16/01/2018, 13:27

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Văn mẫu lớp 11

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Văn mẫu lớp 11 Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Bài số 1 Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên ...

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Văn mẫu lớp 11

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Bài số 1

Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.

Truyện ngắn "Người trong bao" được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!

Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã "cười phá lên" khi Bê-li-cốp bị xô ngã "lộn nhào" xuống chân cầu thang, và cô đã "oà lên khóc" khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ!

Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì "nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng "sợ hãi", "lo âu", "nhút nhát" . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói "ngọt ngào”: "Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai", rồi "nheo mắt lại", "giơ một ngón tay lên" và thốt ra tiếng: "An-thro-pos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!

Bê-li-cốp sống một cách kì quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì… tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn "cũng giấu vào bao". Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để "ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài". Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán điều này điều nọ mà hắn cho là "rõ ràng". Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội nghiệp!

Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại "linh hồn chết" trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.

Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen "kì quặc". Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè". Nhưng hắn đến mà "chẳng nói chẳng rằng", cứ “ngồi im như phổng", mắt thì nhìn quanh "như tìm kiếm vật gì", độ một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bẩy vì sợ rằng "nhỡ hắn biết thì lại phiền". Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ…".

Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ.

Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, "hắn toàn mơ những điều khủng khiếp" vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn "tái nhợt, rầu rĩ" một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đoạ mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.

Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà "chật như cái hộp", hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choán ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhại đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca… Thế là bức tranh biếm hoạ "An-thro-pos si tình" (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh "Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca". Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn "một ấn tượng nặng nề".

Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc hoạ tính cách của Bê-li-cốp người trong bao . Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn.

Bê-li-cốp chẳng gặp "hên" một chút nào! Ngày chủ nhật, mồng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị "mặt mày ửng đỏ… vui vẻ, hớn hở" gào to: "Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!". Bê-li-cốp "ngẩn người ra", như bị choáng, bị ma ám: "Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch". Người trong bao phàn nàn, trách cứ: "Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?".

Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống?

Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên", thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn "mặc áo ấm" lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách "tử tế, đứng đắn" của mình. Lấy tư cách là "bạn đồng nghiệp đi trước", hắn nhắc nhở kẻ "mới bắt đầu đi làm" đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca "hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên". Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì "chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm". Hắn bày tỏ thái độ nào là "phát kinh lên", nào là mắt hoa lên" khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự "thận trọng", không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì "còn ra cái thể thống gì”.

Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: "Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền". Hắn doạ "sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện" đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.

Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo" chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là "tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao "lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li- cốp "sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không", thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà "tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu…

Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca "cười phá lên vang khắp khu nhà". Tiếng cười "ha-ha-ha!" lảnh lót, âm vang ấy "đã chấm dứt tất cả”: "chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp". Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười "lảnh lót" của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lí cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.

Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt "hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh". Phải chăng hắn "mừng" vì được "chui vào cái bao" vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u". Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca "bỗng oà lên khóc". Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?

Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy "nặng nề, mệt nhọc, vô vị" vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, "chẳng tốt đẹp gì hơn trước". Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và "trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!". Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Mọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một chiều mà tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn lại bao nhiều Bê-li-cốp nữa. Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn, và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người "mũ nỉ che tai",  “vòi rụt cổ", "hủ lậu mà tinh tưởng" thời nào, xã hội nào chẳng có!

Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong bao. Phải biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và đạo đức của con người mới. Đọc truyện "Người trong bao", ta tự hỏi bản thân mình phải sống như thế nào cho đáng sống:

Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể một cách tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật dụng, cử chỉ, hành động, ý nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu của một xã hội tù túng, trì trệ.

Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu đời, sống hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc sống tự do, phóng túng của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm "rách nát" cái bao của Bê-li-cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài – cái bao nơi âm phủ. Bức tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-cốp có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.

"Người trong bao" là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả "tự đi tìm bóng mình và soi vào bóng người" để mà sống có ý nghĩa hơn như văn hào Lỗ Tấn đã nói.

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Bài số 2

A.P.Sê-khốp (1860 – 1904) xuất thân từ một gia đình buôn bán nhỏ bên bờ biển A-dốp, miền Nam nước Nga. Ông tốt nghiệp Đại học Y khoa, vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết văn, viết báo và tham gia các hoạt động giáo dục, văn hóa, xã hội. Sê-khốp đã có những đổi mới táo bạo về nghệ thuật viết truyện ngắn và kịch, ông đã để lại cho đời hơn 500 tác phẩm mà nội dung thường xoay quanh những vấn đề có ý nghĩa xã hội và ý nghĩa nhân đạo sâu sắc. Sê-khốp được trao Giải thưởng Pu-skin năm 1887 và được bầu làm Viện sĩ Viện Hàn lâm khoa học Nga năm 1890. Ông được tôn vinh là nhà văn lớn của nền văn học Nga thế kỉ XIX.

Truyện ngắn Người trong bao sáng tác năm 1898, trong thời gian Sê-khốp an dưỡng ở thành phố l-an-ta. Xã hội Nga đương thời đang ở tình trạng bế tắc và ngạt thở bởi bầu không khí chuyên chế nặng nề. Môi trường ấy đã đẻ ra những kiểu người kì quái mà Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình đặc sắc của nhà văn sê-khốp trong tác phẩm Người trong bao.

Qua truyện ngắn này, Sê-khốp phô phán mạnh mẽ kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao” cùng tác hại của nó đối với hiện tại và tương lai nước Nga; đồng thời cảnh báo và kêu gọi mọi người cần phải thay đổi cách sống, không thể sống tầm thường, hèn nhát, ích kỉ, vô vị và hủ lậu mãi như thế.
Truyện kể về Bê-li-cốp, một giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp có có cuộc sống và tính cách dị thường. Anh ta luôn sợ hãi cho nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩ của mình trước người khác. Để tạo cảm giác an toàn, Bê- li-cốp đi giày cao su, che ô, mặc áo bành tô cốt bông, đeo kính đen, kéo cổ áo lên cao giấu kín mặt. Trong cái vỏ bọc linh kỉnh đó, anh ta thấy yên tâm.

Bê-li-cốp say mê và tôn sùng quá khứ đến mức cực đoan. Theo anh ta thì tiếng Hi Lạp cổ là một ngôn ngữ tuyệt vời hơn hết thảy, nhờ nó mà anh ta có thể trốn tránh hiện thực. Thói quen của Bê-li-cốp là đến nhà những giáo viên cùng trường, tự kéo ghế và ngồi im lặng khoảng một tiếng rồi về. Đó là cách anh ta duy trì quan hệ đồng nghiệp. Khi đi ngủ, anh ta thường đóng cửa kín mít rồi kéo chăn trùm đầu mặc dù trời rất nóng, vì sợ nhỡ có việc gì xảy ra thì sao ?

Bê-li-cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va-ren-ca, chị gái của một giáo viên trẻ mới về trường. Có kẻ nào đó đã vẽ bức tranh châm biếm dề dòng chữ Một kẻ si tình rồi gửi cho Bê-li-cốp. Hôm sau, anh ta ngạc nhiên khi nhìn thấy hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp rất nhanh ngoài đường nên quyết định sẽ góp ý với họ. Cô-va-len-cô nổi nóng cự lại và đẩy Bê-li-cốp ngã lộn nhào xuống cầu thang, đúng lúc Va-ren-ca đi đâu về. Va-ren-ca nhìn thấy cảnh đó và cất tiếng cười nhạo báng.

Trở về nhà, Bê-li-cốp vừa buồn bực vừa nhục nhã. Anh ta trùm chăn kín mít và nằm im lặng trên giường, ai hỏi gì thì chi đáp không hay có. Một tháng sau thì anh ta chết.

Cái bao thường dược dùng để gói, đựng đồ vật, hàng hóa, có hình túi hoặc hình hộp. Sê-khốp đã biến nó thành một biểu tượng nghệ thuật giàu ý nghĩa ngụ ngôn trong tác phẩm của mình. Cái bao được tác giả nhắc đến nhiều lần và gắn chặt với nhân vật Bê-li-cốp. Nhà văn đã dùng hình ảnh cái bao để nói về lối sống, tính cách của Bê-li-cốp và hơn thế, ông đề cập đến kiểu “người trong bao”, “lối sống trong bao”, một kiểu người và lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Đây là vấn đề có ý nghĩa xã hội sâu sắc của tác phẩm.

Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.

Chân dung Bê-li-cốp được tác giả miêu tả và thể hiện bằng những nét vẽ thần tình. Chân dung kì quái ấy dần dần được bổ sung, tô đậm thêm, về hình thức, Bê-li-cốp “nổi tiếng” vì cách phục sức khác người: cặp kính đen to tướng che gần hết khuôn mặt nhợt nhạt, choắt như mặt chồn, chiếc áo bành tô cốt bông bẻ cổ đứng lên, lỗ tai nhét bông, chân đi giày cao su… Tất cả các vật dụng lúc không dùng đến anh ta đều để trong bao. 

Bê-li-cốp luôn tự tin và tự hào về cách sống “đúng mực” của mình. Anh ta kinh ngạc và không thể chấp nhận lối sống tự nhiên của chị em Va-ren-ca; thực sự hoảng hốt khi có người dám vẽ bức tranh châm biếm chế giễu tình yêu của mình. Bê-li-cốp càng không hiểu nổi vì sao anh chàng giáo viên Cô- va-len-cô lại có thể đối xử thô bạo, bất nhã với mình đến như vậy ?! 

Quả thật, Bê-li-cốp không hiểu gì về đồng nghiệp, về xã hội và cuộc sống xung quanh. Anh ta luôn đắm chìm trong quá khứ, trong những giáo điều cũ kĩ, lạc hậu, giống như cặp kính đen luôn che kín đôi mắt nhỏ. Bê-li-cốp quả thật là một con người lạc lõng, cô độc và kì quái, chẳng thể nào hòa hợp với mọi người.

Bê-li-cốp luôn trốn tránh cuộc sống hiện tại nhưng lại tôn thờ và ngợi ca quá khứ. Anh ta say mê tiếng Hi Lạp cổ mà rất ít người biết và cho đó là thứ tiếng tuyệt vời. Anh ta sống một cách rập khuôn, cứng nhắc theo những thông tư, chỉ thị của cấp trên, của chính quyền như một người máy vô hồn và cho rằng chỉ những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng. Bê-li-cốp sống trong tình trạng cô độc và luôn luôn lo lắng, sợ hãi, sợ tất cả. Lời nói cửa miệng: …sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì thì sao ? góp phần khắc họa tính cách nhút nhát đến mức lập dị của Bê-li-cốp.

Tính nết kì quặc của Bê-li-cốp còn được tô đậm qua thói quen đến nhà đồng nghiệp ngồi im như phỗng độ một giờ rồi cáo từ. Anh ta cho rằng đó là cách để duy trì mối quan hệ tốt với đồng nghiệp. Buồng ngủ của Bê-li-cốp cũng là một cái bao lớn mang hình dáng của một cái hộp. Đêm đêm, anh ta đóng chặt tất cả cửa lớn cửa nhỏ rồi trùm chăn kín đầu mà ngủ, mặc dù trời nóng bức, ngột ngạt.

Bê-li-cốp tự coi lối sống của mình là “chuẩn mực” nên thỏa mãn, hài lòng với những gì cổ lỗ, lạc hậu. Anh ta tuân thủ “lối sống trong bao” và khẳng định như thế mới là công dân tốt, là viên chức mẫn cán.Trên cơ sở triết lí sống “chui trong vỏ ốc” đó, Bê-li-cốp không thể nào chịu đựng và hiểu nổi cách sống cùng thái độ của mọi người xung quanh, cho nên anh ta hay phán xét và khuyên giải theo ý mình.

Lối sống “trong bao” của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng không nhỏ đến cái xã hội nhỏ bé nơi anh ta dạy học. Ai cũng chán ghét và sợ hãi khi gặp anh ta, không muốn dây vào làrn gì. Cũng có người muốn thử thay đổi cách sống của Bê-li-cốp, song chẳng ăn thua. Lối sống “trong bao” ấy ám ảnh và tác động tiêu cực tới mọi người bởi suốt mười lăm năm trời, họ phải hít thở bầu không khí ô nhiễm do Bê-li-cốp tạo ra. Anh ta đã trùm một cái bóng nặng nề u ám lên bầu không gian của họ, khiến họ có cảm giác nghẹt thở. Mọi người sợ hãi, căm ghét và bị ám ảnh sâu sắc khi Bê-li-cốp còn sống. Bởi vậy khi Bê- li-cốp chết, mọi người nhẹ nhõm như trút đi được gánh nặng, cuộc sống thoải mái, dễ chịu hẳn ra.

 Với Bê-li-cốp, cái chết này là một lôgic tất yếu trong sự phát triển của tính cách nhân vật. Lối sống “trong bao” bản thân nó đã là một cái chết, chết trong khi đang sống. Hơn thế, ngay trong lúc sống, khát vọng mãnh liệt nhất của Bê-li-cốp là được chui vào bao. Kể cả ý nghĩ, vốn là sở hữu của riêng mình anh ta cũng giấu kín, cho vào bao tuốt! Niềm hạnh phúc lớn lao của Bê- li-cốp là từ nay (sau khi chết), anh ta sẽ được nằm trong cái bao vĩnh viễn, không còn phải lo lắng nhỡ lại xảy ra việc gì thì sao?

Hình ảnh cái chết của Bê-li-Cốp là một trong những chi tiết quan trọng của tác phẩm. Bằng cái chết khá lạ lùng này, nhà văn đã tô đậm và đẩy tính cách của nhân vật lên tới điểm đỉnh. Cái chết của nhân vật Bê-li-cốp chỉ ra cho mọi người thấy thực chất lối sống “trong bao” và tính cách ấy đâu phải chi có ở một mình anh ta. Anh ta chết nhưng rồi mọi thứ lại đâu vào đấy, vẫn y nguyên. Cuộc sống vẫn nặng nề, mệt nhọc, vô vị, tù túng y như khi Bê-li-cốp còn sống và kiểu người như anh ta vẫn nhan nhản trên đời. Qua chi tiết ấy, nhà văn Sê-khốp nhấn mạnh rằng Bê-li-cốp chính là điển hình cho một kiểu người, một hiện tượng xã hội đáng báo động trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX. Nó chỉ chấm dứt khi có một cuộc cách mạng xã hội thay đổi tận gốc rễ quan niệm sống, nếu không thì cũng giống như cái xác Bê-li-cốp nằm trong quan tài kia thôi. Mặc dù Bê-li-cốp chết nhưng lối sống “trong bao” của anh ta vẫn tồn tại.

Tài năng của Sê-khốp thể hiện rất rõ qua nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, qua cách chọn ngôi kể, cách xây dựng nhân vật điển hình. Vì thế nến truyện ngắn Người trong bao đã để lại ấn tượng khó quên trong lòng người đọc. Nhân vật điển hình Bê-li-cốp tuy có nét riêng kì quái không giống bất cứ ai nhưng lại tiêu biểu cho một kiểu người, một lối sống khá phổ biến trong xã hội Nga đương thời. Bê-li-cốp đã vĩnh viễn nằm trong bao cách đây hơn thế kỉ, nhưng kiểu “người trong bao” và lối sống “trong bao” cùng những biến thể của nó vẫn tồn tại đây đó trong xã hội hiện đại. Chẳng hạn vẫn có không ít người chẳng bao giờ dám sống thật, nói thật những điều mình nghĩ, hoặc chỉ lo vun vén cho cuộc sống cá nhân, trang bị đầy đủ cho cái bao của mình mà không cần biết đến những người xung quanh. Vì thế mà ý nghĩa thời sự của truyện ngắn Người trong bao cho đến nay vẫn còn nguyên vẹn.

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Bài số 3

Sê Khốp là nhà văn Nga xuất sắc sinh ra và lớn lên trọng một thị trấn nghèo, nhưng ông có được sự hiểu biết to lớn về văn học, và thấu hiểu cuộc đời của những con người trong thời đại mà ông đang sống, chính vì vậy để phản ánh được cuộc sống của những con người đó ông đã viết lên truyện Người Trong Bao để có thể phản ánh về một tầng lớp người trong xã hội Nga cũ.

Truyện đã phản ánh được mạnh mẽ con người Nga lúc bấy giờ, với hình ảnh độc đáo và chi tiết Sê Khốp đã phản ánh được một tầng lớp đáng bị lên án và chê trách mạnh mẽ, những giá trị to lớn mà tác phẩm này để lại đó là dùng lối ẩn dụ và dùng cái riêng để nói về cái chung của cả một thời đại họ đang sống, trong khung cảnh của nước Nga lúc bấy giờ xuất hiện những con người luôn mang trong mình những nỗi khiếp sợ về thế giới bên ngoài, như nhân vật Bê –li- cốp trong truyện đã diễn tả sâu sắc được điều đó. Câu chuyên xoay quanh vấn đề của ông Bê li cốp với một cách sinh hoạt kì quái, tất cả mọi thứ ông đều cất giữ trong bao, ví dụ như ô hắn để trong bao, chiêc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao, đặc biệt cái khuôn mặt của hắn cũng như lúc nào cũng để trong bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt qua chiếc áo bành tô…Mọi thứ của ông đều được gói trong bao, với kiểu cách sinh hoạt kì lạ làm cho người xem có nhiều hứng thú khi quan sát diễn biến của câu chuyện này.

Những tình tiết ly kì của câu chuyện nó xen vào những yếu tố kì lạ của nhân vật làm nên những cảm xúc đặc biệt của người xem, ở đây mọi điều như đang cuốn vào những vóng xoáy của chiếc bao, không thoát khỏi không gian chặt hẹp của nó.. một con người kì lạ đã làm cho người đọc hiểu được một điều rằng con người này chỉ suốt bó mình trong những điều nhỏ nhất của chiếc bao, không dám đi ra thế giới bên ngoài, cuộc sống bó hẹp trong những không gian nhỏ bé và hạn hẹp nhất.

Mọi hành động của ông thật quái dị khiến cho người xem có cảm giác như đang đi sâu vào thế giới của người trong bao với những tình huống làm nên tiếng cười sâu sắc và mạnh mẽ nhất, những nỗi lo sợ và hạn hẹp của ông giáo viên này để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc nhất của con người tư sản của nước Nga thời bấy giờ. Những điều đó đã phản ánh được lối sống thừa thải của một tầng lớp trí thức lúc bấy giờ. Những cách sinh hoạt quái gở đã làm nên một con người trong bao với những diện mạo khiến người xem cảm thấy lực cười, khi sống trong một khoảng không gian bị bó hẹp của những cái bao. Cuộc sống của người giáo viên này dường như không có ý nghĩa, khi kiểu cách sinh hoạt đó làm hạn chế đi những điều tốt đẹp của giới trí thức.

Tất cả mọi điều con người này làm đều mang những tư tưởng sợ hãi, và hàng loạt những chi tiết thể hiện mạnh mẽ được điều đó như trong căn buồng ngủ của ông cũng ngột ngạt và bó hẹp, khi đi ngủ dù trời lạnh hay nóng ông vẫn đắp chăn kín đầu, tất cả mọi thứ đều được bó hẹp trong cảm giác của ông, nó mang cho ông những nỗi sợ hãi, và con người này đã được miêu tả với những chi tiết rất sâu sắc và lột tả mạnh mẽ được lối sống của cả một tầng lớp tri thức Nga lúc bấy giờ, mọi cảm xúc được lan tỏa và thể hiện một cách rõ ràng và chi tiết nhất.

Nhân vật Bê li cốp đã là một đối tượng để nhà văn sử dụng để có thể lột tả chi tiết về xã hội Nga lúc bấy giờ những cảm xúc sâu sắc nhất đã được thể hiện ở đó. Cách sống của ông không chỉ ảnh hưởng đến tầng lớp tri thức mà ông hay tiếp cận mà nó còn ảnh hưởng đến cả một thành phố lớn như Nga, tư tưởng sống bị bó hẹp, với cuộc sống chật vật và gian nan đã mang đậm giá trị cốt lõi là phản ánh đối tượng của tác phẩm là một tầng lớp tri thức bảo thủ ích kỉ, có lối sống hẹp hòi…

Tất cả mọi người khi nhìn thấy con người này chắc hẳn ai cũng đều có cảm xúc riêng và đặc biệt có thể có thái độ khinh bỉ đối với một lối sống lực cười, với kiểu cách khác lạ đã mang đậm giá trị tố cáo phản ánh mạnh mẽ những tầng lớp to lớn của xã hội Nga khi đó, những con người mang trong mình những tri thức nhưng lại hành động một cách bảo thủ và không có lợi ích gì cho xã hội này. Những hình ảnh về mối tình của ông với cô gái Cô-va len cô, nhưng cô ta đã xin Bê li Cốp để cho cô yên, cô đã đẩy ông ta ngã cầu thang, nhưng trong cái vỏ bọc của chính mình, ông đã bình yên vô sự như không có điều gì xảy ra. Nhưng rồi những giọng điệu chê bai đã thể hiện một cách mạnh mẽ và chi tiết nhất đã được thể hiện với những câu cười haha ha tất cả đã mang đậm giá trị và ý nghĩa sâu sắc nhất về con người.

Những tiếng cười đó mang những lời chế diễu sâu sắc nhất đối với chính tác giả, những cảm xúc và sự chấm dứt về cưới xin rồi thì rất nhiều những điều mà trong câu chuyện đang đề cập đến thì chúng ta thấy cuộc sống của nhân vật này đáng để cho con người chê trách và khinh bỉ. Sau vụ đẩy lộn ở trường, hắn trở về nhà với cái bao của chính mình, và sau một tháng hắn chết… trong những chi tiết được miêu tả trong bài là hắn đang im lặng trong chiếc quân tài và đây có lẽ là điều mà cuộc sống của hắn muốn. Tất cả mọi điều đã để lại những cảm xúc sâu sắc nhất trong cái nhìn của mỗi người về cuộc sống nhỏ hẹp của nhân vật. Có lẽ cái chết đó đã mang lại một sự giải thoát mạnh mẽ về tư tưởng của nước Nga lúc bấy giờ tránh khỏi một tư tưởng nhỏ hẹp để ảnh hưởng đến cả một thế hệ lớn. Và cần phải giải thoát nước Nga khỏi tư tưởng và xóa bỏ đi những tầng lớp tri thức bảo thù, ích kỉ này… Tất cả những điều đó ảnh hưởng xấu đến cuộc sống và con người của cả một dân tộc nước Nga.

Tác phẩm đã để lại cho người đọc một cái nhìn sâu sắc nhất về toàn bộ nước Nga thời bấy giờ những cảm xúc đó đã mang đậm những nét đặc trưng và phản ánh sâu sắc về những con người không có chút tư tưởng tiến bộ, cần xóa bỏ đi những con người đó tại xã hội này. Những hoàn cảnh của xã hội cũng được biểu lộ một cách da diết và có ý nghĩa nhất trong cuộc đời của mỗi con người nó đều ngập tràn những cảm xúc và nảy sinh trên đó là biết bao nhiêu bài học quý giá về cuộc đời và ý nghĩa của con người. Một bộ mặt của nước Nga đang dần đang hé mở và biểu lộ một cách có ý nghĩa nhất, chúng ta đang được chứng kiến những khoảng khắc tuyệt vời và mang đậm sự tố cáo, khi tác giả đã vẽ ra một nền xã hội chân thực, với những con người tri thức nhưng mang tầm trưởng giả lớn, điều đó nó làm cho con người của chúng ta đang được biểu lộ một cách có ý nghĩa và chi tiết nhất cho cuộc đời của mỗi con người.

Ở đây những chi tiết đã biểu lộ và thể hiện một cái nhìn đầy màu sắc, trong tâm hồn của con người, họ được sống và rung động trong những khoảng khắc đang nhớ và da diết nhất về cuộc đời của chính mình, biết bao nhiêu cảm xúc và những nỗi nhớ dạt dào khi xã hội đang lâm vào con đường với những lối sống bị bó hẹp mạnh mẽ, và nó thể hiện những nỗi nhớ da diết và trầm lặng trong chính tâm hồn của con người, mỗi chúng ta đều có thể thấy được điều đó, qua những cảm xúc riêng và những nét vẽ tiêu biểu đậm giá trị tố cáo, và phản ánh về xã hội này, mỗi người chúng ta cần phải biết và thấu hiểu nó một cách sâu sắc và có ý nghĩa nhất về cuộc đời và giá trị của mỗi người, khi sống trong xã hội lúc bấy giờ.

Những hình thức xã hội cũ kĩ đã được thay bỏ và nồng ghép vào đó là sự xây dựng nhân vật một cách chi tiết và giàu có về ý nghĩa nhất, nó tố cáo mạnh mẽ tầng lớp và sự thống khổ trong mọi tầng lớp của con người, chúng ta cần phải biết sống và tạo nên được điều đáng quý và hiểu được xã hội đang cần gì, đó là điều tốt nhất.

Phân tích tác phẩm Người trong bao (Sê-khốp) – Bài số 4

An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp là nhà văn nổi tiếng của văn học Nga thế kỉ XIX. Ông là đại biểu kiệt xuất cuối cùng của chủ nghĩa hiện thực phê phán Nga. Vốn là một bác sĩ, ông đã viết văn để chỉ ra những căn bệnh tinh thần của thời đại ông.

Tác phẩm Người trong bao kể về một viên chức có cách sống của một kẻ thích "trong bao". Thực chất, đó là một cách sống trốn tránh, hèn nhát, xu phụ, luôn sống trong sơ hãi. Và chính cách sống đó cũng gây nên một hoàn cảnh đen tối, sự ngột ngạt, khó thở cho chính những người xung quanh. Tâm lí nô lệ, hèn đớn, bạc nhược, tự ti là hình ảnh của cuộc sống công chức Nga cuối thế kỉ XIX, một lối sống thảm hại, bạc nhược khiếp sợ trước cường quyền. Lối sống đó phản ánh bầu không khí ngột ngạt, nặng nề thời chuyên chế bao trùm xã hội.

1. Người trong bao – chân dung mang tính biếm hoạ.

Người trong bao là biệt hiệu người ta gọi Bê-li-cốp – một giáo viên trung học. Bỡi lẽ, hắn có một nếp sống lạ kì: chỉ thích chui vào những cái bao. Qua lời Bu-rkin, một đồng nghiệp : ô hắn để trong bao ; chiếc đồng hổ quả quýt cũng để trong bao ; dao cũng đặt ở trong bao ; bộ mặt dường như cũng ở trong bao ; xe ngựa cũng cho kéo mui lên ; phòng ngủ của hắn cũng chật như một cái hộp ; dù nóng bức, hắn cũng trùm chăn kín đầu ; cả ý nghĩ của mình, hắn cũng cố giấu vào bao. Nói tóm lại, con người này có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hẳn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài.

Hơn thế nữa, trong cách sống, hắn còn tự tạo nên những cái bao vô hình khác, rất an toàn : lúc nào cũng ngợi ca quá khứ ; ca ngợi chữ Hi Lạp, một thứ từ ngữ ; ngợi ca những gì không bao giờ có thật; che giấu cả ý nghĩ.

Với những chi tiết được miêu tả rõ ràng như vậy, chân dung kì quặc của người trong bao đã hiện lên thật sinh động. Bên cạnh đó, hắn còn được đặc tả : lúc nào cũng kè kè giày cao su và cái ô. Chi tiết này nhắc lại nhiều lần làm hoàn chỉnh bức chân dung đầy tính biếm hoạ : người "trong bao"!

Vì sao vậy ? Vì sao hắn luôn muốn trốn trong những cái bao như vậy ? Con người đó sợ cái gì ? Hoá ra, hắn sợ tất cả. Hắn sợ cuộc sống hiện thực với tất cả những cái bề bộn, vừa vui thú, vừa tẻ nhạt, vừa vô nghĩa nhưng cũng có nhiều vẻ đẹp tinh thần, vừa ích kỉ song cũng có cái cao thượng : lấy vợ gả chồng, đọc sách, biết những tư tưởng dân chủ của Tuốc-ghê-nhép, Sê-đrin với những ầm ĩ (tụ tập, tổ chức diễn kịch tại nhà), những việc có vẻ phạm pháp (giới tu hành mà ăn thịt, đánh bài),… Hắn sợ cả những cái vớ vẩn : kẻ trộm chui vào nhà, sợ bị chế giễu, sợ nhìn thấy những cái nghịch mắt. Hắn trốn tránh cuộc sống hiện thực, bởi cuộc sống đó làm cho hắn khó chịu, ghê tởm, và luôn sợ hãi.

Hắn luôn sợ nhỡ lại xảy ra chuyện gì. Ý nghĩ này được nhắc đến năm lần trong câu chuyện, như một nỗi ám ảnh khủng khiếp, khiến hắn không dám nghĩ, dám làm bất cứ điều gì. Ban ngày thì chui vào mọi thứ bao, ban đêm chui vào trong chăn. Và vì sợ hãi quá, nên trốn trong một cái bao là an toàn nhất.

Đó là hình ảnh con người luôn muốn trốn tránh, không dám đối đầii với hiện thực. Vì vậy, khi gặp liển một lúc nhiều phức tạp, biến động, những điều "khủng khiếp" : bị đồng nghiệp trêu chọc về tình cảm của hắn với một cô gái, bị phản đối thô bạo vì những lời dạy dỗ của mình, bị chứng kiến đồng nghiệp tỏ ra không sợ gì cấp trên, bị gọi đúng tên là kẻ mách lẻo, bị cười nhạo vì ngã, sợ ông hiệu trưởng, ông thanh tra biết, sẽ bị chế giễu, bị ép về hưu…, tất cả đã khiến con người luồn sợ có cái gì xảy ra đã không thể chịu đựng được, và hắn đã chết.

Cái chết này cũng là một sự biếm hoạ. Làm sao mà một người bình thường có thể chất và tâm hồn lành mạnh lại có thể chết vì những chuyên vớ vẩn như thế được. Kể cả một kẻ bạc nhược vể mặt tinh thần cũng không dễ chết như vậy. Ngay cả khi chết, dáng vẻ của hắn cũng mang vẻ "trong bao". Hắn có vẻ thanh thản vì đã đạt được mục đích cuộc đời : Không có cái gì xảy ra nữa, hắn đã được chui vào một cái bao vĩnh cửu !

2. Người trong bao – ẩn dụ về tâm lí nô lệ, cuộc sống hèn nhát, nặng nề, ngột ngạt, vô vị.

Tại sao Bê-li-cốp lại sợ tất cả mọi thứ trên đời này như vậy ? Tại sao hắn chọn cho mình lối sống nặng nề, bạc nhược như vậy ? Nhà văn đã chỉ rất rõ : đó là do tâm lí hèn nhát, nô lệ của chính hắn.

Tâm lí đó khiến hắn sợ bất cứ cái gì phiền nhiều của cuộc sống.

Thứ nhất, hắn hèn nhát đến nỗi sợ tất cả những điều khác lạ, sợ cái gì tân tiến, sợ trở thành trò cười cho thiên hạ. Hắn cũng muốn kết giao bè bạn, nhưng chỉ làm người khác sợ hãi vì không biết được những suy nghĩ thật của hắn. Hắn cũng muốn kết hôn, nhưng chỉ cần gặp một trở ngại nhỏ là hắn đã không thể vượt qua : bị chế giễu, bị đối diện với phong cách mới mẻ của cô gái. Bị chế giễu vì chuyện tình cảm, hắn rất buồn bực bởi thấy mình chẳng làm điều gì sơ suất đáng để bị giễu cợt như vậy. Thấy cô gái Va-ren-ca đi xe đạp – thời đó, đi xe đạp là chuyện lạ, nhất là đối với phụ nữ – hắn đã ngạc nhiên đến hoảng hốt, sợ phút kinh lên. Đấy là giọt nước tràn li, hắn không chịu nổi điều đó. Qua cuộc cãi cọ với Kô-va-len-cô, những ý nghĩ của hắn mới dần bộc lộ rõ. Theo hắn, cần phải cư xử cho thận trọng. Đi xe đạp, mặc áo thêu ra đường, tay cầm sách là những việc buông thả, còn phụ nữ đi xe đạp là chuyện kinh khủng, chẳng ra cái thế thống gì nữa. Nghĩa là, hắn luôn trong trạng thái bảo thủ và luôn sống rất mẫu mực, lúc nào cũng xử sự như một người tử tế, đứng đắn. Thực  ra, có lẽ, hắn là một công chức mẫu mực. Nhưng tâm lí luôn sợ những cái vượt ra ngoài chuẩn mực ấy đã khiến con người hắn trở nên bé nhỏ, tầm thường, vô vị và hèn nhát.

Thứ hai, đó là tâm lí đớn hèn, luôn sợ cấp trên. Nô lệ vào cấp trên đến nỗi không dám có ý nghĩ riêng của mình. Đối với hắn, chỉ có những thông tư, chỉ thị mới là cái rõ ràng. Ngợi ca quá khứ, dạy chữ cổ, ngợi ca những cái không có thật, là an toàn. Và an toàn nhất là không làm gì cả, chỉ làm những điều cấp trên cho phép ! Hắn còn giải thích rõ vì sao, cái nguyên nhân sâu xa khiến mọi người không được lùm bất cứ việc gì : nếu không có chỉ thị nào cho phép.

Cấp trên ở đây chính là ông hiệu trưởng, ông thanh tra ! Hắn thấy rằng phải luôn luôn kính trọng cấp trên, và đề nghị mọi người "khi có mặt tôi, đừng bao giờ ăn nói như thế vé cấp trên. Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền"! Vì thế, vừa sợ bị cấp trên hiểu lầm, vừa thấy thái độ không kính trọng cấp trên của đồng nghiệp, hắn đã định mang cuộc cãi cọ của minh với Kô-va-len-cô đi mách với ông hiệu trưởng. Ở đây lại xuất hiện một đặc tính của hắn : luôn xu phụ cấp trên, chỉ điểm, chụp mũ đồng nghiệp (nói những điều không đúng, quy kết sang thái độ chính trị, đạo đức của ai đó). Suy cho cùng, các nét hành động này chính là hệ quả của cách sống hèn nhát : bảo vệ mình bằng cách bôi xấu kẻ khác.

Còn đối với mọi người, tại sao, một giáo viên quèn, dạy môn tiếng Hi Lạp vớ vẩn, lại có thể làm cho mọi người không chỉ quanh hắn, mà cả thành phố sợ hãi ?

Nguồn gốc của tất cả nỗi khiếp sợ ấy, khiến nó có cơ sở để lây lan, chính là tâm lí nô lệ, hèn nhát phổ biến của tất cả mọi người, không chỉ Bê-li-cốp : sợ cấp trên, sợ cường quyền, sợ dư luận, sợ các vãn bản, thống trị, chỉ thị,… Qua phản ứng dữ dội của Kô-va-len-cô, hoá ra mọi người đều sợ bị chụp mũ (tức là bị buộc những tội không phải mình làm) và rất sợ bị chỉ điểm, mách lẻo, bị đưa chuyện với cấp trên. Điều này hình như trong tâm lí, mọi con người đều sợ, như là một thứ sợ bản năng. Vì nó, người ta phải dẹp bớt các nhu cầu, kể cả những nhu cầu chính đáng của mình, và đâm ra nghi ngờ, dò xét lẫn nhau.

Tâm lí sợ hãi ấy như một bệnh dịch, cũng hay lây lan. Bê-li-cốp đến chơi nhà mọi người, chỉ ngồi lì một chỗ, chẳng nói chẳng rằng. Cũng vì chẳng hiểu hắn nghĩ gì, muốn gì, bởi đến cả ý nghĩ, hắn cũng cố giấu, nên rốt cuộc mọi người đâm ra sợ hắn. Chắc là họ sợ hắn sẽ tố cáo họ với cấp trên, sợ hắn như sợ một con chó săn ngồi canh cửa cho chính quyền. Và rồi họ cũng chẳng dám làm gì nữa, kể cả những việc bình thường như diễn kịch, những việc sai phạm nhỏ nhặt như nhà tu đánh hài, ăn thịt, thậm chí cả những việc tốt mang tính tiến bộ, dân chủ như gửi thư, làm quen, đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ,…

Tâm lí sợ hãi ấy chính là cái bao vô hình bao phủ thường trực cuộc sống của tất cả mọi người. Cái bao đó không chỉ bao bọc Bê-li-cốp mà còn bao phủ một bức màn u ám lên cuộc sống của con người trong thị trấn suốt mười lăm năm. Mười lăm năm, thật là một cuộc sống khủng khiếp, không ra cuộc sống con người.

Nhưng mười lăm năm ngột ngạt, không dám làm gì ấy, theo người kể chuyện, cứ tướng là do sự hiện diện của "kẻ trong bao". Nhưng không ngờ, kẻ trong bao dù đã chết rồi, không khí ngột ngạt, bức bối vẫn bao trùm cuộc sống của người dân thành phố. Hoá ra, cái không khí ngột ngạt ấy là do chính cách sống của mọi người tạo nên. Điều dó đã được chính bác sĩ I-van tổng kết : "chúng ta viết những giấy tờ vô dụng, đánh bài đánh bạc…, sống cả đời bên những kẻ vô công rồi nghề" (kẻ đã châm biếm tình cảm của Bê-li-cốp), "những kẻ xui nguyên giục bị" (Bê-li-cốp định mách lẻo với cấp trên), "những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si" (tiếng cười ha ha vô duyên của Va-ren-ca khi nhìn người khác bị ngã là ví dụ), "chúng ta nói và nghe đủú thứ chuyện nhảm nhí, vô nghĩa". Tất cả đó là những cái bao, làm không khí ngột ngạt, u ám, tối tăm. Như vậy, lỗi cũng chẳng phải là do lối sống của kẻ trong bao, mà là lỗi của chính cuộc sống thị dân tăm tối, vô nghĩa.

Cái u ám của cuộc sống bị bóp nghẹt tự do, dân chủ, dưới sự độc đoán, tàn bạo, luôn có nhà tù, xích xiềng kề bên, cuộc sống tăm tối đó của nước Nga dưới chế độ chuyên chế đã ánh chiếu vào trong đời sống của những kẻ thị dân này.

Và cần phải có một cuộc sống khác ! Không thể sống mãi như thế được ! Đó là lời cảnh báo và cũng là lời phê phán mạnh mẽ lối sống tiêu cực đó của nhà văn Sê-khốp.

Bức chân dung mang tính biếm hoạ người trong bao đã cho thấy một thực trạng đang phổ biến ở nước Nga thời bấy giờ : sự bạc nhược, ốm yếu về tinh thần với tâm lí nô lệ, hèn nhát là một trạng thái thường trực của thời đại, hệ quả của sự bóp nghẹt dân chủ và tự do. Muốn vượt qua được tâm lí đó, cần có một lối sống khác và những điều kiện xã hội dân chủ cởi mở hơn. Điều ấy, phải do chính những con người dám dũng cảm cải tạo căn bệnh tinh thần của thế hộ mình và phải cùng nhau xây dựng một chế độ tốt đẹp, để có thể giải phóng chính mình, giải phóng con người khỏi những xích xiềng tinh thần vô nghĩa.

Vũ Hường tổng hợp

0