18/06/2018, 15:34

Thượng Kinh Ký Sự – Hải Thượng Lãn Ông

Giới Thiệu Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia và danh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê. Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông thuộc dòng dõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoa. Cha và ...

phu chua trinh

Giới Thiệu

Hải Thượng Lãn Ông là tên hiệu của Lê Hữu Trác, một nho gia và danh y Việt Nam vào cuối đời Hậu Lê. Ông sinh năm 1721, người xã Liêu xá, huyện Đường Hào, trấn Hải Dương (nay thuộc phủ Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên). Ông thuộc dòng dõi một gia đình có nhiều đời đại đăng khoa. Cha và chú đều đỗ tiến sĩ và làm quan đến đại thần. Lúc còn trẻ, ông đã nổi tiếng hay chữ. Đến năm 20 tuổi, gặp buổi nhiễu nhương, chúa Trịnh Giang độc đoán, giặc giã nổi lên khắp nơi, ông quyết định xếp bút nghiên theo việc đao cung. Đang ở trong quân ngũ, ông phải về quê ngoại là huyện Hương Sơn (thuộc tỉnh Hà Tĩnh bây giờ) để thay người anh thứ năm phụng dưỡng mẹ già. Tại Hương Sơn, ông mắc phải một chứng bệnh dai dẳng, may nhờ một y sĩ họ Trần cứu chữa. Từ đó, ông quyết định rời bỏ quan lộ, dốc lòng nghiên cứu y học, trở thành một y sĩ có tiếng. Ông mở trường dạy y học và ra công trước tác một bộ sách y khoa đồ sộ: Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh. Năm 1782, ông được quan Chính Đường (Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo) tiến cử lên kinh đô chữa bệnh cho Thế Tử Trịnh Cán (con chúa Trịnh Sâm và Tuyên Phi Đặng Thị Huệ). Tuy việc chữa bệnh không thành, ông đã phải ở kinh đô trong khoảng một năm. Cũng may là ông về nhà kịp trước khi xảy ra loạn Kiêu Binh, mở đầu một thời kỳ đại loạn trong lịch sử Việt Nam, kéo dài đến năm 1802 mới chấm dứt. Sau khi về, ông ghi lại những điều mắt thấy tai nghe tại kinh đô trong cuốn tùy bút “Thượng Kinh Ký Sự”.

Sách này thường được in trong phần phụ lục của Y Tông Tâm Lĩnh. Ông mất năm 1791. Trong văn học lịch triều, đây là một thiên tùy bút hiếm có. Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong cuốn này, tác giả đã không ngại để cái “Tôi” đóng một vai trò quan trọng. Ngoài ra, ông còn ghi lại những bài ngâm vịnh cùng nhiều danh sĩ tại kinh đô. Vào năm 1924, bản dịch của Nguyễn Trọng Thuật đã được đăng trong Nam Phong Tạp Chí. Chúng tôi xin trích nhiều đoạn trong bản dịch của Ứng Nhạc Vũ Văn Đình (Nhà Xuất Bản Văn Học, Hà Nội, 1993). Cuốn sách được viết theo thể nhật ký, không chia chương mục. Chúng tôi xin lược bỏ nhiều bài ngâm vịnh và chia cuốn Thượng Kinh Ký Sự thành những chương sau đây:

Lên Đường

Đến Kinh Thành

Chẩn Bịnh Thế Tử

Dọn Nhà

Họa Thơ

Nhớ Nhà

Gặp Bạn Cũ

Tiễn Bạn

Chữa Bịnh tại Kinh Thành

Viếng Chùa Trấn Quốc

Tái Ngộ Cố Nhân Thăm

Làng Cũ Thăm

Bịnh Chúa Trịnh Sâm

Chữa Bịnh Không Thành

Về Nhà

Lên Đường

Đó là về năm Nhâm Dần (1782), tháng Mạnh Xuân, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43. Buổi ấy ánh sáng xuân sáng dịu, hoa cỏ đua tươi. Tôi ở trong nhà U trai[1]; trước sân vài ba cây trổ hoa, kết quả, ngậm hương mang tuyết, ánh mặt trời chiếu xiên ngang, tạo nên những bóng hình tựa các bà phi nơi sông Tương (Tương phi[2]) ngồi quỵ. Những con rắn mối đuổi nhau chạy từng đàn.

Thỉnh thoảng mùi hương lạ bay qua. Chốn tây viên, trong ao phẳng lặng, cá nhởn nhơ nhô lên lặn xuống mà hớp lấy bóng trăng hoặc nuốt lấy làn sóng. Những con chim oanh hay hót, do chân tính của trời phú cho, thời thường tới những chỗ có bóng mát mà nhảy nhót tung tăng. Lúc ấy tôi dắt tiểu đồng trèo lên núi, đưa mắt ngắm khói mây, biết bao hứng thú! Lại thả câu ở đình Nghinh Phong, hoặc gảy đàn cầm trong nhà “tị huyên”, hoặc đọc sách ở đình “Tối quảng”, hoặc chơi cờ ở nhà “Di chân” rồi ngủ tại đó. Tùy ý tìm thú vui, ngày ngày thuờng say sưa mới quay về.

Ngày 12 tháng ấy, thấy hai người dịch mục của quan thự trấn bản xứ sai tới. Vừa mới vào trước sân họ đã nói rằng: “Bản quan kính mừng.” Tôi chưa biết là việc gì, mở giấy ra coi thì thấy hai đạo văn thư. Bức thư thứ nhất là bản sao tờ chỉ, truyền rằng nội san bình phiên Trạch Trung Hầu vâng chỉ truyền cho quan thự trấn Nghệ An là Côn Lĩnh Hầu hãy tìm hỏi tính danh người con của tiền thượng thư họ Lê ở huyện Đường Hào, xã Liêu Xá; người con đó là Lê Hữu Trác, tục gọi là Chiêu Bảy, hiện ngụ quê mẹ ở huyện Hương Sơn[3], xã Tình Diễm. Chỉ còn truyền cho trấn binh tức khắc đón về kinh đợi mệnh. Chỉ truyền năm Cảnh Hưng thứ 42, tháng 11 ngày 29. Bức thứ hai do chính quan thự trấn viết, tỏ lời mừng, đại lược nói rằng kẻ sĩ ở chốn hoang vu một sớm danh thấu Cửu trùng, hẳn cái tiến trình vạn lý sẽ nhẹ bước khôn kể, còn thêm rằng Vương mệnh không đợi thắng ngựa[4], nội trong ngày phải lên đường đi trấn Vĩnh Hưng, nơi đây trấn binh đều đã sẵn sàng chờ đón để ra đi.

Người mang thư còn nói riêng rằng: “Việc này do quan Chính Đường[5]đề cử để coi bịnh Đông cung Vương Thế tử[6] bị đau nặng từ lâu; việc chẳng nhỏ, ngày đêm phải gấp đường mà đi”. Tôi nhận thấy cơ sự này rất lợi hại[7], lấy làm kinh hãi, người như ngốc như si giờ lâu. Người nhà nghe thấy vậy, kẻ hiễu tôi vì tôi mà lo phiền, kẻ không biết tôi thì mừng cho tôi. Sự ồn ào nhất thời bất tất nói làm gì. Nguyên bốn, năm năm về trước, quan Chính Đường vâng mệnh ra trấn đất Hoan Châu, từng mời tôi đến bắt mạch, chữa bịnh, đãi tôi như thượng khách, ngồi liền chiếu, ăn uống lấy lễ đãi rất hậu. Sau ông dẹp giặc biển có công, về triều tước vị đến tam công[8] được tin dùng không ai bằng.

Việc này tôi nghe biết từ nhiều năm, lòng lo âu như đeo nặng một việc gì,thầm có sự ưu phiền sâu xa, thường than với môn nhân rằng: “ Ắt có một phen ta phải nhọc nhằn vào kinh, lăn lộn trong cái phồn hoa đất đô hội, phụ tình hoa cỏ chốn non xưa”. Sự thể ngày nay là giận mình chẳng vào ở sâu thêm trong núi. Tuy nhiên vị này có tài như Cơ công[9], thường kính nhường hậu đãi kẻ sĩ trong thiên hạ, huống hồ đối với mình sao?”.

Có kẻ vì tôi giải muộn mà rằng: “Ông dày công thâu thái, hiểu rõ cái học về tính mạng con người, chẳng làm lương tướng thì cũng làm lương y chẳng sai đâu; giữ gìn vẻ quý, che giấu đức tốt, cố nhiên là thái độ cao thượng. Nay cửu trùng tri ngộ, bốn bể nghe danh, há chẳng phải là việc xứng đáng của kẻ trượng phu sao?”. Lúc đó lòng tôi bứt rứt thâu đêm chẳng ngủ, tôi thầm nghĩ:

“Thuở thiếu thời mài gươm đọc sách, mười lăm năm trôi giạt chốn giang hồ, chẳng nên một việc gì. Khi đã gạt bỏ công danh rồi, làm nhà ở Hương Sơn, nuôi mẹ, đọc sách, chuyên chú vào các sách Hiên Kỳ[10], gìn giữ sức khoẻ mình, cứu giúp kẻ khác, tự lấy làm đắc sách. Bằng một sớm lại vương vào cái hư danh”.

Đến đó tôi lại tự an ủi: “Lòng ta hăng hái tự lực cực nhọc trong việc học thuốc đã 30 năm rồi, nay mới soạn thành Bộ Tâm Lĩnh, mà chẳng dám giữ làm của riêng mình, tự đem truyền thụ, muốn nó thành của chung thiên hạ, chỉ hiềm sức mọn, việc lại trọng đại, khó mà tự mình làm trọn được. Quỷ thần thành cảm sẽ giúp mình chuyến đi này có chỗ gặp gỡ nên hay, cũng chưa thể biết được”.

Nghĩ đi nghĩ lại, bất giác mừng rỡ, mặt mày hớn hở. Tôi liền tiếp đãi sứ giả, phúc thư quan bản trấn. Ông này vốn chơi thân với tôi, muốn thay tôi làm tờ khải, tôi phải kêu là tôi tuổi giàmình yếu, kính xin châm chước mà miễn cho. Chẳng được mấy ngày quan bản trấn lại sai thuộc nha đưa khẩn đến một bức văn thư nói là bản trấn đã chu biện một cái đò dọc dùng để di chuyển đến trạm, nếu trì hoãn sợ có liên lụy. Những con cháu trong nhà cũng hết sức khuyên nhủ tôi.

Tôi liệu thế chẳng ở lại được, tức thì báo tin cho đạo đồ[11] hay mà tập hợp lại. Vào ngày 14 thành tâm làm một lễ lớn cúng tiên thánh tiên hiền, ca xướng náo nhiệt một phen. Đến ngày 16 thấy tôi phải đi xa, bọn ấy lại tổ chức một buổi hát xướng nữa. Ngày 17 đồ thư nửa gánh, gươm đàn một bao[12] tôi bước lên thuyền theo đường thủy, nhắm huớng Vĩnh Dinh[13] mà tiến phát. Bấy giờ tân khách đầy nhà, kẻ xin thuốc, người tiễn chân, dùng dằng trèo kéo. Mặt trời đã ngả về tây mới động mái chèo. Tôi ngồi trong thuyền, tình riêng đối cảnh, nỗi khách bâng khuâng, khôn cầm lòng, miệng đọc mấy vần thơ rằng:

Lưu thủy hà thái cấp

Hành nhân ý dục trì

Quần sơn phân ngạn tẩu

Nhất trạo phích yên phi

Sa nhạn thân như tống

Du ngư cấp dục truy

Vân gian hương lĩnh thụ

Thái bán dĩ tà huy.

Nước chảy sao mà lẹ

Người đi những muốn thư

Non chia đôi ngạn chuyện

Mái rẽ đám sương mờ

Vịt bãi theo đưa tiễn

Cá sông dõi lững lờ

Mây che Huơng lĩnh khuất

Quá nửa đã chiều tà

Đêm hôm ấy người đi trong bóng trăng sáng, thôn xóm bên sông đều yên lặng; chó sủa mỗi khi thuyền bơi qua. Một vầng trăng bạc chiếu dòng sông, đôi bờ hải trào nghênh đò khách. Xa xa vẳng tiếng chuông chùa, mờ mờ sương phủ lùm cổ thụ. Mấy nơi đèn chài lạnh lẽo rọi sáng, hai con hải âu sóng đôi nghỉ ngơi. Bọn học trò đi theo đều uống rượu, mượn chén giải sầu. Tôi nhân ngâm một bài thơ để dãi lòng:

Nhất giang yên thủy tĩnh

Khách tứ mãn quan hà

Phong trọng chinh phàm cấp

Sương thâm khứ nhạn tà

Hàn san lai dạ khánh

Viễn phố xuất ngư ca

Kim tịch do như thử

Minh triêu thả nại hà?

Nước mây sông phẳng lặng

Nỗi khách chốn quan hà 

Gió mạnh buồm đưa gấp

Sương dày nhạn lượn qua

Núi sâu vang tự khánh

Cảnh tối nay như thế

Mai đây biết chăng là?

Gà gáy đến Vĩnh Dinh, nghỉ ngơi chốc lát trong thuyền đậu ở đầu bến. Sáng ngày mười tám rời thuyền lên bờ vào yết kiến quan thị trấn. Ông này đã nhiều ngày chờ đón tôi, nay nhân có giỗ tổ đã trở về bản quán, chỉ dặn thuộc viên sắp sẵn lính bản doanh với năm quan tiền để làm lộ phí. Người này nói: “Quan tôi có tiên kỵ, phải về quê, chẳng kịp diện đàm, có chút lễ mọn gọi là tỏ tình”. Quan thị trấn còn phái quan văn thư (các phủ viên) đem quân bản đạo là 20 người, đầy đủ quân nhu đi hộtống. Ngày hai mươi, viên quan này thu xếp hành trang lên đường, nhưng binh lính tùy tùng, vì cớlương ăn chưa sắm đủ, đều phải đi vay mượn.

Sau giờ ngọ mới ra đi, tối đến ngủ trọ tại xã Kim Khê (hiệu Quán My). Quan văn thư làm một lễ tạ ơn tại cái miếu xã này, tổ chức một màn ca vũ, có mời tôi tới dự. Lúc này thần linh vừa giáng phụ vào một đồng nữ ngồi trên xập; cô đồng này vừa lắc lư vừa đàm thoại. Có kẻ bảo tôi rằng: “Thánh mẫu linh hiển báo ứng không sai, ngày nay lão sư tiến kinh nếu có thỉnh nguyện điều chi hãy tới lạy xin”. Tôi đáp rằng: “Phàm làm người tất cầu điều đắc, há có ai cầu điều thất. Lòng tôi vốn không nguyện đắc thì còn có gì mà cầu nữa!”, Đồng nữ nghe vậy thì hơi mỉm cuời. Quan văn thư cũng nhìn tôi mà cả cười. Nửa đêm tiệc tan, mọi người đều về nghỉ. Ngày 21 khởi hành thật sớm. Gặp khi mưa dầm tình cảnh bọn hành nhân thật buồn thảm. Trước mặt là hàng ngàn ngọn núi mọc đứng thẳng, đuờng đá thì gồ ghề. Cũng vì bặt thiệp[14] gian nan, bất giác tôi ngâm lên rằng:

Trông về nam núi non đen tối

Buồn cho ai lặn lội đường xa..

Hướng về Cẩm Sơn mà đi, sang đò Cấm Giang[15] thì đến Thiết Cảng[16]. Toàn là hơi khói trên non, sương mù ngoài biển, hang động thì mờ ảo. Đây chính là 106 ngọn núi, có tăng già đi lại mà chẳng biết từ xứ nào vậy. Trong năm bước không nom rõ được người hoặc vật, chỉ nghe vượn hót chim kêu trong mây; một màu hơi khói, một thú sơn lâm khiến người xúc cảnh sinh tình. Tôi thầm nghĩ: Trải 30 năm nay, một trường danh lợi phó dòng nước xuôi, chỉ vui chơi cảnh suối rừng, lấy cái nhàn làm đắc sách; ai có hay lòng đã không thiết tha với danh lợi mà cái thân lại vướng mắc vào danh lợi. Chẳng qua mình đã không đạt được cái chân độn nên mới đến nỗi này.Nhân cảm hoài mà tự thuật trong một bài thơ:

Độn thế tòng y dưỡng nhất chân

Bất tri vi phú khởi tri bần

Lâm tuyền dục liễu tam sinh đạo

Luân phất nan từ vạn lý thân

Bán đản yên hà lao dịch mã

Mãn san viên hạc tống chinh nhân

Hư danh tự sủy vô tha bí

Hoàng khủng sơ cuồng đối thánh quân.

Học thuốc xa người để dưỡng chân[17]

Phú không hay biết biết chi bần

Ba sinh[18] rừng núi mong tròn đạo

Vạn lš khâm thừa dám tiếc thân

Nửa cõi khói mây chồn bước ngựa

Đầy non hạc vượn tiễn hành nhân

Hư danh đã bỏ không mơ ước

Sơ kháng còn lo đối thánh quân!

Tối hôm ấy đến chợ Đông Lũy[19] (hiệu Suy Gian) để trọ. Tôi sắp đi nằm thì thấy một người áo mũ chỉnh tề, bưng một mâm tôm biển đặt ở trước sân, rạp đầu chào bái. Tôi hỏi đến có việc gì. Y nói: “Tôi là lính trong nha của quan thị trấn, làng này là quê của vợ tôi. Tôi có đứa con vừa được tám tuổi, bị hàn nhiệt đã mấy tháng nay, hiện bệnh cũng đã thuyên giảm.

Gặp lúc đêm tối ra ngoài thềm đi tiểu tiện, bỗng ngất đi bất tỉnh. Các thày thuốc cho là ngộ gió, đã chữa trị rồi. Lúc này chân tay đã co ruỗi được, chỉ hiềm nhiệt quá, hôn mê chẳng biết ai nữa, mắt dương, môi sưng,mong tôn sư đem từ tâm cứu giúp cho”. Tôi biết đứa trẻ ấy âm khí chưa toàn, từ lâu lại nóng lạnh âm dương đều bị thương tổn, phong tà cũng do bệnh “hư” mà phát sinh; đã không biết bồi đắp cái cỗi rễ, lại chuyên dùng thuốc chữa phong, nên âm càng hao thì hỏa càng bốc, cho nên mắc phải bệnh hen, gân khô đi khiến mắt mở to.

Tôi bảo dùng lục vị làm thang, bỏ trạch tả mà thêm ban long, sao mạch môn lên mà trị bệnh. Đến sáng người ấy trở lại nói rằng: “ Sau khi dùng hết tễ thuốc, nhiệt đã giảm, thần thức tỉnh táo dần, kêu đói nên đã cho ăn cháo loãng”. Y còn nói trong làng một số thuộc danh gia thấy con y được lành bệnh, cũng muốn đến xin thuốc. Tôi sợ vướng mắc trong việc này bèn dùng phuơng bảo vị khí[20] để điều dưỡng. Tôi sai người đến báo cáo với quan văn thư xin được đi trước và hẹn đến chợ Hoàng Mai[21] thì nghỉ lại.

Ông ta cũng vì có việc công chưa hoàn tất, phải lưu trú ở đây nên ưng ngay. Ngày 22 bọn chúng tôi tiến bước. Khi đi đến mé tây núi chúng tôi mói nhận ra một dãy cao phong, chỏm núi trùng điệp, ẩn ẩn hiện hiện trong mây trắng; bên đường đi mấy ngọn mọc tách ra để lộ những hang hốc nhỏ. Trời về chiều đồng ruộng nom chỗ trắng trắng chỗ vàng vàng. Đến Long Sơn[22] thấy nhiều cổ thụ xanh um, một cung đất dâm mát, cảnh thật đáng yêu. Lại có những tấm đá mọc rải rác như những cái bàn thấp bé, hàng lối chỉnh tề. Tôi cho đỗ cáng lại để du ngoạn chốc lát, rồi để một bài thơ trên vách đá:

Y sơn cương tác tự

Bạng thạch giá sơn chung

Tế vũ miêu xuân thảo

Minh hà lạc vân tùng

Nhân ngâm tàn chi êu lý

Điểu ngữ loạn lâm trung

Phụng chiếu xu hành dịch

Cần lao tiếu Lãn Ông

Chùa tựa sườn non dựng

Chuông kế vách đá treo

Mùa xuân tươi cỏ sớm

Ráng đỏ phủ thông chiều

Chim hót trong rừng rậm

Người ca buổi bóng xiêu

Ra đi vâng chiếu chỉ

Ông Lãn cũng cần lao!

Đề xong, rảo bước đi, chiều đến trọ tại chợ Hoàng Mai, vẫn chưa thấy quan văn thư tới. Sáng hôm sau tôi cùng bản doanh khởi hành. Sau giờ ngọ[23] thì ông ta đến, nói rằng: “Tôi sợ số lính đi chẳng đầy đủ. Bản trấn tuy vâng mệnh, đã truyền lấy lính ở các huyện thành, số người vẫn chưa đủ lệ, tôi rất muốn có thêm người nữa để giúp vào việc khuân vác mà đi cho được trang trọng”. Tôi đáp rằng: “Những gói bọc lương tiền cũng nhẹ, hà tất phải để tâm nghĩ ngợi”. Sáng ngày 23 chúng tôi đi về cầu Kim Lan Mạn, tất cả đều đi xuống cái đền thờ ở bờ biển, đứng xa xa mà bái vọng.

Viên quan nọ bảo tôi rằng: “Vị thần này ở Nghệ An linh thiêng vào bậc nhất, tôi từ xa đến chưa tường sự tích”. Tôi đáp: “Năm xưa tôi từng qua chốn này, có hỏi cố lão, lời truyền tụng quả đà sai lạc. Xét sử nhà Tống, người nước Kim dùng chiến thuyền đánh phá. Quân thua, Trương Thế Kiệt[24] mang Bính Đế chạy ra biển gặp sóng gió, vua tôi đều bị chết đuối. Hoàng hậu cùng hai con bám được vào đồ vật mà nổi trên mặt nước, trôi dạt vào bờ, nơi có thôn xóm. Người trong làng trông thấy, liều mình cứu thoát. Sau người ấy có tư tâm, Hoàng hậu nghiêm nghị cự tuyệt.

Người ấy xấu hổ nhảy xuống nước mà chết. Hoàng hậu than rằng: “Ta nhờ người này mà sống, người này vì ta mà chết. Có lẽ nào ta tham sống lấy một mình”.Rôi bà đâm đầu xuống biển mà tự ải. Hai người con gái quá bi thương cũng nhảy theo xuống biển. Sau này bà hiển linh, người miền duyên hải tôn làm thần mà thờ phụng, đến nay hương khói vẫn còn.

Tôi nhân ngâm một đối liên: 

Cơ đồ nhà Tống nghìn thu hận

Vũ trụ trời Nam tứ quý xuân

Đại Tống cơ đồ thiên cổ hận

Nam thiên vũ trụ tứ thời xuân.

Ngâm xong, mọi người cứ phải đi quanh co mãi, rồi đến khe Lãnh Thủy[25] (nơi đây là phân giới Thanh Hóa và Nghệ An) thì thấy một nhóm người đứng bên đường, hướng về tôi mà vái chào. Đó là mấy người ở ấp gần đó, từ kinh đô trở về. Tôi cũng dừng cáng đáp lễ. Một lát sau họ mới ra đi. Khi này tình quê nỗi khách dào dạt, tôi ứng khẩu đọc một bài thơ để tả tâm trạng: 

Hoan Ái[26] phân cương địa

Quần sơn hỗ tống nghênh[27]

Tiều ca vãn lộ xuất

Điễu ngữ cốc phong sinh

Phục thạch đương đồ lập

Dao thiên đoạn bích hoành

Hành nhân thuyết hương tứ

Duy ngã thượng thần kinh.

Hoan Ái chia đôi vực

Nghênh tống núi bên đường

Tiều hát trong mây ngút

Chim ca đáy cốc vang

Trời xanh màu loé rạng

Lối nghẽn đá nằm ngang

Ai kể tình nhà đó?

Về kinh trải dặm trường.

Ngày hôm ấy khí xuân ấm áp, đường đi thảnh thơi, chiều đến chợ Thổ Sơn đỗ lại ngủ trọ; trong chợ có đồn binh (trấn Thanh Hóa có một cánh quân tuần phòng ở đây) binh khí khá nhiều. Họ ngăn bọn tôi lại mà xét hỏi.Đến khi biết là phụng mạng mà đi thì họ xúm lại xin lỗi rồi lui ra. Ngày hai mươi bốn lên đường thật sớm. Mây đen khắp trời, suơng khói che đất;gió rét căm căm, mặc áo ấm dầy cũng thấm lạnh. Đi mấy giờ nữa thì đến bờ biển Hào Môn, trông ra chỉ thấy vạn khoảnh nước sóng mênh mông không bờ bến. Nhớ xưa Tần Hoàng, Vũ Đế hao tổn tâm tư về chuyện “Tiên thạch vân nang[28]”, rốt cuộc nửa bóng Bồng Lai cũng chẳng được trông thấy. Điều đó chẳng là lầm lạc lắm ru? Người xưa rõ ràng đã lo lắng cho rằng kẻ làm quan lặn lội trong bể hoạn, phải gánh chịu cái nguy cơ nổi chìm. Mắt trông ra xa chỉ thấy khói sóng mịt mù, miệng ứng đọc một bài thơ như sau:

  Hải ngạn kinh hành khách

Thương mang vạn lý thu

Ba đào chấn ngao cực

Vân vụ khởi thiên thu

Dục nhặt thiên trùng lãng

Tùy phong nhất diệp chu

Cổ nhân ta hoạn hải

Thâm ý tại trầm phù.

Trông biển lòng ai sợ

Khí thu tỏa khắp miền

Ba đào xua cá vực

Vân vụ mấy tầng thiên

Trời tắm ngàn trùng sóng

Gió đưa một lá thuyền

Hoạn đồ người thuở trước

Thăng giáng ý lo phiền.

Hôm ấy quan văn thư sai trấn binh chọn lấy ba chiếc thuyền mành để qua cửa Cự Nham (tên xã) là chỗ cửa biển, rồi lên bờ đến chợ Hàng Cơm mà tạm trú. Ngày 25 noi đường thượng đạo mà đi (đường hạ đạo qua Thần Phù[29]), qua vài nơi có tôn lăng đều rời cáng đi bộ. Chiều tìm đến chợ trú ngụ. Ngày 26 dậy đi sớm, sau giờ ngọ đò qua bến Đài Sước[30], đến chợ huyện nghỉ ngơi ăn cơm trưa. Bỗng thấy một người khăn áo thầy tu, tay chống gậy trúc đang đi tới, phiêu nhiên có dáng xuất trần.

Tôi lấy làm lạ hỏi người chủ quán, y đáp rằng: “Ông ấy vốn là sư trụ trì tại sơn tự, tinh thông nghề bói toán”. Tôi sai duợc đồng mời sư đến nhà, phân ngôi chủ khách. Tôi nói: “Được biết ông am tường về Dịch lý, muốn hỏi một quẻ về tiền trình được chăng?”. Nhà sư không chối từ, đáp ngay rằng: “Quan nhân năm nay bao nhiêu tuổi, muốn hỏi việc gì, nên thành tâm cầu xin, tự nhiên sẽ có linh nghiệm”. Tôi liền nhất nhất nói rõ. Nhà sư suy nghĩ giây lát, rồi nói to lên rằng: “Đẹp thay! Tốt Thượng  thay! Đúng là có việc phi thường rồi!”. Tôi nói: “Người quân tử hỏi về điều dữ, chẳng hỏi chi về điều lành. Xin tiên sinh đừng có giấu giếm gì cả”.

Nhà sư đáp: “Tôi bói được quẻ Nguyên thủ[31], đó là cái tượng vua sáng tôi hiền, Chu tước[32] ngậm thư rất vượng, Thanh long[33] ở giữa, Bạch hổ ở cuối, Quả nhân[34] gặp bản mệnh, Dịch mã[35] ứng với hành niên, quả là ứng vào việc trưng triệu, ba lần truyền đều có nhật can thời chi Lục hợp[36]. Cá nước vui duyên, giao long gặp mưa. Đó là cái triệu toàn cát toàn mỹ.

Tuy nhiên cái điều phải lo ngại là Bạch hổ nhập tù, đến Kinh sẽ mắc bệnh”. Tôi nghe nói thầm nghĩ rằng: Người này học thuật tinh vi, hình mạo nham cổ, ắt có cái hiểu biết hơn người, chỉ tiếc là khi gặp được thì đã muộn, làm sao tìm biết được hết cái văn kiến súc tích của người ta. Tôi đem đầu đuôi việc mình nói thật cả ra, lại bảo rằng: “Tôi ở nơi cùng sơn tuyệt lĩnh, mây đầu non trăng mặt biển, một thú u nhàn mến tiếc chẳng rời, không biết khi nào mới được quay trở vềđánh bạn cùng lũ hươu nai, chuyện trò mỗi chiều tà với bọn ngư tiều”.

Nhà sư nghe nói vậy thì than thở mãi mà rằng: “Đồ cao lương làm cho phủ tạng con người ta phải đam mê; sao những kẻ khác đều mê cả mà riêng ngài lại tỉnh sao? Duy quẻ này ứng vào việc chủ khách cát vượng, trên dưới sinh hợp, nên ngày trở về của quan nhân chưa thể biết được”. Tôi nghe nói than dài mấy tiếng, sai dược đồng mang lại một món tiền lớn để hậu tạ. Nhà sư nhất mực từ chối mà rằng: “Trong chuyến đi này của quan nhân, bần đạo chỉ nguyện được uống mấy chén kinh tửu[37] là đủ rồi”. Tôi sai kẻ tùy tùng đến quán rưọu mua một chén thật ngon. Ông ta vui vẻ hai tay đón nhận, chẳng hỏi đồ nhắm, đổ rượu đầy một bát, há mồm như rồng hút sóng, nuốt một hơi hết sạch, nhổ một bãi nưóc bọt dưới chỗ ngồi, khen ngon, đoạn chắp tay vái chào mà từ biệt.

————————

[1] U trai: nhà ở sạch sẽ và tĩnh mịch để học hay để tu luyện.

[2] Tương phi: Nga Hoàng và Nữ Anh là hai bà phi của vua Ngu Thuấn. Sau khi vua Thuấn băng, hai bà ở đất Thương Ngô, rồi đến sông Tương, khóc lóc thảm thiết, gieo mình chết.

[3] Hương Sơn: tên huyện thuộc tỉnh Nghệ An ở phía nam sông Cả, tức là sông Lam Giang (nay thuộc tỉnh Hà Tĩnh).

[4] Nguyên văn: vương mệnh bất sĩ giá. Ý nói mệnh của Chúa phải thi hành cấp tốc như ngựa không kịp thắng yên.

[5] Quan Chính Đường: Chỉ Huy quận công Hoàng Đình Bảo, trước tên là Đăng Bảo, sau đổi là Tố Lý, lại đổi là Đình Bảo; người xã Phụng Công, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay; cháu của Hoàng Ngũ Phúc, đậu hương tiến, lại đậu tạo sĩ, lấy con gái chúa Trịnh Doanh. Năm 1777, làm trấn thủ Nghệ An; năm 1778, được Trịnh Sâm cho coi việc phủ chúa và lĩnh chức trấn thủ Sơn Nam. Sau khi Trịnh Sâm mất, giữ chức phụ chính, sau bị quân Tam Phủ nổi loạn giết chết (loạn Kiêu Binh).

[6] Đông cung thế tử: tức Trịnh Cán, con Trịnh Sâm và Đặng Thị Huệ.

[7] Lợi hại: điều lợi và điều hại. Nghĩa bóng: quan hệ, ghê gớm.

[8] Tam công: ba chức quan lớn trong triều đình, tức Thái sư, Thái phó và Thái bảo.

[9] Cơ công: chỉ Cơ Đán tức là Chu Công, chú vua Thành Vương nhà Chu, có công dẹp loạn miền đông nam, trở về cải định quan chế, sáng chê lễ pháp; sau lại đóng đô ở Lạc Ấp, gọi là Đông Đô.

[10] Hiên Kỳ: Hiên Viên hoàng đế và Kÿ Bá, hai người có công trong y học thời cổ.

[11] Đạo đồ: học trò theo học thuốc.

[12] Đồ thư: tranh và sách. – Gươm đàn: thanh gươm và cây đàn, đồ dùng của người học trò xưa.

[13] Vĩnh Dinh: một địa điễm ở vùng Vinh.

[14] Bặt thiệp : đi trên cỏ và lội trong nước, có nghĩa lặn lội khó nhọc.

[15] Cấm Giang : sông ở vào hai huyện Hưng Nguyên và Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

[16] Thiết Cảng : có nghĩa cửa Sắt ở đông bắc huyện Hưng Nguyên và phía nam huyện Đông Thành, tỉnh Nghệ An.

[17] Dưỡng chân : nuôi dưỡng cái tính thành rất mực.

[18] Ba sinh : do chữ Hán tam sinh có nghĩa là ba lần sinh ra ở đời để trả cho hết duyên nợ (duyên nợ ba sinh).

[19] Đông Lũy : tên làng thuộc huyŒn Đông Thành, tỉnh Nghệ An.

[20] Vị khí : cái khí trong dạ dầy.

[21] Hoàng Mai : tên xã thuộc huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

[22] Long Sơn : tên núi ở làng Nhân Sơn, huyŒn Quÿnh Lưu, tỉnh Nghệ An.

[23] Giờ ngọ : khoảng thời gian từ 12 giờ đến hết 14 giờ ngày nay.

[24] Theo Trung Quốc Sử Lược của Phan Khoang thì vua cuối cùng nhà Tống dời ra ở đảo Nhai Sơn (Quảng Đông), có đại tướng Trương Thế Kiệt, tể tướng Lục Tú Phu phò trợ. Quân Nguyên đánh Nhai Sơn, Tú Phu cõng vua nhảy xuống bể tự tử (1279). Thế Kiệt đi đường thủy qua Việt Nam mưu sự khôi phục, đi đường gặp bão, thuyền chìm mà chết.

[25] Khe Lãnh Thủy, ở huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, về phía bắc. Khe từ trong núi chảy ra, nước lạnh ghê người, nên gọi là thế

[26] Hoan Ái : Nghệ An và Thanh Hóa.

[27] Hộ tống nghênh : thay đổi nhau mà tiễn đưa và nghênh đón (nói về hình trạng núi non).

[28] Tiên thạch vân nang : sự tích Tần Thủy Hoàng muốn xây một cái cầu bằng đá ngoài biển để tiện đường đi về phương đông. Một đạo gia học được phép đưa đá ra biển, lấy roi đánh vào những hòn đá, đá cũng phọt máu, rồi dùng bao bỏ đá mà quẩy đi.

[29] Thần Phù : tên cửa biển cũ ở chỗ giáp giới tỉnh Ninh Bình và tỉnh Thanh Hóa (địa hạt huyện Yên Mô và huyện Nga Sơn). Cuối đời Lê, cửa ấy bị ậát bồi lấp hết. Nay ờ huyện Yên Mô có một cái tổng tên là Thần Phù.

[30] Đài Sước : tên đèo. Nghĩa đen, đèo kinh hoàng.

[31] Nguyên thủ : vua một nước. Ngày nay bất luận quân chủ, dân chủ, người nào làm thủ lãnh toàn quốc được gọi là nguyên thủ.

[32] Chu tước, Bạch hổ : hai trong sáu vị thần thuộc Hắc đạo trong tháng. Ở phương nào và ngày nào những vị thần ấy xuất hiện, người ta kiêng việc làm đất cát, nhà cửa, dời chỗ ở, đi xa, làm giá thú, xuất quân.

[33] Thanh long : một trong sáu vị thần thuộc Hoàng đạo. Sáu vị thần ấy là Thanh long, Minh đường, Kim quỹ, Thiên đức, Ngọc đường, Tư mệnh. Ngày nào trong tháng gặp vị thần ấy thì nên làm mọi việc, tránh được các điều hung ác.

[34] Quý nhân tức là Thiên ất Quý nhân, chia ra Dương quý và Âm quý; thần này có được sự hòa bình của âm dương phối hợp, nên khiến người gặp những điều tốt đẹp.

[35] Dịch mã : vị thần ảnh hưởng thích hợp cho việc phong tặng quan tước, đi xa, dời chổ ở, v..v..

[36] Lục hợp : tên thần lúc nhật nguyệt nhập hội (nhật nguyệt hợp tú chi thời). Ngày có Lục hợp nên hội tân khách, kết hôn nhân, lập khế khoán, hợp giao dịch.

[37] Kinh tửu : rượu do người Kinh chế tạo.

Đến Kinh Thành

Tôi bước xuống đò mà đi. Đêm nay đến một cái điếm, trú tại đó. Quan văn thư đến tận điếm mà bảo tôi rằng: “Chuyến đi này can hệ dến việc công khẩn yếu. Bọn ta đi một ngày chẳng vượt quá năm mươi dặm[38] đường. Trước kia được lệnh ngày mùng mười thì đến Vĩnh Dinh, nay sắp hết nửa tháng rồi mà đường dài còn phải đi sáu, bảy ngày nữa. Nếu việc phải tấu trình thì sự đẳng đãi này thực đáng sợ, mong lão sư đị nh đoạt, chọn những kẻ khoẻ mạnh cho đi theo, cứ ban ngày thì đi, đêm khuya mới dừng để nghỉ, gấp đường mà tiến, bọn yếu đuối thì cho ở lại sau.”

Tôi cười mà đáp rằng: “Quý huynh bất tất phải quá lo! Tuy có chỉ truyền ngày mồng mười thì đến nhà tôi, nhưng tôi bận chữa bệnh phương xa, đi tìm về đã mất mấy ngày, vả trong lúc đi đường còn gặp gió mưa cản trở. Như vậy tưởng rằng ngày nay dẫu mọc lông mọc cánh vị tất sẽ đến nơi đúng kỳ hạn được”. Ông ta vừa cười vừa nói: “Cái thế tất phải như vậy”. Trò chuyện uống trà xong, ai nấy về nhà trọ. Ngày 27 gà gáy đã vội khởi hành. Bên đường đi núi non đứng sững, bao bọc lấy nhau, khói mây mịt mù che khắp mặt đất. Hươu nai nghe bước chân đi thì vội chạy tán loạn; chim chóc nghe tiếng người nói bay vút lên đầu non (hiệu Ba Dội[39]).

Ánh hồng ban mai mới dâng cao, màn sương đêm giá tan chừng nửa. Bọn hành nhân áo quần ướt át phải dừng bước nghỉ ngơi trên núi, trong một cái quán bỏ không. Chúng đốt lửa, hơ áo, ngồi sưởi cho ấm. Tôi sai người lau sạch cái thạch bàn, tựa lưng vào một cành cổ thụ bên thạch bàn ấy. Dược đồng pha trà, sửa soạn bữa ăn sáng. Tôi cho mời quan văn thư đến, cùng nhau uống rượu. Trèo lên cao mà trông ra xa, mới cảm thấy cái thú vị man mác là dường nào. Tôi đọc mấy câu thơ của cổ nhân để giải phiền trong lòng, bất giác thốt lên rằng:

Tần Lĩnh mây nhà che khuất bóng

Lam quan tuyết phủ ngựa chồn chân

Vân hoành Tần lĩnh gia hà tại?

Tuyết ủng Lam quan mã bất tiền

Ngâm xong dường như quá bị xúc cảm, tôi thẫn thờ chẳng nói năng gì. Quan văn thư thấy tôi buồn bã hiện ra sắc mặt thì cười mà rằng: “Trăm khóm hoa cỏ, một khoảnh càn khôn, dường có cái phong vị của Hương Sơn. Lão sư xúc cảnh sinh tình, có vẻ không vui”. Ông ta lại tiếp: “Lão sư lầm rồi! Kẻ sĩ quân tử có hai đường: xuất và xử. Xử (đi ở ẩn) thì giữ đạo làm vui; xuất (ra làm quan) thì đem dùng đạo giúp đời. Lão sư che giấu tung tích chốn núi sâu, một sớm cửu trùng biết tên, đại thần trọng đãi, thực là cuộc gặp gỡ lạ kỳ, ngàn năm mới có, cớ gì lại thế!”.

Tôi cười, đáp rằng: “Quan lớn khen quá lời, khiến người phải hổ thẹn. Người xưa tài cao học rộng uẩn súc kinh luân[40], xử thì trau giồi vẻ quý, cất giấu đức sáng, xuất thì phò vua giúp nước. Còn như tôi học hành thô kém, tài hèn trí thiển, đối với đời thật là vô dụng; học được cái nghề mọn tùy thân đã là may mắn rồi, tưởng đâu một sớm đến được thế này, khác chi áo mặc không xứng đức[41], sao gọi là điều hạnh được!”. Quan văn hư nói rằng: “Tôi từng được nghe quan tôi trong những lúc nhàn đàm, ý giả lão sư muốn cao ẩn[42] mà mượn cái danh là làm thuốc đó thôi”.

Tôi cười mà rằng: “Há lại có cái lý ấy sao?”. Quan văn thư lại tiếp: “Chí lão sư như vàng đá[43], tôi chẳng dám dài lời, được biết lão s ư ngâm vịnh rất nhiều, nguyện được nghe lời vàng, rồi tôi cũng xin nối điêu[44] để dâng cười mà giải muộn được chăng?”. Tôi mừng rỡ mà rằng: “Kẻ ôm đàn khổ tâm vì không bạn tri âm. Câu cao sơn lưu thủy hẳn ông đã biết rồi vậy”. Tôi gọi tiểu đồng mang bút mực lại. Tôi đọc trước một bài như sau: 

Nhất bách lục phong lam vụ mê 

Nhân tòng tam cấp thượng vân thê

Yên hoàn trầm lục hoành thiên bắc

Loa kế phù thanh phó hải tê

Chử mính sương hoa khuynh phấn hãn

Ngâm thi u điểu hướng nhân đề

Mỗi phùng thắng cảnh vi thi lụy

Khiến quyển thời dư thủy quá khê

Tam cấp leo trèo đá với mây

Núi trăm lẻ sáu khí suơng đầy

Khói ngàn trầm lục dăng trời bắc

Đá núi phù thanh khuất bể tây

Nấu nước sương hoa lìa phấn rã

Nghe thơ chim núi hót ai hay

Chẳng qua ngâm vịnh vì yêu cảnh

Bịn rịn giờ lâu suối lội chầy.

Đề xong đưa bài thơ cho ông ta coi để họa vần. Ông xem đi xem lại đến bốn lần, rồi nói rằng: “Thơ của lão sư giống như những bài Bạch Tuyết Dương Xuân[45] khó mà họa được, xin để tôi bòn nhặt trong khúc ruột khô trong mấy đêm nữa rồi mới dám bày cái xấu của mình ra”. Rồi cùng dắt tay nhau xuống núi mà đi. Ngày hôm ấy, chiều tối thì đến chợ Vân Sàng[46] trọ lại. Ngày 28 đến Khương Kiều đỗ lại. Ngày 30 trọ tại Thịnh Liệt Kiều[47]. Quan văn thư bàn với tôi rằng: “Trong tờkhải có nói ngày mấy thì tiếp chỉ truyền, ngày mấy khởi trình, ngà y mấy thì tới nơi, xin xem qua thể thức trong tờ khải để tiện đệ bẩm”, rồi đư a tờ khải cho tôi coi, lại cười mà nói rằng: “Nhất nhất đều y theo sự định đoạt của lão sư ở dọc đường; tuy nhiên, vào chiều ngày hôm sau, mọi người nên đến dinh quan Chính Đường xem có công việc gì không?”.

Ước định xong xuôi, ai nấy về đi nghỉ. Sáng ngày hôm sau quan văn thư noi đường bên tả, đi đường tắt thôn Nhân Mục[48] đón đường Hoàng Mai[49], theo Cầu Triền[50] mà tiến vào thành. Lúc ấy có tên Thuần là học trò đi theo nói với tôi rằng: “Năm trước tôi có người bạn tâm giao, con một người Tàu, y tên là Sự, cư ngụ tại quê mẹ là Lai Trào Ngung tức là Hiến Nam Cung; nay y dời cư đến cửa tây Khương Đình làm nghề thày thuốc. Tôi thấy y chân thành hiếu hữu, có cho y một bộ Tâm Lĩnh của thầy. Từ ngày đó y ngày đêm học tập, tay chẳng rời sách, học thuật ngày tiến bộ, trong kinh thành nhiều người biết tiếng, Y thường than rằng: Vạn dặm xa xôi, chẳng thể đến chổ cung tường[51], chỉ chiêm ngưỡng mà thôi, muốn đến Hương Sơn bái yết, nhưng vì còn mẹ già, chẳng thể bỏ đi xa. Y có thiết lập một sở tự[52] để thờ sinh vị[53] thày, sớm tối đèn nhang để báo đức. Ngờ đâu trời cũng chìu người, cho y được thân đón bái tiếp. Vả lại từ nhà y vào thành chỉ hơn vài dặm; đường đi vào thành so với đường Cầu Triền dài ngắn bằng nhau, tôi muốn đi trước báo cho y hay, chẳng biết có được không?”.

Tôi thấy con người có nghĩa nên cũng ưng thuận. Tên Thuần được lịnh bèn đi trước. Tôi noi đường bên tả mà đi, vượt hơn vài dặm đã thấy y ra đón ở bên đường cái quan. Y thấy tôi thì lấy làm mừng rỡ, mời vào nhà bái tạ, kể lể cái tình khao khát bấy lâu. Y mời lưu lại ngủ một tối, khoản đãi rất hậu. Tôi nói rằng: “Hà tất phải như thế! Tôi cùng quan vệ tống (tức quan văn thư) đã ước hẹn ngày hôm nay thì cùng gặp nhau ở dinh quan Chính Đường; việc này thật khẩn cấp. Trong lúc đi đường đã bị gió mưa cản trở, nay mới tới được đây, không thể chậm trễ được. Có điều tôi quen ở trong núi, nên đường đi lối lại trong đô thành đều quên mất cả, ông nên vì tôi đi trước đưa đường”.

Uống trà xong, đứng dậy, tên Sự dẫn đạo, cùng đi theo cửa Vũ Quan,nhắm cửa thành mà vào. Tôi thấy một cái thổ thành không cao lắm, kế bên có một dãy tường nhỏ, trên mặt tuờng ngựa đi được; phía ngoài là hàng rào tre dày đặc, dưới hàng rào có hào sâu, trong hào thả chông, thật là mười phần kiên cố. Ba tầng vọng canh được thiết lập nơi đây, tầng nào cũng có quân lính đứng thành hàng hai bên, đao thương xán lạn, hào quang như tuyết. Lính giữ cửa thấy bọn tôi đi có mang binh khí, xét hỏi thật nghiêm ngặt, đến khi biết rõ đầu mối, lại nhận thấy dấu hiệu áo lính trấn đất Nghệ An, mới để cho đi. Chúng tôi tạm nghỉ ngơi. Nguyên tại đất này thuở nhỏ tôi tùng du học và trú ngụ. Tôi mới chống gậy, thủ bộ tứ phía, du ngoạn nơi đất cũ. Tuy hồ sơn vẫn như trước mà Phật điện, đình đài, quan xá, quân cư nhất nhất không còn hình dạng thuở xưa. Người qua kẻ lại như nêm, ngựa xe rộn ràng, khiến lòng cảm khái, nhân làm một bài thơ giãi lòng: 

Lạc phách giang hồ tam thập niên 

Ngẫu tùy đan phượng nhập Trường Yên

Y quan văn vật sinh trung thổ

Lâu quán đình đài tiếp viễn thiên

Thô xuất nhiễm thành sơn dã tính

Xu bôi tu đối ngọc đường tiên

Thiếu thời lịch lịch hi du xứ

Kim nhật trùng lai bán bất nhiên!

Phiêu bạt giang hồ mấy chục niên

Chiếu vời một sớm đến Trường Yên[54]

Lâu đài đình quán bên trời ngất

Văn vật y quan giữa cõi truyền

Sơn dã buông tuồng quen tính tục

Ngọc đường[55] lui tới thẹn cung tiên

Đất này thuở nhỏ từng du hí

Khác lạ ngày nay đã hiễn nhiên!

——————-

[38] Dặm: một đoạn đường dài 135 trượng = 540 m (là hơn nửa cây số ngày nay). [39] Ba Dội: vùng núi giáp giới tỉnh Thanh Hóa và tỉnh Ninh Bình, cũng gọi là núi Tam Điệp. [40] Uẩn súc kinh luân: chứa đựng tài trị dân giúp nước (kinh luân là sợi d†c và sợi xe, nghĩa bóng nói về tài chính trị).

[41] Có câu y phục xứng kỳ đức, nói cách ăn mặc tương xứng với cái đức của mình.

[42] Cao ẩn: giấu mình nơi hẻo lánh mà không dự vào việc đời.

[43] Vàng và đá: Nghĩa bóng nói lời nguyện ước gắn bó với nhau vững bền như vàng và đá. Ý đây nói chí của Lãn Ông không thay đổi.

[44] Nối điêu: do câu tục ngữ “Điêu bất túc, cẩu vĩ túc”, có nghĩa là đuôi con điêu thiếu, lấy đuôi con chó thế vào. Nghĩa bóng: lời nói khiêm, lấy cái không hay của mình mà tiếp vào cái hay của người.

[45] Dương Xuân Bạch Tuyết: khúc ca thời cổ. [46] Vân Sàng: thuộc tỉnh lỵ tỉnh Ninh Bình ngày nay.

[47] Thịnh Liệt: tên làng thuộc ngoại ô Hà Nội ngày nay.

[48] Nhân Mục: thường gọi làng Mọc, thuộc huyện Thanh Trì, Hà Đông.

[49] Hoàng Mai: tên làng, nay là ngoại ô Hà Nội.

[50] Cầu Triền: thường gọi Ô Cầu Dền.

[51] Cung tường: nhà bốn bên có tường, chổ ở và miếu thờ đều ở trong, tường về phía Nam có cửa để thông xuất nhập. Sau người ta dùng hai chữ ấy để gọi sư môn (cửa nhà thầy dạy).

[52] Sở tự: nơi thờ phụng.

[53] Sinh vị: bài vị thờ người sống.

[54] Trường Yên: kinh đô nhà Tây Hán, nay là tỉnh Thiểm Tây, tác giả mượn để chỉ kinh đô nhà vua.

[55] Ngọc đường: đền nhà vua, chổ các quan văn học lui tới làm việc.Thượng Kinh Ký Sự Hải Thượng Lãn Ông

Chẩn Bệnh Thế Tử

Ngâm xong tôi lên cáng mà đi, tử cửa cung Khánh Thụy qua đình Quảng Minh, rồi qua cửa Đại Hưng, theo đường phía hữu đi hơn nửa dặm nữa thì đến dinh quan Chính Đường. Cửa dinh cao lớn, voi đi lọt, hai bên có dựng điếm túc trực[56] bày đồ nhung trang mười phần nghiêm chỉnh; quân lính canh ngày đêm, tra xét bọn người tạp nhạp. Tôi vào trọ trong phạn điếm. Bọn tòng nhân đi sắm sẵn áo mũ để tôi vào sảnh đường. Bấy giờ chuông lầu đã điểm canh tư. Trên sảnh bài thiết nghi trượng sáng bóng, chói cả mắt. Trước sân bọn lính đi lại như chợ. Tôi đứng đợi giờ lâu mới hỏi viên dịch trưởng trực nhật. Y nói: “Có phải lão sư là thày thuốc ở Hương Sơn tên là Lãn Ông chăng?”. Tôi đáp: “Chính phải đó! Nhưng sao quan nhân biết tôi?”. Người ấy nói: “Thời thường từng thấy thượng quan đàm đạo, lại nghe có Thánh chỉ tuyên triệu, nên mới biết việc đó; lão sư nên đợi một lát, Thượng quan vào chầu qua đây, đón xe mà yết kiến, thật thuận tiện”. Tôi theo lời ngồi đợi một lúc, quả thấy Thượng quan đi ra.

Mọi người đều tránh né, im hơi. Trong sân có đặt một cỗ kiệu. Trước và sau kiệu, những người mang nghi trượng phân ban ra mà đứng chỉnh tề. Tôi rảo bước tới trước sân bái kiến. Vị thượng quan truyền cho chước miễn, lại kêu đến trước mặt, cười mà rằng: “Ngày nào thì khởi hành? Ngày nào thì đến kinh?”.

Tôi thưa lại đầy đủ. Thượng quan quay lại, nói sẽ mấy câu với một vị quan nhỏ còn trẻ tuổi, rồi bước lên xe vào triều.  Tôi còn chưa hiểu ra sao thì viên quan này đến mời tôi về tư thất. Bấy giờ tôi mới biết thanh niên ấy là trưởng tử của thượng quan, tuổi ước trên dưới hai mươi, tướng mạo đẹp như ngọc. Vị này mời tôi ngồi cùng chiếu, tôi cố từ hai ba lần, vẫn cứ không nghe, một mực khiêm tốn, kế đó chia ngôi chủ khách mà ngồi. Quận hầu mở đầu rằng:

“Nghe lão sư bão học hoài tài, nhởn nhơ nơi núi hang, cây đàn chén rượu làm vui, lại có lòng cứu giúp người, từng thấy cha tôi nhiều lần khen rằng hiện nay về nghề thuốc không ai ở trên lão sư. Tôi một lòng ngưỡng mộ đã lâu, may thay một sớm được thừa nhan, thật là tam sinh hữu hạnh”. Tôi cảm ơn, nói rằng: “Tôi là kẻ sơ cuồng[57] chốn sơn lâm, dám đâu sánh với đời. Quận hầu[58] ban cho tiếng khen ấy làm tôi sợ hãi vô cùng”. Quậ n hầu sai người đến dinh quan Trung Kiên truyền lính gác nhà quét sạch sân và nhà, kê giường trải chiếu, hẹn giây lát hồi báo. Người này đi chẳng bao lâu trở lại thưa rằng các việc đã xong xuôi cả.

Quận hầu nói rằng: “Dinh này huyên náo không tiện, nhà chú tôi có một nơi tuy chẳng rộng rãi nhưng mát mẻ đáng yêu. Hiện nay chú tôi có công vụ phải qua trấn Sơn Tây cho nên mới để không cái dinh ấy, mời lão sư đến đó nghỉ ngơi”. Nói đoạn, đứng dậy dắt tôi đi qua nội sảnh ước độ vài mươi bước, theo cửa nhỏ mà vào, thì thấy ngoại sảnh, trung đường, phòng ngủ, nhà bếp đều có ngăn nắp. Quận hầu vào trung đường cùng tôi ngồi nói chuyện.

Lúc đầu tôi tưởng đây cũng là công tử vương tôn sinh trưởng nơi phú quý, quen tập nhiễm thói phồn hoa; sau mới biết ông là người học vấn uyên bác, hiểu rõ những điều phải trái xưa và nay, phàm nhân tình thế vị đều đã nếm đủ, hơn nữa có tính khiêm tốn, tuyệt nhiên dung mạo không chút chi kiêu hãnh. Tôi thấy vậy lại càng kính phục. Trời gần tối ông mới cùng tôi cáo biệt. Tôi sai bọn theo hầu thu dọn hành trang để đi yên nghỉ. Còn bọn trấn binh đi hộ tống thì cho trở lại trấn cũ, khỏi nói đến nữa. Tháng hai ngày mồng một, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp.

Tôi sai người mời khách vào thì thấy một tên lính hầu thở hổn hển bước tới. Đó là kẻ dịch mục của quan Chính Đường. Y thưa với tôi rằng: “Có thánh chỉ tuyên triệu lão sư, quan truyền mệnh còn đợi ở trụ sở của quan lớn tôi. Tôi vâng mệnh chạy đến báo lão sư biết và đã lấy lính bản dinh đem cáng đến đón ngoài cửa rồi, mời lão sư vào chầu trong phủ ngay”. Áo mũ chỉnh tề, tôi bước lên cáng đến cửa phủ. Lúc ấy dịch mục đi trước hét đường, còn cáng thì đi vùn vụt như thể ngựa chạy.

Tôi bị một phen đưa đẩy, sốc sác lấy làm mệt nhọc. Khi đến cửa phủ thì được người dẫn đi qua hai lần cửa nữa rồi rẽ theo đường bên trái mà tiến bước. Tôi ngẩng đầu lên coi thì bốn phương tám mặt, nơi nào cũ

0