kỳ lực lượng ngoại bang nào muốn xâm chiếm vùng này buộc phải e ngại, bởi vì khi nhà vua đã đích thân đến sống tại đây thì việc mất vùng đất này là vô cùng khó khăn. 
           Biện pháp còn lại và tốt hơn là di dân chính quốc tới một vài vùng thuộc địa với sự hỗ trợ cho chính quốc. Bởi vì điều cần thiết là quân vương phải dùng cách này hoặc duy trì một lực lượng lớn bộ sinh và kỵ binh, nhưng việc di dân chính quốc sang sinh sống các vùng thuộc địa không phải tốn kém gì nhiều. Phương cách này chỉ gây tổn thương cho thiểu số những kẻ bị tước đoạt nhà cửa, ruộng vườn để trao cho các cư dân mới. Và những kẻ bị tổn thương đó đều là loại nghèo hèn và phân tán nên ch

0