Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Văn mẫu lớp 10
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Văn mẫu lớp 10 Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Bài số 1 Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rú' quân về nước. ...
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Văn mẫu lớp 10
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Bài số 1
Sau khi quân ta đại thắng, tiêu diệt và làm tan rã mười lăm vạn viện binh của giặc Minh, tướng giặc vương Thông buộc phải giảng hoà, chấp nhận rú' quân về nước. Cuộc kháng chiến thần thánh của nhân dân ta đã hoàn toàn thắng lợi, chấm dứt hai mươi năm thảm khốc dưới ách đô hộ của giặc Minh, mở ra kỉ nguyên hoà bình lâu dài cho dân tộc. Nguyễn Trãi thừa lệnh chủ soái Lê Lợi viết Đại cáo bình Ngô. Đây là một bản tổng kết về cuộc khảng chiến vĩ đại để báo cáo rộng rãi cho toàn dân được biết. Đại cáo bình Ngô được coi là “bản tuyên ngôn độc lập thứ hai" sau Thơ Thần của Lí Thường Kiệt, xứng đảng là áng “thiên cổ hùng văn” trong lịch sử văn chương nước ta.
Với nghệ thuật chinh luận chặt chẽ và cảm hứng trữ tinh sâu sắc, tác giả đã tố cáo tội ác tày trời của kẻ thù xâm lược, đổng thời ca ngợi sức mạnh thần kì của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Toàn bộ nội dung Dại cáo bình Ngô được triển khai trên cơ sở tư tưởng nhân nghĩa và chân lí vế chủ quyền độc lập của nước Đại Việt.
Bố cục của bài cáo gồm 5 đoạn:
Đoạn 1: Từ đầu… đến chứng cớ còn ghi: Khẳng định tư tưởng nhân nghĩa và chân lí vể chủ quyển độc lập của quốc gia Đại Việt. (Nhân nghĩa gắn liền với yêu nước chống xâm lược).
Đoạn 2: Từ Vừa rồi… đến Ai bảo thần nhân chịu được: Tô' cáo và kết án tội ác tày trời của giặc Minh.
Đoạn 3: Từ Ta đây… đến lấy ít địch nhiều: Hình ảnh vị lãnh tụ nghĩa quản Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp.
Đoạn 4: Từ Trọn hay… đến xưa nay: Quá trinh mười năm kháng chiến gian khổ và thắng lợi vẻ vang.
Đoạn 5: Phần còn lại: Khẳng định ý nghĩa to lớn của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn và lời tuyên bố hoà binh.
Có một chi tiết xưa nay ít ai để ý nhưng thật ra nó rất có ý nghĩa, đó là tại sao Nguyễn Trãi lại gọi quân xâm lược nhà Minh là giặc Ngô và viết Đại cáo bình Ngô ? Từ Ngô xuất hiện từ khi nhà Ngô đời Tam Quốc xâm chiếm và cai trị nước ta hết sức tàn ác. Sau đó, từ Ngô nhập vào vốn ngôn ngữ dân gian của Đại Việt và trải qua hàng nghìn năm, nó được dùng để chỉ quân giặc phương Bắc nói chung với thái độ khinh bỉ. Như vậy là Nguyễn Trãi dã cố ý dùng cách gọi mà nhân dân quen gọi để bày tỏ thái độ căm phần và coi thưởng của mình.
Đoạn 1: Đạo lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi.
Nguyễn Trãi mỏ đầu bài cáo bằng đạo lí nhân nghĩa được xây dựng trên nén tảng là tư tưởng thân dân mà ông rất coi trọng:
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân diếu phạt trước lo trừ bạo.
Nhân nghĩa là mối quan hệ giữa con người với con người được xây dựng bằng tình thương yêu và đạo lí. Điếu đáng nói hơn nữa là Nguyễn Trãi đã đưa vào tư tưởng nhân nghĩa một nội dung mới rút ra từ thực tiễn của lịch sử dân tộc Theo ỏng, yên dân trước hết là phải trừ bạo để cho dân được sống yên lành, hạnh phúc trong một đất nước độc lập, hoà bình.
Trong bài văn này cũng như trong các tác phẩm khác của Nguyễn Trãi, không chỉ là dân đen, con đò chung chung mà đã cụ thể ra là manh, lệ (kè đi cày, người đi ở), là dân mọn nơi xóm làng, là nhân dân lao động ở khắp bốn phương đất nước. Giặc giày xéo đất nước đổng nghĩa với giày xéo nhân dân Lo nước tức lo dân, thương nước tức thương dân, cứu nước tức cứu dân. Nước và dân là một.
Nhân nghĩa không còn hạn hẹp trong phạm vi đạo đức mà đã là một lí tưởng xã hội, một đường lối chính trị lấy dân làm gốc (dân vi bản) làm chỗ dựa. Vi thế phải chăm lo cho dân chúng được no ấm, bình yên.
Tư tưởng nhản nghĩa gắn liền với sự nghiệp chống xâm lược. Nhân nghĩa là chống xâm lược, chống xâm lược là nhân nghĩa. Như vậy là Nguyễn Trãi đã bóc trần luận điệu nhân nghĩa xảo trá của địch và phân định rạch ròi ta là chinh nghĩa, giặc là phi nghĩa.
Dân tộc ta vùng lên chiến đấu chống xâm lược là phù hợp với đạo lí nhân nghĩa, cho nên sự tốn tại có chủ quyền độc lập của quốc gia Đại Việt cũng lả một chân lí khách quan.
Sau đó, Nguyễn Trãi viết tiếp bằng giọng văn hào hùng, thể hiện lòng tự hào, tự tôn về đất nước có một nền văn hiến lâu đời:
Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.
Núi sông bờ cõi đả chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác.
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập,
Cùng Hán, Dường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Đại Việt là một đất nước có cương vực, ranh giới rõ ràng (Tiệt nhiên định phận tại thiên thư – Thơ Thần), từ lâu đời đã song song tổn tại cùng các quốc gia phương Bắc. Phong tục tập quán cũng khác hẳn phương Bắc. Các triều đại vua Nam xưng đế, hùng cứ một phương, chứ không phải là chư hầu. Truyền thống văn hiến có tự ngàn năm củng với hào kiệt đời nào cũng có đã khẳng định Đại Việt là quốc gia cỏ phủ quyển độc lập, tự do.
So với bài Thơ Thần của Lí Thường Kiệt thì Đại cáo binh Ngô thực sự là một bước tiến dài của Nguyễn Trãi trong việc hoàn chỉnh khái niệm vể quốc gia và dân tộc. Lí Thưởng Kiệt với bài Thơ Thần cũng nhấn mạnh chù quyền dân tộc ở lãnh thổ riêng biệt, ở ý chí độc lập thể hiện trong việc xưng đế, trong sức mạnh đánh bại quân xâm lược để bảo vệ nền độc lập ấy. Nhưng Nguyễn Trãi dã nâng cao khái niệm đó lên rất nhiều. Các vua Nam cũng xưng đẻ'chẳng khác gì các đời vua của Trung Quốc: mỗi bên xưng đế một phương, hoàn toàn ngang hàng, bình đẳng. Nguyễn Trãi cũng nói đến bờ cõi riêng biệt, nhưng không viện đến quy định của trời mà nói đến truyền thống văn hiến, tức nói đến nển văn hoá của con người sống trên bờ cõi đó, có nghĩa là nói đến một dân tộc với đầy đủ tư cách độc lập. Như vậy, chủ quyển của quốc gia Đại Việt là một chân lí tất nhiên, không có bạo lực nào xâm phạm nổi- Tác giả đã chứng minh cho đạo lí nhân nghĩa bằng chính những chứng cứ còn 0/7/trong lịch- sử:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nôn thất bại,
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.
Của Hàm Tử bất sổng Toa Dô,
Sông Bạch Dàng giết tươi Ô Mã.
Việc xưa xem xét,
Chứng cớ còn ghi.
Sự thất bại thảm hại của Triệu Tiết, Toa Đô, ô Mã Nhi được tác giả đưa ra để nhấn mạnh ỷ: những thế lực phi nghĩa ắt phải tiêu vong, đổng thời khẳng định chiến thắng luôn đứng vể phía những người đấu tranh cho chính nghĩa. Cách lập luận của Nguyễn Trãi trong đoạn này thật hùng hổn và sắc sảo.
Đoạn 2: Tố cáo tội ác dã man của giặc Minh.
Chỉ bằng hai mươi bốn câu, với những chi tiết cụ thể và nhận định khái quát, tác giả đã vẽ ra thảm cảnh của dân tộc Đại Việt dưới ách đô hộ của giặc Minh. Cả đất nước chỗ nào thịt da cũng như rướm máu, chỗ nào cũng vang lên tiếng thét căm giận, oán than. Nguyễn Trãi đã viết nên một bản cáo trạng đanh thép kết tội bọn bán nước và quân cướp nước.
Trước hết, tác giả vạch trần âm mưu xâm lược, sau đó lên án chủ trương cai trị thâm độc và cuối cùng là tố cáo mạnh mẽ những hành động tội ác của giặc Minh:
Vừa rồi:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,
Để trong nước lòng dân oán giận.
Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,
Bọn gian tà bán nước cầu vinh.
Nguyễn Trãi vạch trẩn âm mưu cướp nước Đại Việt của giặc Minh đã có từ lầu, đổng thời vạch trần luận điệu bịp bợm "phù Trần diệt Hổ”, để “mượn gió bẻ măng” của chúng. Việc nhà Hổ cướp ngôi nhà Trần chỉ là một nguyên nhân, đúng hơn chỉ là một cái cớ để giặc Minh thừa cơ gây hoạ. Những từ như nhàn (nhân dịp), thừa cơ đã góp phần phơi bày luận điệu giả nhân giả nghĩa của chúng. Điều đáng lưu ý là khi vạch rõ âm mưu xâm lược của nhà Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường dân tộc, nhưng khi tô' cáo chủ trương cai trị thâm độc và tội ác của giặc thì Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân nghĩa:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.
Ông đã tố cáo tội ác của chúng bằng hai hình ảnh rất án tượng: nướng dân đen, vùi con đỏ, vừa diễn tả một cách rất cụ thể tội ác man rợ kiểu trung cổ của lũ giặc, vừa mang tính khái quát như khắc vào bia căm thù để muôn đời người dân nước Việt nguyền rủa quân xâm lược bạo tàn.
Ở Đại cáo bình Ngô, Nguyễn Trải không đi sâu vào việc lố cáo chủ trương đổng hoá thâm độc mà tố cáo những – chủ trương cai trị phản nhân đạo của giặc Minh. Chúng không chỉ vơ vét hết các sản vật quý báu mà còn bóc lột sức người, sức của bằng thuế má, phu phen, dâng nạp cống vật và huỷ hoại cả môi trường sống, tàn sát dân chúng vô tội không biết ghê tay. Người dân nước Nam sống trong tinh cảnh bi đát đến cùng cực. Cái chết đợi họ trôn rừng, dưới biển, đúng như lời bài cáo đã nêu:
Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,
Gãy binh kết oán trải hai mươi năm.
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,
Nặng thuế khoá sạch không dầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc,
ngán thay cá mập, thuổng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗirừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng,
Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Đối lập với thảm cảnh của người dân vô tội là hình ảnh kẻ thủ xâm lược hung hãn, man rợ: Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nồ chưa chán. Câu văn đã khắc hoạ bộ mặt quỷ sứ khát máu của quân xàm lược. Để diễn tả tội ác chất chổng của giặc và khối căm hờn sôi sục của nhân dân ta, Nguyễn Trãi đã kết thúc bản cáo trạng bằng hai câu văn mang ý nghĩa khái quát rất cao:
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.
Tác giả đã lấy cái vô hạn (trúc Nam Sơn) để so sánh với cái vô hạn (tội ác của giặc), dùng cái vô cùng {nước Đông Hải) để nói cái vô cùng (sự dơ bẩn của kẻ thù). Câu văn đầy hình tượng ấy đã giúp chúng ta cảm nhận sâu sắc tội ác của giặc Minh xâm lược. Dân tộc ta chỉ còn con 'đường duy nhất là đứng lên hành động:
Lẽ nào trời đất dung tha,
Ai bảo thẩn nhân chịu được?
Lời văn trong bản cáo trạng vừa hùng hổn, vừa thống thiết. Khi thì uất hận trào sôi, khi thì cảm thương da diết; lúc muốn thét thật to, lúc nghẹn ngào, cám tức. Tất cả cùng một lúc diễn tả những cung bậc khác nhau trong tâm tư tình cảm của Nguyễn Trãi. Đại cáo bình Ngô chứa đựng những nội dung thiết yếu của một bản "tuyên ngôn độc lập” bởi chính những nội dung đã phản tích ở trên.
Đoạn 3: Hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn và những khó khăn trong buổi đầu dấy nghiệp. Nguyễn Trãi đã phản ánh chân thực giai đoạn đẩu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn bằng bút pháp tự sự kết hợp Với trữ tình. Tác giả đã khắc hoạ thành công hình tượng Lê Lợi trong buổi đầu dấy nghiệp đầy gian khổ:
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa,
Chốn hoang dã nương mình.
Trong hình tượng Lê Lợi có sự thống nhất hài hoà giữa con người bình thường và thủ tĩnh nghĩa quân. Lô Lợi xứng đáng là linh hổn của cuộc khởi nghĩa bởi ông có khả năng tổ chức, tập hợp, đoàn kết mọi người, đổng thời có phẩm chất của một nhà quân sự, chính trị tài ba. Lê Lợi căm thù giặc sâu sắc và có quyết tâm cao độ để thực hiện lí tưởng đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước:
Ngẫm thù lớn hả đội trời chung,
Căm giặc nước thề không cùng sống.
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời;
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh;
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoản một nỗi đồ hổi.
Ngẫm thù lớn há đội trời chung, Căm giặc nước thể không cùng sống là thái độ và chí hướng của lãnh tụ. Đau lòng nhức óc, nếm mật nằm gai, quên ăn vì giận… là sự rèn luyện, thử thách đối với bản thân, từ trái tim đến khối óc. Không phải một sớm một chiều mà là suốt mười mấy năm trời. Bởi vì trong tâm trí lúc nào cũng canh cánh mối lo toan cứu nước, cứu dân cho nén Lê Lợi luôn ở trọng tâm trạng: Chỉ băn khoăn một nỗi đổ hổi. Qua hình tượng Lê Lợi. Nguyễn Trãi đã nói lên được tính chất nhân dân của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.
Lúc đầu, so sánh tương quan lực lượng giữa hai bên thì ta yêu hơn giặc rất nhiều:
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đương mạnh.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa vô cùng gian nan, thiếu thốn. Lê Lợi và nghĩa quân dã phải vượt qua muôn ngàn khó khăn, gian khổ: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu. Thiếu quân, thiếu lương nhưng nhờ tấm lòng cứu nước, nhờ tướng sĩ một lóng phụ tử mà cuộc khởi nghĩa đã vượt qua những khó khăn thử thách và ngày càng lớn mạnh, đủ sức tổng phàn công giành thắng lợi.
Vậy sức mạnh nào đã giúp nghĩa quân Lam Sơn vượt qua những khó khăn nói trên? Trước hết, nghĩa quân có sức mạnh của tư tưởng nhân nghĩa, của ý thức dân tộc, của mục đích chiến đấu là nhằm mưu cầu hạnh phúc cho nhàn dân, bảo vệ nển độc lập và truyền thống văn hiến lâu đời của quốc gia Đại Việt. Sau dó, yếu tô' quan trọng quyết định thắng lợi của cuộc khởi nghĩa là tài trí mưu lược, phẩm chất anh hùng của Lê Lợi. ông thể hiện rất rõ vai trò của một bậc minh chủ: căm thù giặc sâu sắc, tự tin, tự nguyện đặt vận mệnh của quốc gia, dân tộc lên vai mình.
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Bài số 2
Bình ngô đại cáo là bản báo cáo lớn, công bố rộng khắp cho mọi người biết về việc dẹp yên giặc Ngô, khẳng định chủ quyền của dân tộc và tương lai của đất nước. Bởi vậy, nó được coi là một bản tuyên ngôn độc lập.
Như chúng ta đều biết, sau một thời gian cầm sự để xây dựng lực lượng (1418- 1423), nghĩa quân Lam Sơn đã chuyển sang thời kì phản công. Đến mùa đông 1427, sau khi đập tan mười năm vạn quân tiếp viện của giặc minh, nước ta hoàn toàn được giải phóng. Đầu năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Như vậy, bài cáo trong lúc toàn quân, toàn dân đang hân hoan chào đón chiến thắng sau 10 năm chiến đấu gian khổ, anh dũng.
Trước hết, Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.
Nhìn đại thể, Bình Ngô đại cáo có thể chia làm bốn phần:
Phần 1. Khẳng định lí tưởng nhân nghĩa của cuộc kháng chiến và truyền thấng bất khuất của dân tộc (từ đầu đến chứng cứ còn ghi…)
Phần 2. Tố cáo tội ác của bọn cướp nước lợi dụng hoàn cảnh rối ren của nước ta, đưa quân sang xâm lược và gây ra bao đau khổ cho nhân dân (tiếp theo đến ai bảo thần dân chịu được…).
Phần 3. Mô tả quá trình khởi nghĩa Lam Sơn, mục đích của cuộc chiến đấu. Những khó khăn ban đầu (quá trình chiến đấu), những chiến công hiểu hách của nghĩa quân chấm dứt ách nô lệ (tiếp theo đến củng là chưa thấy xưa nay).
Phần 4. Lời tuyên bố kết thúc, chiến tranh khẳng định tư thế dân tộc và khát vọng xây dựng đất nước muôn thưở phồn vinh (tiếp theo đến hết).
Ở phần thứ nhất, trước hết Bình Ngô đại cáo khẳng định lí tưởng của cuộc kháng chiến việc nhân nghĩa cốt ở yên dân. Đánh giặc chính là nhân nghĩa. Tiếp theo, Nguyễn Trãi khẳng định Việt Nam là một quốc gia văn hiến từ bao đời đã sánh vai với cường quốc Trung Hoa về nhiều phương diện. Nội dung nói trên được tác giả biểu đạt bằng những câu văn sang trọng, đĩnh đạc gợi không khí trang nghiêm lịch sử.
Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác
Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên hùng cứ một phương
Ở đây, nổi bật là việc nhấn mạnh đến tư tưởng nhân nghĩa của Cuộc kháng chiến và tư thế độc lập của dân tộc. Nhân nghĩa gắn liền với việc yên dân. Nguyễn Trãi quan tâm trước hết đến đời sông nhân dân, đến hạnh phúc cùa mọi người. Đây chính là tư tưởng lớn và tiến bộ của Nguyễn Trải, làm nền tổng cho cả bài cáo. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trái đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. Mỗi nước một bờ cõi, mỗi nước một phong tục với những triều đại khác nhau. Vì là nước văn hiến lâu đời nên người tài giỏi của Đại Việt thời nào cũng có, giặc đến thời nào cũng thất bại. Nội dung ấy được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với những chiến công huy hoàng (Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô- Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã). Do đó, có thể nói ở phần 1 này, Nguyễn Trãi vừa thể hiện niềm tin vào cuộc kháng chiến, vừa bộc lộ niềm tự hào trước truyền thông oanh liệt của dân tộc.
Phần thứ 2 của bài cáo là phần luận tội giặc. Lợi dụng việc họ Hồ để mất lòng dân, giặc Minh cấu kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, gây ra bao tội ác trời không dung đất không tha:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấymỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Do đó, chúng đã gây nên cho nước ta những hậu quả ghê gớm, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), môi trường sinh thái bị huỷ hoại nghiêm trọng (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy nhân dân Đại Việt vào tình cảnh thê thảm (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.
Phần thứ 3 thuật lại qua trình của cuộc khởi nghĩa từ khởi đầu đến ngày chiến thắng. Bài cáo nhân danh Lê Lợi: Ta đây, Núi Lam Sơn đấy nghĩa… Những lời tự bạch như phải trải tâm can mình trước thần dân: Đau lòng nhức óc, chốc đã mười mấy năm trời – … Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh – Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kĩ.
Buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn.
Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng ; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì. Như vậy mọi người đã biết, lẽ ra sau một loạt chiến bại, giặc Minh phải rút quân, nhưng trái lại, với bản chất ngoan cố, chúng lại cử viện binh hừng hậu chia làm nhiều ngả tiến xuống Đại Việt. Hai tên tướng giỏi chỉ huy hai đạo quân mạnh tạo nên thế gọng kim hòng đè bẹp quân ta:
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Hình ảnh quân ta càng hừng tráng bao nhiêu, thì hình ảnh quân giặc càng thảm hại bấy nhiêu và từ giọng văn sảng khoái và đầy tự hào tác giả chuyển sang giọng mỉa mai châm biếm đầy khinh bỉ:
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể
vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước
mà vẫn tim đập chân run.
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai. Giọng văn hiền hoà tươi vui:
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ.
Bình ngô đại cáo là quả là một tác phẩm chứa đựng một nội dung lớn, một tư tư tưởng cao, được diễn đạt bằng một áng văn đầy nghệ thuật, đáng được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai sau bài Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt. Ra đời trong thời đại Văn, Sử bất phân nên văn bá cáo mà đầy chất văn chương, hình ảnh từng từng lớp lớp, hành văn biến hoá, giọng điệu linh hoạt, diễn đạt tài tình những tình huống khác nhau của cuộc khởi nghĩa, và những cung bậc tình cảm khác nhau của người viết, thật xứng danh một áng thiên cổ hùng văn.
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Bài số 3
Vua Lê Thánh tông đã từng đề cao: Ức Trai tâm thượng quang Khuê tảo. Trong suốt bao năm qua, Nguyễn Trãi được nhớ tới, đánh giá như một nhà văn, nhà thơ vĩ đại của non sông Việt Nam, một nhà tư tưởng, một nhà chính trị đại tài của dân tộc Việt Nam thế kỉ XV. Các tác phẩm là sự kết hợp hài hòa của tư tưởng chính nghĩa, lòng yêu nước với lập luận sắc sảo, chặt chẽ, giọng văn hùng hồn, đầy tính thuyết phục với tư tưởng lấy dân làm gốc. Một trong số tác phẩm của ông thể hiện rõ điều này là tác phẩm “Bình Ngô đại cáo”
Tác phẩm ra đời khi Lê Lợi lên ngôi Hoàng Đế đặt tên hiệu là Thuận Thiên (hợp lòng trời) và cử Nguyễn Trãi soạn bài cáo để tuyên bố cho toàn dân biết cuộc kháng chiến chống giặc Minh đã thắng lợi rực rỡ, đất nước ta chuyển sang một giai đoạn xây dựng hoà bình. Bình ngô đai cáo là một luận văn chính trị tổng kết chặt chẽ, súc tích- về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, dựa trên tư tưởng yêu nước thiết tha và sự nhận thức sâu sắc, mới mẻ về nhân dân và dân tộc. Bao trùm bài cáo là niềm tự hào vô biên trước thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến, của khí phách của dân tộc Việt Nam.
Ngay từ đầu, Nguyễn Trãi đã khẳng định sự đấu tranh này là vì lợi ích của nhân dân:
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.
Nguyễn Trãi đã viết tự đáy lòng ông, chứ không chỉ như được từng nghe suông. Chính ông đã coi việc nhân nghĩa cốt ở yên dân như mục tiêu phấn đấu cao nhất của đời mình.Với đạo đức nho giáo ngày xưa, nhân nghĩa là một điều mà con người ai cũng phải có, và thể hiện bằng cách xử sự đối đãi tốt đẹp với người khác. Ở Nguyễn Trãi, nhân nghĩa đã được nhân lên một tầm cao hơn hẳn, và mở rộng hơn nữa: đó là lo cho dân, giúp cho dân – dân ở đây nói với nghĩa bao trùm tất cả thiên hạ. Tác giả đưa vào “yên dân” như để khẳng định đạo lý “lấy dân làm gốc” là quy luật tất yếu trong mọi thời đại- dân là nòng cốt, là tài sản, là sức mạnh, sinh khí của một quốc gia. Nhân nghĩa còn là “trừ bạo”, bạo chính là quân nhà Minh, bọn gian tà chuyên đi hà hiếp nhân dân. Có thể thấy Nguyễn Trãi đã coi ‘dân” chính là trụ cột của một quốc gia, người chèo thuyền cũng là dân và người lật thuyền cũng là dân. Tư tưởng này giản dị nhưng lại có ý nghĩa sâu sắc. Trong những cuộc kháng chiến thì nhân dân đóng vai trò quan trọng đối với sự thắng bại của cuộc chiến đó. Nếu dân mạnh, lòng dân yên thì ắt hẳn sẽ đánh bay hết sự tàn bạo của quân thù.
Quan niệm nhân nghĩa ở Nguyễn Trãi không còn là quan niệm đạo đức hạn hẹp mà là một lý tưởng xã hội. Điều quan trọng hơn là ở đây, Nguyễn Trãi nâng lý tưởng, nỗi niềm ấy lên thành một chân lí. Ông không nói đến nhân nghĩa một cách chung chung mà chỉ bằng một hai câu ngắn gọn tác giả đi vào khẳng định hạt nhân cơ bản, cốt lõi và có giá trị nhất. Không những thế, nhân nghĩa còn gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền đất nước, khẳng định chủ quyền quốc gia, tinh thần độc lập dân tộc:
“Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Núi sông bờ cõi đã chia
Phong tục Bắc Nam cũng khác”
Từ Triệu , Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Đến Hán, Đường, Tống Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.
Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,
Song hào kiệt đời nào cũng có.
Khẳng định chân lí này, Nguyễn Trãi đã đưa ra một quan niệm được đánh giá là đầy đủ nhất lúc bấy giờ về các yếu tố tạo thành một quốc gia độc lập.Nếu như 400 năm trước, trong Nam Quốc Sơn Hà, Lý Thường Kiệt chỉ xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức quốc gia cùng độc lập dân tộc thì trong Bình Ngô đại cáo, NguyễnTrãi đã bổ sung thêm bốn nhân tố nữa, gồm văn hiến, lịch sử, phong tục tập quán và nhân tài. Để nêu bật tư thế độc lập tự cường của dân tộc, Nguyễn Trãi đã sử dụng cách diễn đạt sóng đôi. Đại Việt và Trung Hoa đã bao đời song song tồn tại. “Văn hiến” của nước Nam là do nhân dân Việt Nam xây dựng, trải qua thăng trầm, sự tàn khốc và mất mát của chiến tranh mới có được. Cương thổ, núi, sông, đồng ruộng, biển cả đều được chia rõ ràng. Phong tục tập quán cũng như văn hoá mỗi miền Bắc, Nam cũng khác. Ở đây, Nguyễn Trãi nhấn mạnh cả Trung Quốc và Đại Việt đều có những nét riêng không thể nhầm lẫn, thay đổi hay xóa bỏ được. Cùng với đó là từng triều đại riêng nhằm khẳng định chủ quyền. Qua câu thơ, Nguyễn Trãi đã đặt các triều đại “Triệu, Đinh, Lí, Trần” của ta ngang hàng với “ Hán, Đường, Tống, Nguyên” của Trung Quốc , điều đó cho ta thấy, nếu không có một lòng tự hào dân tộc mãnh liệt thì không thể nào có sự so sánh cực kì hay và tinh tế như vậy. Cuối cùng chính là nhân tài, con người cũng là yếu tố quan trọng để khẳng định nền độc lập của chính mình. Tuy thời thế “mạnh, yếu từng lúc khác nhau” song hào kiệt thì đời nào cũng có, câu thơ như lời răn đe đối với những ai, những kẻ nào, nước nào muốn thôn tính Đại Việt.
Để làm tăng sức thuyết phục lên gấp bội, Nguyễn Trãi đã sử dụng nhiều từ ngữ chỉ tính chất hiển nhiên vốn có khi nêu rõ sự tồn tại của Đại Việt: “từ trước”, “đã lâu” ,“đã chia”, “cũng khác”. Nghệ thuật thành công nhất của đoạn một – cũng như là bài cáo – chính là thể văn biền ngẫu được nhà thơ khai thác triệt để. Khẳng định nền độc lập và tư tưởng của mình, ông nêu ra các cuộc chiến trước đây với phương Bắc trong lịch sử mà chúng đều thất bại:
Vậy nên:
Lưu Cung tham công nên thất bại
Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong
Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô
Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã
Việc xưa xem xét
Chứng cứ còn ghi.
Ở đoạn thơ này, NguyễnTrãi đã cho ta thấy những chiến công oanh liệt của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, giữ gìn tự do của Tổ quốc. Cách nêu dẫn chứng rõ ràng, cụ thể bằng những lời lẽ chắc chắn, hào hùng, thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Nội dung được diễn đạt bằng những vế rất đăng đối. Tuy vậy nếu để ý ta thấy tư thế cân bằng, tác giả dường như ngày càng muôn đặt nặng đồng cân hơn về phía Đại Việt với từng chiến công oanh liệt của quân và dân ta: “ Hàm Tử”, “ Bạch Đằng”,..thêm vào đó là sự xem thường, căm ghét đối với sự thất bại của những kẻ xâm lược không biết tự lượng sức : “Lưu Cung..tham công”, “Triệu Tiết… thích lớn”, Toa Đô, Ô Mã, tất cả chúng đều phải chết thảm. Đoạn thơ đã một lần nữa khẳng định rằng: Đại Việt là một quốc gia có độc lập, tự chủ , có nhân tài, có tướng giỏi, chẳng thua kém gì bất cứ một quốc gia nào. Tất cả những trang sử hào hùng, vẻ vang ấy, đều đã được sử sách ta cẩn thận ghi lại, không thể chối cãi, và không ai có thể thay đổi.
Trong suốt toàn bài Cáo Bình Ngô, ngòi bút của Nguyễn Trãi dã tỏ rõ lòng ưu ái đối với dân. Vì thương dân, ông đã xót xa trước những thảm cảnh mà quân cuồng Minh thừa cơ gây họa do bọn gian tà còn bán nước cầu vinh. Chúng đã:
Nhân họ Hồ chính sự phiền hà
Để trong nước lòng dân oán hận
Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa
Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế
Gây thù kết oán trải mấy mươi năm
Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.
Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.
Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.
Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.
Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng.
Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.
Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,
Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.
Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán,
Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa?
Nặng nề những nổi phu phen
Tan tác cả nghề canh cửi.
Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,
Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi !
Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu được?
Lợi dụng việc chính trị rối ren, giặc Minh cấu kết với bọn Vỉệt gian bán nước, điên cuồng sang cướp nước ta, xâm phạm chủ quyền dân tộc, còn gây ra bao tội ác tày trời:
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ
Đọc lại sử sách cũ, chúng ta có thể thấy hai câu trên hoàn toàn không phải là cách diễn đạt cường điệu mà là sự thật: Giặc Minh hết sức hung tàn, chúng thường rút ruột người treo lên cây, nấu xác người lấy mỡ thắp đèn, nhiều khi chúng mua vui bằng cách nướng những người dân vô tội. Ngoài ra, bọn giặc đã thực hiện một chế độ sưu thuế cống nạp nặng để vơ vét của cải (Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng – Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc). Lòng tham vô đáy, chúng đã gây nên nỗi đau ghê gớm cho dân ta lúc bấy giờ, sản xuất bị đình trệ (tan tác cá nghề canh cửi), cuộc sống nhân dân bị huỷ hoại không còn lại gì (tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ), đẩy con người ta vào tình cảnh thê lương, khốn cùng (nheo nhóc thay kẻ goá bụa khôn cùng) … Tội ác của giặc Minh chồng chất đến dẫu chặt hết tre rừng cũng không ghi hết, khiến cho trời đất không thể dung tha, thần và dân đều không chịu được. Ông đã vạch trần bản chất thực của kẻ xâm lược bằng những câu văn phẫn nộ, bi thương. Đau xót và căm thù, người dân Đại Việt phải đồng lòng đứng dậy.
Ta đây:
Núi Lam Sơn dấy nghĩa
Chốn hoang dã nương mình
Ngẫm thù lớn há đội trời chung
Căm giặc nước thề không cùng sống
Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời
Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối.
Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,
Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ.
Những trằn trọc trong cơn mộng mị,
Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi
Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,
Chính lúc quân thù đang mạnh.
Tập trung miêu tả hình ảnh Lê Lợi, Nguyễn Trãi đã khái quát toàn vẹn nưng phẩm chất tiêu biểu nhất của con người yêu nước ở thế kỷ XV. Những đặc điểm của con người yêu nước trong văn học thời kỳ này thường có đặc điểm sau: Xuất thân bình thường; Khởi đầu gặp nhiều khó khăn nhưng luôn có tinh thần vượt khó, kiên trì ;Biết tập hợp, đoàn kết toàn dân ;Biết sử dụng chiến lược, chiến thuật tài tình; Biết nêu cao ngọn cờ nhân nghĩa trong mọi hoạt động. Có thể nói, Lê Lợi chính là hình ảnh tiêu biểu của những con người yêu nước dám hy sinh quên mình đứng dậy chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập tự do của dân tộc.
Lại ngặt vì:
Tuấn kiệt như sao buổi sớm,
Nhân tài như lá mùa thu,
Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần,
Nơi duy ác hiếm người bàn bạc,
Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông,
Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chắm còn dành phía tả.
Thế mà:
Trông người, người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi.
Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.
Phần vì giận quân thù ngang dọc,
Phần vì lo vận nước khó khăn,
Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,
Lúc Khôi Huyện quân không một đội.
Trời thử lòng trao cho mệnh lớn
Ta gắng trí khắc phục gian nan.
Nhân dân bốn cỏi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới
Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào.
Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,
Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.
Tinh thần và lòng quyết tâm đã dâng cao như núi nhưng buổi đầu của cuộc khởi nghĩa thật là đầy khó khăn: quân giặc thì đang hùng mạnh, mà chúng ta mới có ít người, nhân tài thiếu thốn như sao buổi sớm, như lá mùa thu. Có lúc bị bao vây, lương thực cạn kiệt, quân sĩ chẳng con mấy người (khi Linh Sơn, lương hết mấy tuần – khi Khôi Huyện quân không một đội) … Tuy vậy, nhờ bền gan vững chí khắc phục gian nan, nhờ sự chung lưng đấu cật của tướng sĩ, nhờ sự đoàn kết của toàn dân và chiến lược, chiến thuật đứng đắn…, chúng ta đã dần dần xây dựng được lực lượng vững mạnh dẫn tới chiến thắng.
Đoạn tiếp theo, Nguyễn Trãi tập trung lược thuật quá trình chiến thắng. Điều đáng lưu ý, trên thực tế, từ khi dựng cờ khởi nghĩa đến khi toàn thắng, nghĩa quân Lam Sơn đã chiến thắng nhiều trận. Nhưng ở đây, Nguyễn Trãi chỉ tập trung nói đến một số trận tiêu biểu nhất của từng giai đoạn. Ở giai đoạn mở màn đánh lớn, tác giả nói đến hai trận chiến ác liệt xảy ra tại Bồ Đằng và Trà Lân. Quân giặc hoàn toàn bị bất ngờ, thua chạy liểng xiểng ; quân ta chiến thắng nhanh chóng. Ở đây, Nguyễn Trãi có cách miêu tả rất ngắn gọn nhưng vẫn làm nổi bật lên được cái cốt lõi của hai trận đánh là sự bất ngờ trong việc dừng quân. Do đó, giặc thì hoảng sợ, hoang mang, quân ta thi càng đánh càng mạnh:
Sĩ khí đã hăng
Quân Thanh càng mạnh
Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,
Lí An, Phương Chinh nín thở cầu thoát thân.
Ở giai đoạn hai, quân ta mở chiến dịch Thanh Nghệ để tiến quân ra Bắc. Nguyễn Trãi nói đến hai trận có ý nghĩa chiến lược và đã diễn ra vô cùng ác liệt là trận Ninh Kiều và trận Tốt Động. Giặc thì huy động tổng lục sống chết cố thủ, ta thì quyết chiến quyết thắng ; do đó, trận chiến trở nên cực kì dữ dội. Bằng cách nói cường điệu, Nguyễn Trãi đã khiến người đọc có ấn tựợng sâu sắc về sự ác liệt của trận chiến, sự thất bại nhục nhã của giặc Minh:
Ninh Kiều máu chày thành sông, tanh trôi vạn dặm
Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.
Phúc âm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu.
Mọt gian kẻ thù: Lí Lượng củng đành bỏ mạng.
Ở giai đoạn cuối cùng của cuộc chiến, Nguyễn Trãi tập trung bút lực kể về chiến dịch Chi Lăng – Xương Giang. Đây là bản hùng ca vang dội nhất của cuộc kháng chiến trường kì.
Đinh Mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại,
Năm ấy tháng mười, Mộc Thạch chia đường từ Vân Nam tiến sang.
Nhưng ta đã có sự bố phòng chu đáo. Hai gọng kìm của giặc liên tiếp bị bẻ gãy:
Ta trước điều bỉnh thủ hiểm, chặt mũi tên phong.
Sau lại sai tướng chẹn đường, tuyệt nguồn lương thực.
Sau đó là những chiến thắng dồn dập. Hơi văn hăm hở như có nhịp thở của người viết, mạch văn dồn đuổi như cố theo kịp bước hành quân thần tốc và những đòn đánh cấp tập của nghĩa quân:
Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,
Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu.
Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh bại trận tử vong.
Ngày hai tám, Thượng thư Lí Khánh cùng kế tự vẫn.
Tiếp đó, bài cáo chuyển sang tiếp cận cụ thể cảnh trận mạc. Câu vãn đúc lại, ngắn gọn, đầy hình ảnh thâm xưng phóng đại nhằm cực tả sức mạnh vĩ đại, khí thế áp đảo của quân ta:
Sĩ tốt kén tay hùng hổ,
Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,
Gươm mài đá, đá núi cũng mòn
Voi uống nước, nước sông phải cạn,
Đánh một trận, sạch không kình ngạc
Đánh hai trận, tan tác chim muông
Hình ảnh quân ta lúc này hiện lên với lực lượng đông đảo, ý chí mạnh mẽ kiên cường, tầm vóc lồng lộng nơi vũ trụ. Khi đánh giặc, càng đánh càng hăng, khí thế ngập đất trời bởi trái tim luôn tràn trề tình yêu nước. Bởi thế nên quân ta mới đánh bại quân giặc. Lúc này, quân giặc hiện lên trong thật đáng thương, thảm hại:
Cơn gió to trút sạch lá khô,
Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ.
Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng,
Thần vũ chẳng giết hại thể lòng trời ta mở đường hiến sinh,
Mã Kì, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể vẫn hồn bay phách lạc.
Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa về đến nước mà vẫn tim đập chân run.
Những cái "danh" không thể giấu nổi sự hèn nhát và nhục nhã : Trần Trí, Sơn Thọ, Lí An, Phương Chính, Vương Thông, Mã Anh… Tất cả làm nên một khung cảnh chiến trường tuy hỗn độn nhưng thế chủ động hoàn toàn đã thuộc về phe chính nghĩa. Quân giặc nhốn nháo, hãi hùng, mỗi tên mỗi vẻ vô cùng thảm hại. Nhưng nhân dân ta vốn ưa hoà bình, không thích cảnh binh đao :
Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng
Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.
Quân giặc đã "tham sống sợ chết", ta cũng chẳng cạn tình. Quan điểm "dĩ chí nhân nhi dịch cường bạo" của Nguyễn Trãi chính được biểu hiện ở đây. Theo ông, binh đao khói lửa chỉ là chuyện bất đắc dĩ, vì làm hao tổn sinh mạng, ông luôn mưu phạt tâm công, dùng áng văn chính luận có sức mạnh hơn 10 binh để tránh đổ máu mà thu phục được lòng người. Với quân tướng bại trận của giặc, ông đã tha bổng và giúp cho về nước, không giết hại: thể lòng trời, ta mở đường hiếu sinh để giữ vẹn hoà hiếu. Ta thấy Nguyễn Trãi quả là một con người nhân nghĩa, với tấm lòng nhân hậu, bác ái và thanh cao tuyệt vời!
Bài cáo kết thúc. Câu văn chuyển sang nhịp khoan thai, dàn trải, trang trọng. Giọng văn hiền hoà tươi vui
Xã tắc từ đây vững bền
Giang sơn từ đây đổi mới.
Nhưng niềm vui không ồn ào. Tác giả hiểu hơn ai hết cái giá đắt của chiến thắng, và cái ơn rất sâu của đồng bào và của trời đất tổ tông thiêng liêng đã đồng lòng giúp đỡ. Từ đây dân tộc bước vào một thời đại mới. Độc lập, tự do và sự yên bình lại trở về trên mỗi miền quê. Đoạn văn dựa vào những quy luật tất yếu của tự nhiên mà khái quát thành những điều tất yếu trong xã hội. Xã hội phải đối diện với "những sự đổi thay" nhưng cũng như càn khôn "bĩ rồi lại thái", như nhật nguyệt "hối rồi lại minh". Và dường như cũng chỉ có như vậy ta mới thấu hết được cái ý nghĩa của hình ảnh đất nước trong gian lao, và mới hiểu thế nào là "muôn thuở nền thái bình vững chắc". Đất nước đã thanh bình, hình ảnh đất nước trong tương lai vững vàng và tươi sáng : “Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn”.
Bài cáo còn viết với nghệ thuật xuất sắc: lời văn biền ngẫu hùng tráng, hơi văn cuồn cuộn như bão giông, như sóng lớn, từ ngữ sắc bén như những nhát dao chém thẳng vào quân xâm lược, phép đối kết hợp với cấu trúc câu của loại phú cận thể tạo nên tiết tấu mạnh mẽ thể hiện được tất cả các cảm xúc hào sảng bừng bừng trong huyết quản của tác giả ngay trong những ngày nghĩa quân Lam Sơn thắng trận giòn giã. Bài cáo đã ghi lại một thời kì đau thương mà oanh liệt của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống quân Minh với những chiến thuật hết sức đúng đắn và sáng tạo đã đem lại những trận đánh long trời lở đất làm cho quân thù phải khiếp sợ, đẩy chúng đến sự thất bại toàn diện và nhục nhã. “Bình Ngô đại cáo” xứng đáng là “thiên cổ hùng văn”, là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của nước nhà.
Tóm lại, tác phẩm Bình Ngô đại cáo tràn ngập nguồn cảm hứng trữ tình và mang tính chất hào hùng hiếm có. Chính vì vậy, đoạn trích có giá trị rất sâu sắc đối với nước ta, khẳng định nhân dân ta có tinh thần nhân nghĩa và nền độc lập riêng của mình. Đoạn thơ giúp ta hiểu rõ chủ quyền lãnh thổ, độc lập dân tộc cũng như lịch sử đấu tranh hào hùng của cha ông ta ngày trước, qua đó bồi dưỡng lòng yêu nước, tự hào tự tôn dân tộc, quyết tâm xây dựng, bảo vệ và củng cố độc lập chủ quyền nướcnhà.
Phân tích bài Đại cáo bình Ngô của Nguyễn Trãi – Bài số 4
“Bình Ngô đại cáo” là áng thiên cổ hùng văn” thể hiện thiên tài của Nguyễn Trãi, đỉnh cao về tư tưởng, và nghệ thuật của nền văn hiến Đại Việt trong thế kỉ XV. Cùng với “Lam Sơn thực lục…”, “Quân trung nì mệnh lập”, ” Ức trai thi tập”, “Quốc âm thi tập”,… “Bìnli Ngô đại cáo” đã làm cho ngôi sao Khuê trở nên chói sáng và lấp lánh ngàn thu.
Mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến 10 năm chống quân Minh xâm lược hoàn toàn thắng lợi. Nguyễn Trãi đã thay lời Lê Lợi viết “Bình Ngô đại cáo” tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc “nên công oanh liệt ngàn năm”, tuyên bố nước Đại Việt bước vào một kỉ nguyên mới độc lập bền vững, “muôn thưở nền thái bình vững chắc”,…
Nhân nghĩa là tư tưởng chủ đạo của “Bình Ngô đại cáo”. là mục tiêu chiến đấu vô cùng cao cả và thiêng liêng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:
“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,
Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”.
Dấy quân khởi nghĩa vì thương dân, trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt bọn giặc tàn bạo, đem lại cuộc sống yên vui cho nhân dân (yên dân), đó là việc nhân nghĩa. Nhân nghĩa vốn là học thuyết của Nho giáo đề cao đạo đức, tình nhân ái giữa con người với nhau. Nguyễn Trãi đã tiếp thu tư tư