Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 11 Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Bài số 1 "Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tô’"trữ tình" và "hiện thực”,"Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một ...
Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Văn mẫu lớp 11
Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Bài số 1
"Nhật kí trong tù" của Hồ Chí Minh được kết hợp từ hai yếu tô’"trữ tình" và "hiện thực”,"Lai Tân" là một trong những bài thơ thể hiện rõ những yếu tố đó. Nó là .một thành công của Bác trong việc kết hợp bút pháp tả thực và trào phúng vẽ nên bức tranh thời sự về chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch.
Với tư cách là người thư ký trung thành của thời đại, Bác đã ghi lại một cách khách quan những cảnh:
"Giam phòng ban trưởng thiền thiên đổ
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự"
Khác với Tú Xương trong hoàn cảnh tự do nên có ‘thể thẳng tay độp vào mặt bọn thông trị những cái tát giáng trời:
"Ớ phố Hàng Song thật lắm -quan
Thành thì đen kịt, Đốc thì lang
Chồng chung vợ chạ kìa cô Bố
Dậu lạy quan xin nọ chú Hàn"
(Lắm quan)
Hồ Chí Minh chỉ có thể mỉa mai, châm .biếm sâu cay bọn thông trị bằng ngòi bút trong hoàn cảnh tù đày, gông xiềng. Từ cái mặt bên ngoài đến tận cùng những ngộc ngách bôn trong của bộ máy thông trị Trung Hoa quốc dân đảng đã chứa đầy những mâu thuẫn. Tác giả "Lai Tân" đưa ra ba gương mặt điển hình của bộ máy chính quyền Tưởng Giới Thạch đó là: "Ban trưởng","cảnh trưởng", "huyện trưởng cái chức "trưởng’ của họ khá oai vệ, đầy uy lực, nhưng việc làm của họ đầy khuất tất, bất chính. Khuôn khổ bài thơ rất ngắn gọn nhưng lại được đặt liên tiếp ba chừ "trường" trong ba cồu thơ đầu là sự "cớ tình" dùng phép lặp của Bác trong vỉệc dựng lên những chân dung tiêu biểu của giai cấp thống trị. Ba câu thơ – mồi câu là một bức tranh sống động mang tính
thời sự nóng hổi, chân thật đến từng cõi tiết được vẽ bằng nét bút bình thản, lạnh lùng Bức thứ nhất bày ra trước mắt mọi người là hình ảnh một "ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc". Bức thứ hai là hình ảnh "cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhãn bị giải".
Cả ban trưởng và cảnh trưởng đều là những công cụ thi hành pháp luật rất đắc lực của cái xã hội đầy rẫy những bỉ lậu, xấu xa. Chúng khoác trên mình chiếc áo "công lý’ để làm những việc "bất công ly’ một cách thường xuyên hết ngày này đến ngày khác. Chức "trưởng" của chúng đã to, sự phạm pháp của chúng còn lớn hơn ngàn vạn lần. Tiếng cười trào lộng bật lên từ nghịch cảnh đó. Thoạt tiên, mới nhắc đến "ban trưởng", "cảnh trưởng" thiết tưởng đó là những người cầm cân nẩy mực chắc hẳn phải công minh, trong sạch nhưng ta thực sự bất ngờ khi biết chúng chẳng qua là những con mọt dân, gây rối, bắt bớ dân để mà tham nhũng, cờ bạc. Chúng mượn cái danh để tự đặt ra cho mình cái quyền thích làm gì thì làm. Đất Lai Tân có ban trưởng, cảnh trưởng tưởng chừng cuộc sông hình yên nhưng trớ trêu thay trật tự an ninh không được đảm bảo, những vi phạm pháp luật vẫn diễn ra đầy rẫy mà những kẻ đứng đầu bộ máy thống trị ở Lai Tân cũng chính là những kẻ cầm đầu những chuyện phạm pháp đó. Nực cười thay, nhà tù là nơi giam giữ những kẻ phạm tội vậy mà lại chính là nơi để tội phạm cổ thể thịnh hành rộng rãi nhất, tiêu biểu hơn cả, nhiều hơn cả vẫn là tội phạm cờ bạc mà chính giai cấp thống trị nhà lao cũng là những "đỗ phạm’. Cái nghịch cảnh "đánh bạc ở ngoài quan bắt tội, trong tù được đánh bạc công khai" là hiện thực thôi nát của nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể phủ nhận được.
Cấp dưới sông và hành động bê tha, tàn ác như thế, vậy mà cấp trên – huyện trưởng – vẫn đêm đêm "chong đèn lo công việc". Mức độ mỉa mai, châm biếm của tác giả tăng dần. Kích thước của những bức tranh về sau to hơn, rộng hơn bức trước. Từ chân dung một ban trưởng trông coi một phạm vi nhà tù nhỏ hẹp tới một cảnh trưởng cai quản một địa phận lớn hơn đến một huyện trưởng cai trị một vùng rộng lớn và bao quát cả quyền của ban trưởng cảnh trưởng. Bức tranh thứ ba mở ra hình ảnh "Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự’ vẻ ngoài tưởng mẫu cách, sát sao với "công việc" nhưng thực ra lại là một kẻ quan liêu, vô trách nhiệm, không biết tay chân, cấp dưới làm những gì, phạm pháp những gì. Câu thơ phạm luật "nhị tứ lục phân minh" ở một chữ "công". Bao mỉa mai, đả kích sâu cay dồn nén vào một chữ "công" đó. Huyện trưởng "lo công việc" hay là mượn "việc công" để tạo một tấm bình phong che cho mình "io việc riềng", "chong đèn’ hút thuốc phiện? Tác giả đặt chữ "đăng" chính giữa câu thơ không nhằm mục đích tỏa sáng chận dung huyện trưởng mà nhằm đối lập, phản chiếu cái tối tăm của bộ máy thông trị Lai Tân (nói riêng), hệ thống chỉnh quyền Tưởng Giới Thạch (nói chung).
Giữa thực trạng ấy, thử hỏi bình yên ở đâu? Câu trả lời là: Bình yên vẫn ở chốn Lai Tân này!
"Trời đất Lai Tân vẫn thái bình"
Câu trả lời bất ngờ đến mức khiến người đọc ngã ngửa người. Thì ra là thế! Lời bình giá đã đi ngược lại với tất cả những mục ruỗng, thối nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch được phơi bày ở trên. Từ lời bình giá đó đã vút lên một lời đã kích mạnh mẽ. Tác giả "Lai Tân" đã kết luận đầy châm biếm, mỉa mai sắc sảo và rất hùng hồn về cái xã hội ấy. Thủ pháp nói ngược của Bác đã làm bật ra tiếng cười trào phúng. ‘Trờiđất Lai Tân vẫn thái binh". Đúng vậy! Nhưng chỉ một chữ "vẫn" cũng đủ "điếng người’. Một cái bĩu môi dài, một cái cười khẩy, một giọng mĩa kéo dài bắc đầu từ chữ "vẫn" ấy. Nghệ thuật nâng cao – quật mạnh, nâng cao 1 quật càng được Bác sử dụng rất công hiệu ở câu thơ cuối bài này đã lay tỉnh người đọc nhìn sâu vào xã hộ ấy mà xem xét, đánh giá đúng thực chất của nó. Như con đà điểu thấy nguy hiểm là húc đầu vào sâu trong cát, giai cấp thống trị ở Lại Tân thấy trời đất thái bình là tưởng thây yên ổn chúng bằng lòng với cách thái bình đó mà không ngờ rằng dó chi là cảnh thái bình giả dối, trong đó chất chứa rất nhiều sóng gió, hiểm nguy. Điều ấy cũng thể hiện sự ngu dốt, vô trách nhiệm hết sức của bọn chúng. Ba bức tranh – ba chân dung của ba kẻ đại diện cho giai cấp thông trị chế độ Tưởng Gịới Thạch ghép lại với nhau thành một bức tranh lớn – một chân dung lớn đầy đủ, trọn vẹn về xã hội Trung Hoa quốc dân đảng. Với "nghệ thuật vế đường tròn dồng tâm"t tác giả "Lai Tân’ đã vẽ được một bức tranh sinh động mỗi lúc một toàn diện hơn chế độ xã hội Tưởng Giới Thạch. Nhà "dột từ nóc dột xuống" chỉ qua một huyện Lai Tân mà cả bộ mặt thối nát, bỉ lậu của xã hội Tưởng được phơi bày. Tác giả đã phủ định triệt để tận gốc giai cấp thống trị ấy. Cái "loạn" của mảnh đất Lai Tân được tô đậm bằng màu xám, màu tối của những bê tha, xấu xa, vô trách nhiệm, rất quan liêu của văn võ bá quan. Và hơn thế, nó được "trang trí" bằng sự "thái bình” nhưng ai cũng hiểu trời đất Lai Tân "thái bình" như thế nào. Cách kết thúc bài thơ của Hồ Chí Minh giống lối thơ trào phúng truyền thống của các nhà thơ trào phúng Việt Nam như Tú Xương, Nguyễn Công Trứ, Hồ Xuân Hương… đồng thời đậm chất (gây cười) của phương Tây. Hai chữ Lai Tân dường như không chỉ là một tên huyện đơn thuần mà tự bản thân nó đã mang một lớp nghĩa là mảnh đất mới, sáng sủa, bình yên. Và quả thật, huyện Lai Tân rất bình yên – bình yên "như xưa". Nhưng "như xưa" ở đây nghĩa là sự trì trệ, là chậm chạp không phát triển đã thành truyền thông; "như xưa" là không hề đổi thay, là duy trì những cái xâu xã, bĩ lậu của ngày trước. Hồ Chí Minh đã đả kích trực tiếp và khách quan chế độ Tưởng, do đó sức tế cáo, châm biếm của nó rất mạnh mẽ, quyết liệt. Bác đã giáng những đòn liên tiếp, chính xác vào xã hội ấy khiến nó phải "quần lèn" ở nhát đòn quyết định có tên là "thái bình”.
Không phải chỉ ở "Lai Tân" mà ở rất nhiều bàỉ thơ khác của "Nhật ki trong tu Bác cũng đã đả kích châm biếm sâu sắc xã hội Tưởng Giới Thạch như "Trảng binh gia quyến", "Đổ", "Đổ phạm’. Đó là "những ngón đòn trào phúng thâm thúy mà Bác đă đánh thẳng vào kẻ thù, vạch trần cái vô lý, tàn tệ" của chế độ ấy khiến "ta cười ra nước mắt". Tiếng cười trào lộng cất lên vừa trữ tình, vừa đẩm chất trí tuệ khiến ta thoải mái, hả hê.
Ta chợt nhớ tới Tú Xương ngày trước cũng từng có một tiếng cười trào lộng như thế: "Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ẩy cùng bình yên". (Đừa ông phủ)
Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Bài số 2
Lai Tân là một bài thơ nhằm tố cáo cái hiện thực xáu xa, thôi nát của xã Hội Trung Quốc thời ấy hay chỉ là tiếng cười châm biếm của nhà thơ về những ‘con người ‘ trong đám chức sắc ở Lai Tân mà nhà thơ nhìn thấy? Một câu hỏi rất thú vị được đặt ra.
Đây là bản dịch bài thơ của Nam Trân:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn Huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
Lai Tân là một huyện thuộc tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Câu thơ thứ nhất nói về tên Ban trưởng – một tên cai ngục. Hắn không hung dữ, không quắt quay… như những tên chức ngục khác, mà chỉ ‘ngày ngày đánh bạc ‘ (thiên thiên đổ). Hắn đã biến nhà tù thành một sòng bạc giữa thanh thiên bạch nhật. Nhà tù không phải là cải tạo phạm nhân, không phải là nơi để thực thi luật pháp và công lí. Ban trưởng và tù nhân đều có vị thế như nhau: tất cả đều là con bạc, đều cùng Hội đỏ đen, đang sát phạt lẫn nhau, cùng máu mê như nhau. Câu thơ chữ Hán nghĩa là: ‘Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc ‘ được dịch thành ‘Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc ‘ kể cũng hay. Ở đây tiếng cười bật ra ở cái nghịch lí của sự vật, của con người, của hiện tượng mà nhà thơ nói đến, nhà thơ nhìn thấy, tiếng cười khẽ, thâm trầm, sâu sắc giàu trí tuệ.
Vì đã trải qua ‘hơn trăm ngày ác mộng‘, bị giải lui giải tới mấy chục nhà lao tỉnh Quảng Tây, Người đã nhìn thấy bao nghịch lí, nghịch cảnh của bức tranh tù ngục, ‘cái oái oăm của sự đời ‘:
Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội,
Trong tù đánh bạc được công khai,
Vào tù con bạc ăn năn mãi:
Sao trước không vô quách chốn này!?
(Đánh bạc)
Mỗi bức tranh là một tiếng cười khẽ, châm biếm nhẹ nhàng mà thâm thúy, bài thơ đánh bạc giúp ta cảm và hiểu sâu hơn, thú vị hơn bức chân dung Ban trưởng nhà giam ngày ngày đánh bạc.
Câu thơ thứ 2, tác giả hình như nhìn thấy trên đường chuyển lao một cảnh sát trưởng, một ‘ông cò ‘ huyện Lai Tân:
Cảnh trướng tham thôn giải phạm tiền.
Nam Trân đã dịch: ‘Giải người, Cảnh trưởng kiếm ăn quanh ‘.
Nguyên tác: Cảnh trưởng tham lam ăn tiền phạm nhân bị giải.
Câu 1 đối xứng với câu 2, mỗi bức chân dung biếm họa có một nét riêng. Ban trưởng thì lo ăn chơi cờ bạc, Cảnh trưởng thì trắng trợn ‘móc túi ‘ ăn tiền phạm nhân. Chuyện bọn cai ngục, cảnh sát trưởng ăn tiền phạm nhân đã thành ‘lệ‘ mà nhà thơ đã nhiều phen trở thành ‘nạn nhân‘. ‘Mới đến nhà giam phải nộp tiền – Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên ‘ (Tiền vào nhà giam), ‘vào lao phải nộp khoản tiền đèn – Tiền Quảng Tây vừa đúng sáu nguyên‘ (Tiền đèn).
Bình diện không gian xã Hội trong bài thơ Lai Tân được mở rộng ở bức chân dung thứ ba:
Hiệu trưởng thiêu đăng biện công sự.
‘Thiêu đăng‘ là chong đèn, "biện công sự" nghĩa là làm việc công. Câu thơ dịch đã đảo việc công thành công việc. Những năm 60, nhiều bài viết về ‘Ngục trung nhật kí ‘ đều cho rằng tên Huyện trưởng này chong đèn đêm hút thuốc phiện, từ đó nhân mạnh giá trị tố cáo hiện thực xâu xa, thôi nát của chính quyền Tưởng Giới Thạch. Sự thật không phải như thế, chính Hồ Chủ tịch đã lấy mực đỏ gạch bỏ ba chữ ‘hút thuốc phiện ‘ trong
bức thư của nhóm dịch giả gửi hỏi ý kiến Người.
Trong xã Hội cũ, bọn quan lại tự cho mình là ‘phụ mẫu ‘ của dân, là ‘đèn trời soi xét‘. Trong câu thơ chữ Hán có một chữ ‘đãng ‘ rất đặc biệt: Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự.
Không phải là ngọn đèn công lí tỏa sáng vầng trán Huyện trưởng, một vị quan to mặt lớn quang minh chính đại? Ông ta có vẻ ‘mẫn cán ‘ lắm, lo công việc quan suốt ngày chưa đủ, đêm đêm còn chong đèn làm việc công? Nhưng đâu phải thế, ông huyện trưởng Lai Tân là một kẻ rất quan liêu! Chuyện đánh bạc của Ban trưởng, chuyện ăn tiền phạm nhân bị giải của Cảnh trưởng sờ sờ ra đó, sao ông ta không hay, sao ông ta không biết? Hay ông Huyện trưởng Lai Tân này là ‘cái ố để bao che bọn thuộc hạ làm bậy ‘kiếm ăn quanh‘?. Ba bức chân dung biếm họa song hành, cùng nôi tiếp xuất hiện, mang một ý nghĩa thẩm mĩ đặc sắc, nó cho thấy một hệ thông quan lại Lai Tân là thế! Bộ máy quan liêu của chính quyền Quảng Tây thuở ấy là thế!
Trước những ‘gương mặt‘ ấy, thái độ nhà thơ như thế nào?
Câu cuối bài thơ, Người viết:
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
(Lai Tân vẫn thái bình như xưa).
Câu thơ toát lên một nụ cười châm biếm nhẹ nhàng mà sâu sắc. Nhà thơ như hỏi một cách bâng quơ: Lai Tân với hệ thông quan lại và chính quyền như vậy, thế mà ‘vẫn thái bình như xưa ‘. Cách mỉa mai, châm biếm của tác giả Ngục trung nhật kí là thế! Tính ‘hướng nội ‘ của Nhật kí trong tù được thể hiện rất rõ về mặt đặc điểm thể loại, nó vừa là nhật kí lại vừa là thơ, chủ yếu là thơ trữ tình, tác giả viết cho mình, để mà suy ngẫm, để mà chiêm nghiệm, ‘Vừa ngâm vừa đợi đến ngày tự do ‘. Vì thế, bài thơ Lai Tân tuy có nêu ra ba chân dung về Ban trưởng, Cảnh trưởng, Huyện trưởng tiêu biểu cho cái xâu xa, đồi bại của bọn quan lại chính quyền Tưởng Giới Thạch thuở ấy, nhưng chỉ là để mỉa mai, châm biếm cái nghịch lí, nghịch cảnh mà nhà thơ đã và đang phải đối diện và cam chịu.
Đọc Ngục trung nhật kí, ta bắt gặp một số ‘quan chức‘ nhân hậu, đáng yêu. Là Sở trưởng Long An họ Lưu ‘Ai ai cũng bảo bác công bình ‘. Là Tiên sinh họ Quách ‘ân cần đối đãi ta ‘. Là Trưởng ban họ Mạc ‘chẳng dùng quyền thế, chỉ dùng ân ‘. Khoa viên họ Trần thì ‘nho nhã ‘, Chủ nhiệm họ Hầu thì ‘anh minh‘… Cách nhìn của nhà thơ rất nhân hậu, trọng thị và công bằng, giữa cái xấu xa vẫn tìm thấy cái tốt đẹp, cái tình người mà trân trọng. Chính nhờ những con người này, tấm lòng này, mà ta hiểu thêm cảm hứng chủ đạo bài thơ Lai Tân: một nụ cười châm biếm tỏa rộng. Sau 3 chân dung biếm họa là một nhận xét trào lộng thâm trầm, sâu sắc. Nụ cười châm biếm trong bài thơ Lai Tân là nụ cười của một nhân cách văn hóa lớn: giàu trí tuệ và đạo đức cao đẹp.
Trong bài Một tiếng nói hướng nội: Thế giới nhà tù và con người kiên nghị – trữ tình của tác giả Trần Thị Băng Thanh và Nguyễn Huệ Chi có viết:
‘Có khi điều trái ngược đã vượt ra khỏi khung cảnh một nhà tù, trở thành tính chất tiêu biểu cho cả xã Hội Trung Hoa thời ấy ‘ (mà thật ra cũng chẳng riêng gì cho Trung Hoa và cho thời ấy): quan trên trì trệ, vô trách nhiệm, cấp dưới chỉ lo xoay xở kiếm ăn, mặc cho mọi tệ nạn cứ tự do hoành hành:
Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc,
Giải người Cảnh trưởng kiếm ăn quanh,
Chong đèn, Huyện trưởng làm công việc,
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình.
{Lai Tân)
Tất cả những việc kỳ cục bày ra trước mắt như thế có ý nghĩa gì? Phải chăng đây không phải là một sự ‘lưỡng phân ‘ tiếp tục trong nhận thức của nhà thơ ngay khi đã phải ‘nhập thân ‘ vào thực tại như một hiện hữu không thể chôì bỏ, ông vẫn lần lượt đi tìm ý nghĩa của cái thực và cái giả ở từng khía cạnh khác nhau và trong các hình thức tồn tại khác nhau hiển nhiên của nó. Có khi điều rút ra là một nụ cười buồn… ‘.
Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Bài số 3
Vào khoảng những năm ba mươi của thế kỷ XX, trên văn đàn Việt Nam đã dần dần có một sự trưởng thành mới. Thi ca giờ đây của Việt Nam không còn bị lệ thuộc vào những quy ước khắt khe của Nho gia rằng tất cả nhà thơ không được bộc lộ cái tài một cách tự do. Bước vào giai đọan này, mỗi thi sĩ lại hiện diện trên văn đàn với một tư thế rất riêng, của riêng mình. Cũng bởi vì cái riêng này, họ – thi sĩ thời đại mới – đã có những định nghĩa rất khác về thơ. Nếu Xuân Diệu cho rằng
“Là thi sĩ nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”
thì Hàn Mặc Tử lại nói: “Thi sĩ là người gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Câu hỏi đặt ra rằng “nỗi đau nhân loại” đó là gì? Có thể là nỗi phiền muộn “tương tư” như Nguyễn Bính chăng? Hay là tư thế “không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà” của Huy Cận? Bên cạnh những nỗi đau trên, Hồ Chí Minh cũng đã “vô tình” thêm vào “nỗi đau nhân loại” kia một góc nhìn rất khác. Đó là góc nhìn vào cái xấu xa, thối nát của xã hội. Không còn chỉ là gói gọn trong “vòng trời đất dọc ngang ngang dọc” của đất Việt mà đã chạm đến cái mục rửa của xã hội Trung Quốc do chính quyền Tưởng Giới Thạch đứng đầu lúc bấy giờ. Tuy rằng “ngâm thơ ta vốn không ham” nhưng nếu là con người thì Hồ Chí Minh lại thờ ơ với những gì chướng tai gai mắt thế sao? Chỉ gói gọn trong bài thơ “Lai Tân”, tác giả đã nhẹ nhàng nhưng lại đả kích sâu cay một xã hội
“Ban trưởng nhà lao chuyên đánh bạc
Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh
Chong đèn, huyện trưởng làm công việc
Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Vì là người tù của chế độ Tưởng Giới Thạch nên không có gì khó hiểu khi tác giả lại vẽ ra một bức tranh hiện thực sắc sảo đến thế. Khi lược đọc qua bài thơ, người ta sẽ dễ dàng nhận thấy một nghịch lý – một nghịch lý rất lớn. Đúng rằng không thể phủ nhận được trong thi ca không được có những nghịch lý. Thi ca vẫn đươc quyền có những nghịch lý. Những nghịch lý đó đôi khi là cảnh “Hầu trời” của Tản Đà hay làm sao có thể được khi Xuân Diệu lại muốn “cắn” vào “xuân hồng”. Tuy là nghịch lý đấy nhưng tất cả đều mang trong mình một nét dễ thương của con người “ru với gió, mơ theo trăng và vơ vẩn cùng mây”. Nghĩa là tuy nghịch lý về vật chất nhưng lại hợp lý trong tâm khảm.
Cái nghịch lý ở đây mà Hồ Chí Minh đặt ra cũng thế. Cái nghịch lý này giờ đây đã kèm theo chút nóng giận, bực tức. Làm sao có thể được khi một xã hội “ban trưởng chuyên đánh bạc”, “cảnh trưởng” lại “kiếm ăn quanh” mà “trời đất Lai Tân vẫn thái bình”? Quả thật, nếu như định nghĩa rằng “ban trưởng” là người trông coi nhà lao và “cảnh trưởng” là những người có nhiệm vụ giải tù nhân. Tất cả họ dường như đều chung một công việc là giáo dục tù nhân, giúp tù nhân tốt hơn. Nhưng thực tế thì không phải vậy.
Trong cái nghịch lý chủ đạo đã trình bày thì lại đâu đó nhen nhóm lên những nghịch lý khác. Chính là tại sao trong tù lại có cái nạn đánh bạc? Vẫn biết rằng chính xã hội lúc bấy giờ bên Trung Quốc thì món đánh bạc bị luật cấm. Nếu như anh đánh bạc thì không những anh, mà cả vợ con anh cũng bị liên lụy; còn riêng anh, anh phải đi tù. Đó là một thực tế và thực tế này đã được Hồ Chí Minh phác lại qua một lời ăn năn, hối tiếc của tên tù cờ bạc:
“Đánh bạc ở ngoài quan bắt tội
Trong tù đánh bạc được công khai
Bị tù con bạc ăn năn mãi
Sao trước không vô quắt chốn này?”
Chính bài thơ trên đã vẽ ra rất khéo sự lạm quyền đến khốn nạn của chế độ lúc đó. “Con bạc” kia bị tù là đáng rồi, thích đáng cho việc hắn làm. Nhưng làm sao có thể im lặng được khi cái kẻ bắt mình vì tội đánh bạc thì chính y cũng đánh bạc. Thế là cả cai tù và phạm nhân đều là tòng phạm. Cùng đánh bạc với nhau cả thôi, nếu tôi có tội thì anh cũng chẳng thoát; thế mà lấy cái tư cách gì mà anh bắt tôi? Quả đúng như thế, vị quan kia không có tư cách để “bắt tội” nhưng hắn có quyền. Hắn có quyền, cái quyền mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã “ban tặng” cho hắn. Và rồi cái nghịch lý ở đây là nhà lao giờ đây đã bị biến thành sòng bạc “được công khai”. Tại đây, ngay cái nơi mà tù nhân ước gì mình đừng vô đây lại được cấp giấy phép đánh bạc. Ngay cả đến “con bạc ăn năn mãi”: thà lúc trước vào đây đánh bạc để khỏi bị kết tội. Nực cười chăng? Cũng có thể. Chua cay chăng? Cũng có thể. Đau đớn chăng? Cũng có thể. Cái nhà tù Tưởng Giới Thạch là thế đấy!
Và rồi, không chỉ có nạn đánh bạc vậy đâu mà nơi đây còn bị Hồ Chí Minh chụp ảnh lại:
“Giải người, cảnh trưởng kiếm ăn quanh”.
Lại thêm cái nạn hối lộ. Đã quá đong đầy những sự thối nát, mục rửa của nhà tù Tưởng Giới Thạch. Khi bước vào lao tù, phạm nhân luôn ý thức rằng này đây mình sẽ bị đánh, bị đối xử có thể thậm chí như một súc vật. Biết là thế nhưng nếu với ý nghĩa nhà tù là nơi cải tạo phạm nhân thì lại sao có cái tình trạng hối lộ? Nghịch lý! Ở một bài thơ khác, tác giả cũng đã khắc lại cái trớ trêu, cái khốn nạn của thói ăn hối lộ này một cách rất chân thực:
“Mới đến nhà lao phải nộp tiền
Lệ thường ít nhất năm mươi nguyên
Nếu anh không có tiền đem nộp
Mỗi bước anh đi một bước phiền”
Thì ra cái thói ăn hối lộ là một “lệ thường”. Bây giờ đã rõ đến tận gốc rễ của sự việc. “Cảnh trưởng” dường như có được cái quyền làm cho “mỗi bước anh đi một bước phiền” nếu như tù nhân không có “năm mươi nguyên” đem nộp. Ở nơi “tối tăm mù mịt ấy”, tác giả đã thấy, đã chua xót, đã cay đắng vì cái nghịch lý khốn nạn, trớ trêu này. Dường như tác giả đang tìm một sự hợp lý nào đó.
“Chong đèn, huyện trưởng làm công việc”
Tưởng chừng như “huyện trưởng” là một vị quan rất lo cho dân, rất thương dân nên khi đêm đã về, vạn vật như chìm đắm trong giấc mộng thì ông lại “thiêu đăng” để làm việc. Điều này thật là quý hóa! Nhưng câu hỏi đặt ra nếu như ông ta lo lắng cho dân, cho nước như thế thì tại sao cấp dưới của ông ta lại xảy ra, xuất hiện những thói đời như thế. Phải chăng ông là người có tài nhưng lại bất lực; hay ông cố tình cho qua và “cho phép” cấp dưới được quyền như thế? Vấn đề đặt ra tiếp theo rằng phải chăng “huyện trưởng” đã được cấp dưới đút lót? Đó quả là một câu hỏi lớn – một câu hỏi phải để cho chính chế độ đó trả lời. Một mặt khác, nếu như đánh đồng những đối tượng trong ba câu thơ đầu thì có lẽ “huyện trưởng” hằng đêm “thiêu đăng” để hút thuốc phiện. Không phải một cách cường điệu mà ghép hết tội này đến tội khác cho ông; nhưng dù có cố tìm một lý do chính đáng cho những hành động giữa đêm như thế trong bối cảnh này cũng là khó khăn.
Chỉ cần lướt qua ba câu thơ đầu của “Lai Tân”, người đọc đã có thể thấy đó như một thước phim mà tác giả đang cố tái hiện lại một cách chân thực. Thước phim này chiếu lại một bộ máy cai trị ở Lai Tân gồm “ban trưởng”, “cảnh trưởng”, “huyện trưởng” với những việc làm xem ra là bình thường trong cái xã hội bấy giờ. Bình thường đến mức tầm thường! Thực tế là vậy. Một điều minh nhiên rằng cái xã hội đó sẽ không “thái bình”. Nhưng đến câu cuối bài thơ, với tất cả những sự việc như thế mà tác giả lại kết luận rằng:
“Trời đất Lai Tân vẫn thái bình”
Dường như là dửng dưng và vô cùng nghịch lý. Tuy là thế nhưng tác giả đã sâu cay đả kích một cách nhẹ nhàng nhưng lại thấm thía. Nhãn tự “thái bình” đồng thời vừa vạch ra một nghịch lý, vừa vẽ ra một hợp lý mang “phong cách” Tưởng Giới Thạch. Phải chăng “thái bình” là do được sự đồng lòng nhất quán từ “cảnh trưởng”, “ban trưởng” đến “huyện trưởng”. Tất cả đều như nhau, cũng thối nát, mục rữa. Lại thêm với nhãn tự “thái bình”, tác giả dường như đang khẳng định rằng tình trạng của chế độ thống trị xã hội Trung Quốc bấy giờ vẫn xảy ra bình thường, không có gì phải lạ cả, thậm chí điều đó gần như là bản chất của guồng máy cai trị ở đây. Chỉ cần như thế thôi, tác giả đã mỉa mai châm biếm cái xã hội dưới thời Tưởng Giới Thạch đó một cách sâu sắc đến vậy. Sâu sắc là bởi thi nhân đã nhìn thấy vào trong cái sự thật đã được che đậy bằng bề mặt giả tạo của bộ máy cai trị này.
Hồ Chí Minh dường như đã thật sự trở thành một thi sĩ vì tác giả đã “gánh trên vai cả nỗi đau nhân loại”. Thi nhân vừa thương vừa đả kích mạnh mẽ. Bút pháp châm biếm nhẹ nhàng mà thấm thía cùng nhãn tự “thái bình” đặc biệt xen giữa nhịp thơ 4/3 đã giúp thi sĩ hòan thành “Lai Tân”. Rất chính đáng, vô lý nhưng lại có lý hết lời!
Phân tích bài thơ Lai tân (Hồ Chí Minh) – Bài số 4
Ngục trung nhật kí là một tập nhật kí bằng thơ, một mặt ghi chép những điều tác giả quan sát được hàng ngày trong nhà tù hay trên đường bị giải từ nhà lao này đến nhà lao khác, mặt khác ghi lại những diễn biến tâm sự của mình khi đối diện với bản thân hay trước cảnh thiên nhiên. Loại thứ nhất nghiêng về hướng ngoại, thường sử dụng bút pháp tự sự, tả thực. Loại thứ hai, nghiêng về hướng nội, thường sử dụng bút pháp trữ tình. Tất nhiên đấy chỉ là nhìn trên đại thể. Ranh giới giữa hai loại nhiều khi không rõ rệt.
Bài Lai Tân có thể xếp vào loại thứ nhất.
Bài thơ kết cấu trên hai phần. Phần thứ nhất gồm ba câu đầu – ba câu tự sự :
Câu 1: Ban trưởng ngày ngày đánh bạc.
Câu 2 : Cảnh trưởng ăn tiền phạm nhân.
Câu 3: Huyện trưởng chong đèn làm việc công (tức hút thuốc phiện).
Phần thứ hai là câu kết: một nhận xét, một lời đánh giá chung về các hiện tượng kể trên.
Theo lô gích thông thường, người đọc chờ đợi ở câu kết này một lời phê phán mạnh mẽ, một sự lên án quyết liệt tình trạng thối nát của bọn quan lại ở Lai Tân.
Nhưng tác giả đã không làm như thế. Nhà thơ hạ một câu với thái độ dường như dửng dưng, vô cảm:
Lai Tân y cựu thái bình thiên.
(Trời đất Lai Tân vẫn thái bình)
Đây là điều mà trong nghệ thuật văn chương gọi là "tiền văn không đoán được hậu văn" – một câu kết thật bất ngờ. Nhưng đó chính là một cách ra đòn rất hiểm đã tạo nên một sức mạnh đả kích thật là quyết liệt: tình trạng của bọn quan lại đất Lai Tân diễn ra như thế là trong hoàn cảnh hết sức bình thường đấy thôi. Xin đừng hiểu đây là chuyên đặc biệt, bất thường, chuyện của thời loạn. Không, tình hình Lai Tân xưa nay vẫn thế. Guồng máy hành chính ở đây từ trước tới nay vẫn quay đều đều như thế đấy. Ban trưởng ngày ngày cứ đánh bạc, cảnh trưởng lo móc túi phạm nhân, còn huyện trưởng thì đêm đêm chong đèn hút thuốc phiện – bộ máy cai trị đã có sự phân công phân nhiệm rõ ràng, người nào việc nấy cứ thế mà làm, không ai phải giẫm đạp lên công việc của ai, tất cả đã trở thành nề nếp, trở nên ổn định từ lâu rồi : "Trời đất Lai Tân vẫn thái bình " !
Ôi, hai chữ "thái bình" hạ xuống, tự nhiên tình trạng thối nát của bọn quan lại Lai Tân bỗng trở thành chuyện bản chất của một chế độ, chuyện phổ biến của bộ máy chính quyền thời Tưởng Giới Thạch. "Thái hình", đúng là một thi nhân (con mắt của bài thơ), sức nặng của nó đặt lên bàn cân có thể ngang bằng với hai mươi sấu chữ còn lại của bài thất ngôn tuyệt cú ! Hoàng Trung Thông nói đúng : "Một chữ thái hình mà xâu táo lại bao nhiêu việc làm trên vốn là chuyện muôn thuở của xã hội Trung Quốc còn giai cấp bóc lột thống trị. Chỉ một chữ ấy mà xé toang tất cả sự "thái bình" dối trá, nhưng thực sự là "đại loạn" bên trong" .
Nên nhớ rằng, khi Hồ Chí Minh viết bài thơ này (cuối năm 1942) thì phát xít Nhật đang xâm lược Trung Quốc (căn cứ vào những ghi chép của tác giả Nhật kí trong tù – mục Đọc sách và Đọc báo thì đến đầu năm 1940, phát xít Nhật đã chiếm của Trung Quốc 15 thành phố, 533 huyện, trong đó có nhiều vùng thuộc tỉnh Quảng Tây).
Đặt trong hoàn cảnh ấy càng thấy sự thối nát và thái độ vô trách nhiệm của bọn quan lại ở Lai Tân đã lên đến cực độ. Đất nước bị tàn phá, đồng bào bị chém giết, vậy mà "Trời đất Lai Tân vẫn thái hình" ! Ai đánh giặc cứ đánh, ai chết cứ chết, ở đây vẫn thái bình, nghĩa là cứ dửng dưng "bình chân như vại", cứ hút, cứ đánh bạc, cứ lần túi phạm nhân,… nghĩa là hoàn toàn vô cảm trước tai hoạ của Tổ quốc, của nhân dân.
Lai Tân quả là một tiếng cười đả kích rất ác liệt và có thể nói là tiêu biểu cho phong cách châm biếm của thơ Hồ Chí Minh trong Nhật kí trong tù : không đao to búa lớn, cứ nhẹ nhàng như không mà sức mạnh đả kích thật mãnh liệt, nhằm thẳng vào tim gan của đối tượng. Lai Tân chỉ là một tiếng cười khẩy thế thôi, mà đã phóng ra một đòn có thể nói là chí tử.
Vũ Hường tổng hợp