phục dựng nỏ thần thời An Dương Vương
Đông Hà (daidoanket.vn) Là người Việt Nam, không ai xa lạ với câu chuyện về chiếc nỏ thần thời Thục Phán- An Dương Vương dựng nước Âu Lạc. Chuyện danh tướng Cao Lỗ chế tạo nỏ thần bắn ra vạn mũi tên được phản ánh qua truyền thuyết dân gian đượm màu thần thoại. Nhưng nhiều nghiên ...
Đông Hà (daidoanket.vn)
Là người Việt Nam, không ai xa lạ với câu chuyện về chiếc nỏ thần thời Thục Phán- An Dương Vương dựng nước Âu Lạc. Chuyện danh tướng Cao Lỗ chế tạo nỏ thần bắn ra vạn mũi tên được phản ánh qua truyền thuyết dân gian đượm màu thần thoại. Nhưng nhiều nghiên cứu thư tịch, khảo cổ học, và mới đây- Hội thảo về Danh tướng Cao Lỗ thời dựng nước đã phần nào đưa huyền thoại về nỏ thần Cao Lỗ gần hơn với chính sử.
Thực nghiệm bắn mũi tên Cổ Loa và máy bắn nỏ tại Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam
Thiếu tướng Lê Mã Lương và Thượng úy Phạm Vũ Sơn kiểm tra mũi tên trước khi bắn thử nghiệm.
Cao Lỗ là danh tướng có thật
Tại hội thảo khoa học “Cao Lỗ- Danh tướng thời dựng nước” do Bộ VHTT&DL, Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, UBND tỉnh Bắc Ninh tổ chức, các nhà khoa học đã khẳng định: Cao Lỗ là nhân vật có thật trong lịch sử. Ông là vị danh tướng đầu tiên trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, chứ không phải như nhiều người nghĩ ông là nhân vật chỉ có trong truyền thuyết.
Những cuộc khai quật của Viện Khảo cổ đã cho thấy sự xuất hiện của các mũi tên đồng Cổ Loa. Đó là các loại mũi tên hình lá, mũi tên có cánh phẳng hình gần tam giác. Mũi tên ba cạnh dạng này còn được đặt tên là mũi tên Cổ Loa. Đầu mũi tên có mũi nhọn, thân mũi tên có hình gần chóp nhọn và nổi lên 3 cạnh sắc ở phía ngoài. Đây là dạng mũi tên sát thương cao. Năm 1959, các nhà khảo cổ đã tìm được trong lòng đất Cổ Loa số lượng lên tới hơn một vạn chiếc tên được chôn giấu. Đặc biệt, sau này các nhà khảo cổ học còn tìm thấy lò đúc và quan trọng nhất là khuôn đúc mũi tên ba cạnh này. Trước đây, một số học giả cho rằng đó là mũi tên của nhà Hán, hay của một nền văn hóa Hanstat trời Âu mang đến. Nhưng bằng chứng khảo cổ học cho thấy người Việt đã đúc được mũi tên từ cách thời An Dương Vương 1.000 năm trong văn hóa Đồng Đậu. Những mũi tên Cổ Loa tái khẳng định điều đó.
Phục chế “nỏ thần”
Từ những năm 2000, một nhà nghiên cứu là kỹ sư Lê Minh Hồng đã phác họa cấu trúc nỏ thần theo mô hình của một chiếc nỏ “tích hợp” nhiều cánh nỏ. Kỹ sư Lê Minh Hồng cho rằng, đó là vũ khí tiền thân của chiếc nỏ thần Liên Châu, mà thứ tự là cung bật tên – cung đơn – nỏ thường – nỏ Liên Châu. Từ năm 1982, anh tìm đọc tất cả thư tịch và chuyện dân gian về nỏ thần, dùng nhiều cách để thực nghiệm. Đến năm 1990, anh mới giải mã xong bí mật của thần nỏ. Và cũng vài năm sau, anh mới chế ra được chiếc nỏ Liên Châu đầu tiên.
-Theo Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, danh tướng Cao Lỗ là một vị anh hùng dân tộc, biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam trong thời đầu dựng nước, được nhân dân ta sùng kính, thờ phụng ở nhiều nơi trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. Tôn vinh công đức của Tướng quân Cao Lỗ, của những bậc tiền nhân có công với dân, với nước là đạo lý truyền thống của dân tộc và là nền tảng văn hóa tinh thần làm nên sức sống trường tồn của dân tộc Việt Nam-
Theo kỹ sư Hồng, nguyên thân nỏ dài tới 4m, và có tới hai loại nỏ. Nỏ công dùng cho nhóm chiến đấu, nỏ thủ dùng cho cá nhân. Muốn tạo ra nỏ khổng lồ, có sức sát thương cao, phải liên kết nhiều cánh nỏ trên một thân nỏ. Nỏ này không chỉ bắn ra hàng trăm mũi tên một lúc mà còn bắn được cả mũi lao xa tới cả trăm mét. Bí mật sức mạnh của nỏ là thuật tổ hợp hay còn gọi là thuật chia nhỏ góp gió thành bão. Nhưng khó nhất là ở khâu làm lẫy. Lẫy nỏ Liên Châu khác hẳn cách làm lẫy nỏ thường, mà giống như cái lẫy ở bẫy bắt chuột. Và anh đã phát minh được một vật để làm lẫy. Đó là móng một loài rùa cổ, là một bộ phận sừng hóa ở con rùa liền với xương chân vừa dai, vừa cứng, chịu lực tốt. Khi thực hiện, kỹ sư Hồng không tìm được loại móng này, anh đành phải thay bằng sừng trâu già (có tính chất tương tự), và chỉ tạo được nỏ Liên Châu ba dây (truyền thuyết và sách vở nói nỏ Liên Châu to nhất có tới năm dây, bắn ngọn lao đi xa 100m, tầm sát thương có thể xuyên thủng áo giáp da trâu hoặc miếng hộ tâm bằng đồng là 60m).
Tuy nhiên, mô hình nỏ thần do Bảo tàng Lịch sử quân sự Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu tiền sử Đông Nam Á thực hiện vào năm 2010 được nhắc tới nhiều hơn cả tại hội thảo. PGS- TS Lê Đình Sỹ, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử quân sự cho biết: mô hình này được phỏng dựng dựa trên việc “giải phẫu” các lẫy nỏ cổ bằng đồng từng phát hiện tại Làng Vạc (Nghệ An). Mô hình nỏ Liên Châu này đã được nhóm nghiên cứu dựng lại với một hệ thống thân nỏ bằng tre luồng, có khả năng phóng đi 5 mũi tên một lúc và được đánh giá khá cao khi tổ chức “bắn biểu diễn”. Công trình nghiên cứu này cũng đã được trao giải tặng giải nhì Hội thi sáng tạo Kỹ thuật toàn quốc lần thứ X – năm 2010.
Có thể thấy, việc phục dựng thành công những mũi tên đồng Cổ Loa, chiếc nỏ thần bắn nhiều mũi tên cùng một lúc đã chứng minh được truyền thuyết An Dương Vương là có thật. Khẳng định được người Việt cổ ở giai đoạn đó đã có sự phát triển nhất định về kỹ thuật luyện kim, kỹ thuật quân sự. Chứng minh được lịch sử Việt Nam không đơn thuần chỉ là truyền thuyết.
Hai ngàn năm về trước cha ông ta đã sở hữu một thứ vũ khí có sức sát thương ghê gớm khiến cho kẻ thù phải khiếp đảm. Ðó chính là nỏ liên châu. Nó đã đi vào truyền thuyết, song thực tế cho đến bây giờ người dân vùng đất Cổ Loa – Kinh đô của vương triều An Dương Vương huyền thoại, vẫn tin thứ vũ khí đó thực sự tồn tại và niềm tin đó hoàn toàn có căn cứ.
Theo truyền thuyết, tướng Cao Lỗ đã nỗ lực giúp An Dương Vương chế tạo thành công nỏ thần. Nỏ có sức mạnh kỳ diệu, “chỉ núi thì núi tan, chỉ ngàn thì ngàn cháy”, vì vậy dân gian gọi là nỏ thần và người chế tạo ra nỏ thần đó được gọi là Ông Nỏ hay Ðô Nỏ.
Vào khoảng tháng 6/1959 trong khi đang cùng các công nhân đắp con đường từ Quốc lộ 3 đi qua khu di tích Cổ Loa đến xưởng phim, tại khu vực có tên là Cầu Vực, mọi người phát hiện một hố gần vuông mỗi cạnh 1m, sâu khoảng 1,2m, trong chứa 93kg mũi tên đồng, ước khoảng gần một vạn chiếc, với rất nhiều kích cỡ khác nhau.
Một phần lẫy nỏ của chiếc nỏ thần huyền thoại hiện đang có mặt tại Bảo tàng lịch sử quốc gia
Việc phát hiện được kho mũi tên đồng ở Cầu Vực cho thấy truyền thuyết về nỏ thần của An Dương Vương ở Cổ Loa có cốt lõi lịch sử chân thật. Tư liệu của khảo cổ học ở Cầu Vực đã “vén bức màn huyền thoại” và trả lại cho An Dương Vương sự thật việc luyện và đúc mũi tên đồng ở Cổ Loa.
Lẫy nỏ và mũi tên ba cạnh của chiếc “nỏ thần” huyền thoại thời kì Thục Phán An Dương Vương
Lẫy nỏ loại hình thành sớm thường gồm 3 bộ phận, nhưng lẫy nỏ giai đoạn sau này được phát triển lên đến 6 bộ phận là hộp cò, lẫy cò, chốt (thường có 2 chốt), thước ngắm.
Có bảy loại mũi tên dùng cho nỏ thần của An Dương Vương: Loại dài nhất 11cm, loại ngắn nhất 6cm và đều cùng một loại, cấu tạo gồm 3 bộ phận: đầu nhọn, trụ và chuôi cùng có mặt cắt ngang hình tam giác. Ðầu mũi tên có mặt cắt hình tam giác với rìa cạnh thẳng hoặc hơi cong vồng ra; mặt cắt ngang đầu mũi hình tam giác đều cạnh thẳng hoặc cong lõm vào.
Điểm đặc biệt trong các loại mũi tên dùng cho nỏ thần An Dương Vương đó là mũi tên ba cạnh tạo ra vết rách to theo ba hướng, gây thoát máu nhanh, thương vong lớn cho đối phương.
Mũi tên ba cạnh là một đặc điểm quan trọng khiến cho đối phương hoang mang, mất bình tĩnh khi đang tấn công và là một yếu tố tạo nên tính thần kỳ của loại nỏ An Dương Vương so với các loại vũ khí đương thời và ngay cả với loại nỏ chỉ được bắn bằng mũi tên hai cạnh thông thường.
Độ sát thương của những mũi tên có đầu ba cạnh khiến kẻ thù của An Dương Vương khiếp sợ
*********
Ý tưởng phục dựng nỏ thần Cổ Loa
Mỹ Hằng – tienphong.vn
Ý tưởng phục dựng nỏ thần Cổ Loa bắt đầu nhen nhóm khi Bảo tàng LSQSVN được tặng 20 mũi tên đồng 3 cạnh. Đây là số mũi tên được khai quật tại di chỉ Cầu Vực, gần sát chân thành Cổ Loa. Điểm đặc biệt của loại mũi tên này là có 3 cạnh chứ không phải 2 cạnh như nhiều loại mũi tên khác.
Niên đại của chúng vào khoảng 2.000 – 2.500 năm trước, đúng vào giai đoạn xảy ra chiến thắng Cổ Loa. Tuy nhiên, hầu hết khách tham quan đều tỏ ý hoài nghi: Đó có thực là mũi tên đã làm nên sức mạnh thần kỳ, nó được sử dụng như thế nào, có gắn với truyền thuyết về An Dương Vương và thành Cổ Loa của dân tộc ta hay không?
Xuất phát từ thực tế đó, được sự ủng hộ, tạo điều kiện của Thiếu tướng Lê Mã Lương (Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam), nhóm nghiên cứu do Thượng úy Phạm Vũ Sơn làm đại diện phối hợp cùng TS Nguyễn Văn Việt (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á) bắt tay vào nghiên cứu phục dựng và chứng minh khả năng sát thương của mũi tên đồng Cổ Loa và lẫy nỏ đồng Đông Sơn cách nay 2.000 – 2.500 năm.
Chiếc nỏ này được phục chế hoàn toàn dựa trên nguyên tắc tôn trọng lịch sử, sử dụng những phương tiện sát lịch sử nhất, không sử dụng phương tiện sắc bén của thời hiện đại. Hình dáng nỏ được tham khảo và dựa trên những sách cổ Trung Quốc và hình vẽ trên đền thờ Angkor Watt và tài liệu La Mã cổ đại liên quan đến nỏ có niên đại trùng với thời An Dương Vương để so sánh.
Nhóm nghiên cứu đã thuê thợ đúc đồng làng Đại Bái (Bắc Ninh) đúc lại mũi tên đồng theo phương pháp thủ công cổ xưa, với tỉ lệ hợp kim đồng – chì – thiếc đúng như đã phân tích từ mũi tên khai quật được. Qua phân tích bằng phương pháp quang phổ, nhóm nghiên cứu tìm ra thành phần cấu tạo của mũi tên đồng Cổ Loa có 95% bằng đồng; chì 3,4 – 4,2%; thiếc 1 – 1,1%.
Với tỷ lệ này, tên được tạo có độ cứng cao, có thể mài, dũa để tạo thành những bộ phận lưỡi, mũi nhọn, sắc, có độ sát thương cao. Thiếc và chì sẽ khiến khuôn đúc mũi tên rất róc, không bị bám dính. Khuôn đúc tên cũng phải chế tác theo chất liệu và kiểu dáng của khuôn cổ chứ không sử dụng các loại khuôn hiện đại.
Kỳ công hơn, theo đúng các ghi chép cổ xưa còn lưu lại, thân mũi tên được làm từ thân cau già chứ không phải bằng tre vì tre có đốt nên bị giới hạn về độ dài. Cau già có độ dẻo, thẳng, không bị cong vênh, co ngót theo thời gian.
Trải qua rất nhiều thử nghiệm, nhóm nghiên cứu mới tìm ra tỷ lệ tương xứng giữa thân và mũi tên để đảm bảo mũi tên bay xa và chuẩn nhất. Toàn bộ mũi tên dài 80 cm, đường kính 0,8 cm, nặng 80-100 g.
Dây nỏ được làm từ mây lấy ở Hoà Bình. Để có những dây nỏ đảm bảo chất lượng, nhóm nghiên cứu đã phải đặt nghệ nhân làm nỏ người Mường, Thái vào rừng chọn gai từ mùa trước, sau đó ngâm tẩm và bện thành dây. Cánh mũi tên làm từ mo cau đúng như các ghi chép cổ còn lưu lại.
Kết quả, sau 2 năm miệt mài, nhóm nghiên cứu đã phục dựng được thành công máy bắn nỏ thời Văn Lang- Âu Lạc, có thể bắn nhiều mũi tên cùng một lúc với độ sát thương cao
“Nỏ thần” sau khi phục dựng xong đã được thử nghiệm tại Hà Nội và Hòa Bình. Kết quả cho thấy, ở khoảng cách từ 80 – 120m, mũi tên phóng đi đạt độ sát thương cao nhất.
Khoảng cách này cũng phù hợp với khoảng cách giữa thành, hào và khoảng cách khi phát động tấn công thành của kẻ thù. Điều đặc biệt là chiếc nỏ có thể bắn ra 10 mũi tên cùng lúc. Trong tương lai, nhóm nghiên cứu có thể nâng khả năng bắn của nỏ này lên nhiều mũi tên hơn cùng lúc với cơ chế bắn liên hoàn.
“Có khả năng trong lịch sử, nỏ thần Cổ Loa là chiếc nỏ bắn liên hoàn, nhờ vậy mới có câu “bách phát bách trúng”. Bách ở đây nên hiểu là thể hiện số nhiều chứ không phải là con số 100 như cách hiểu thông thường” – Thượng úy Phạm Vũ Sơn giải thích.
Cũng theo nhóm nghiên cứu, không phải ngẫu nhiên mà ông cha ta xưa nghĩ ra mũi tên 3 cạnh. Các thử nghiệm cho thấy, đường khương tuyến ở các cạnh của mũi tên làm vết thương thoát máu nhanh, gây tổn thất nhanh cho kẻ địch, ngoài ra có thể rút ra sử dụng tiếp chứ không cắm phập như mũi tên 2 cạnh. Việc thiết kế 3 cạnh tạo cho đường tên đi ổn định.
Mũi tên bay dạng xoắn, giảm được tối đa lực cản của gió và không khí. Khi tiếp cận mục tiêu, mũi tên xé rách làm 3 hướng, tăng khả năng sát thương. Ngoài ra mũi tên loại này còn có năng bắn “xiên táo”.
Theo nhóm nghiên cứu, nhiều khả năng đây chính là điểm để tạo nên “sức mạnh thần kỳ” của loại vũ khí này vì nó làm tăng hiệu suất sát thương tiêu diệt quân địch, khiến kẻ thù hoang mang, kinh hoàng trước sức mạnh phi thường của loại vũ khí có hình dáng nhỏ bé.
Ở khoảng cách gần khi không thể bắn bằng nỏ, có thể dùng mũi tên làm vũ khí chiến đấu giáp lá cà rất lợi hại. Tỉ lệ pha trộn đồng – thiếc – chì trong mũi tên Cổ Loa chứng tỏ người xưa đã có những nghiên cứu rất tỉ mỉ, có sự tính toán khoa học, tạo ra một vũ khí lợi hại, có độ cứng, sắc cao.
Tỉ lệ này cũng tương ứng với tỷ lệ phân tích được trên các vũ khí khác như giáo, mác… Chứng tỏ trình độ luyện kim, trình độ quân sự thời An Dương Vương đã rất cao.
Công trình nghiên cứu của Thượng úy Phạm Vũ Sơn và các cộng sự được Hội đồng chấm giải Hội thi Sáng tạo Kỹ thuật toàn quốc lần thứ X đánh giá cao.
“Với việc phục dựng thành công những mũi tên đồng Cổ Loa, chiếc nỏ thần bắn nhiều mũi tên cùng một lúc, chúng tôi đã chứng minh được truyền thuyết An Dương Vương là có thật. Khẳng định được người Việt cổ ở giai đoạn đó đã có sự phát triển nhất định về kỹ thuật luyện kim, kỹ thuật quân sự. Chứng minh được lịch sử Việt Nam không đơn thuần chỉ là truyền thuyết. Ngoài ra, còn giúp khách tham quan khi đến bảo tàng không chỉ xem hiện vật mà còn hiểu sâu sắc giá trị lịch sử của nó.”
Thượng úy Phạm Vũ Sơn, Đại diện nhóm nghiên cứu của Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam.
Theo TS. Nguyễn Văn Việt (Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Tiền sử Đông Nam Á), đề tài nghiên cứu được phát triển theo các tuyến, nguồn tư liệu khác nhau như thư tịch cổ của Trung Quốc, Champa, các hình vẽ, phù điêu ở trên tường những ngôi mộ cổ, ở Angkor Watt, tư liệu dân tộc học… để lần theo “dấu vết” của những kỹ thuật sơ khai còn được lưu giữ trong từng nhóm tư liệu, để các kết quả đưa ra phải có logic và tính thuyết phục cao.
Lẫy nỏ là một trong những bộ phận quan trọng của chiếc nỏ. Trong truyền thuyết lẫy này làm bằng móng rùa. Nhưng theo nhóm nghiên cứu, có thể Rùa là con vật Tổ được cư dân Việt cổ thời đó tôn thờ nên đã gắn sức mạnh của vị thần cho loại vũ khí “bảo bối” của mình nhằm làm tăng thêm sự thần kỳ và linh thiêng.
Trên thực tế, lẫy chỉ được làm bằng chất liệu đồng hoặc thậm chí bằng vật liệu tre gỗ. Lẫy nỏ giai đoạn này được cấu tạo gồm nhiều chi tiết lắp vào nhau nên chiếc nỏ còn được gọi là nỏ “liên cơ”. Trong tiếng Hán, liên là liên hoàn, cơ là cơ quan (hay còn gọi là bộ phận).
Lẫy nỏ loại hình thành sớm thường gồm 3 bộ phận, nhưng lẫy nỏ giai đoạn sau này được phát triển lên đến 6 bộ phận là hộp cò, lẫy cò, chốt (thường có 2 chốt), thước ngắm.
Thượng úy Phạm Vũ Sơn cho biết, ban đầu, nhóm nghiên cứu phục dựng lẫy nỏ bằng gỗ để nghiên cứu chuyển động của lẫy. Sau đó, phục dựng hoàn chỉnh bằng đồng, với tỷ lệ hợp kim đúng như của lẫy nỏ cổ.
Việc nghiên cứu này rất khó khăn vì các lẫy nỏ khai quật được đều trong tình trạng gỉ sét, đóng cứng, nhưng lại rất đắt tiền vì đó là đồ cổ. Một số lẫy nỏ được lùng mua từ các nhà sưu tầm tư nhân, dù trong tình trạng “tiều tụy” cũng có giá từ 4 triệu đồng đến 6 triệu đồng. Thậm chí có chiếc lẫy được phát giá tới 2000 USD nhưng thực sự chủ nhân không hề muốn bán.
Do khó khăn như vậy, nên nhóm nghiên cứu đã phải tính hướng “giải phẫu” những chiếc lẫy nỏ đã gỉ sét bằng cách dùng mũi tên chuyên dụng khoan vào thân lẫy nỏ cổ.
Mũi khoan có đường kính cực nhỏ, khoảng 0,01mm, nên sau khi khoan gần như không để lại vết tích và ảnh hưởng đến hiện vật của các nhà sưu tập cổ vật.
Chất liệu làm lẫy nỏ nằm trong mũi khoan, có thể rút ra mang đi phân tích. Kết quả phân tích cho thấy, tỷ lệ hợp kim dùng để làm lẫy nỏ tương đồng với tỷ lệ làm mũi tên.
Những loại lẫy nỏ thông thường được làm bằng sừng hoặc gỗ tốt với cơ chế hoạt động hết sức đơn giản. Riêng lẫy nỏ bắng đồng giai đoạn văn hóa Đông Sơn đã đạt đến trình độ cao về cơ học.
Chứng tỏ cha ông ta thời đó đã có trình độ kỹ thuật, quân sự đáng kính nể. Lắp lẫy nỏ vào có tác dụng giữ được dây cung với độ căng rất lớn, đảm bảo cho mỗi lần bóp cò đạt hiệu quả cao.
Điều quan trọng nhất tạo nên sức thần của “nỏ thần Cổ Loa” có lẽ chính là họ đã biết phát triển kỹ thuật tạo ra những “chốt giữ liên hoàn” để có thể 1 lần bóp cò thì không những một chiếc nỏ bắn được nhiều tên mà nhiều chiếc nỏ như vậy cùng bắn tạo ra những “cơn mưa” mũi tên găm vào đội hình địch, không những làm sát thương mà còn làm tan đội hình, thế trận của kẻ thù.