Nhìn lại Chiến tranh Vùng Vịnh 1990-1991
Công Thuận Cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (17/1/1990 – 28/2/1991) giữa một bên là Iraq và bên kia là lực lượng liên quân gần 30 quốc gia, do Mỹ đứng đầu, là cuộc xung đột lớn đầu tiên sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Mỹ coi Trung Đông là trọng điểm thực hiện chiến lược toàn cầu chi ...
Công Thuận
Cuộc chiến tranh Vùng Vịnh (17/1/1990 – 28/2/1991) giữa một bên là Iraq và bên kia là lực lượng liên quân gần 30 quốc gia, do Mỹ đứng đầu, là cuộc xung đột lớn đầu tiên sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc. Mỹ coi Trung Đông là trọng điểm thực hiện chiến lược toàn cầu chi phối các nước khác. Vì thế, cuộc xâm lược của Iraq vào Kuwait năm 1990 là cơ hội “ngàn năm có một” để Washington thực hiện ý đồ của mình.
I.Cuộc xâm lược Kuwait
Bối cảnh cuộc chiến
Quan hệ Iraq – Kuwait đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài, nhưng với tư cách là hai quốc gia độc lập mới thực sự chỉ bắt đầu sau khi Iraq tiến hành cuộc cách mạng chống đế quốc, lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế năm 1958 và khi Kuwait tuyên bố độc lập năm 1961. Tuy nhiên, những hậu quả nặng nề trên nhiều mặt, đặc biệt là vấn đề lãnh thổ không rõ ràng do các thế lực phong kiến, đế quốc gây ra đã dẫn đến những mâu thuẫn, bất đồng kéo dài giữa hai nước. Điều đó giải thích nguyên nhân sâu xa việc Iraq đem quân xâm lược Kuwait – một quốc gia cùng trong cộng đồng các nước Arập – để rồi chấp nhận một cuộc đối đầu không cân sức với Mỹ và liên quân.
Vào những năm cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, sau khi phát hiện ra nguồn dầu lửa to lớn, Trung Đông trở thành “miếng mồi” của các cường quốc phương Tây. Ở chiều ngược lại, để tồn tại, các nước Trung Đông – Vùng Vịnh cũng tìm cách dựa vào các thế lực phương Tây. Đây chính là điều kiện lý tưởng để các nước phương Tây xâm nhập và tranh giành ảnh hưởng tại khu vực rộng lớn nhiều tài nguyên này.
Năm 1958, nước Cộng hòa Iraq ra đời. 3 năm sau, Kuwait cũng tuyên bố độc lập và tham gia Liên đoàn Arập và Liên hợp quốc, nhưng phía Iraq đã không công nhận đường biên giới thiếu rõ ràng với Kuwait. Quan hệ hai nước còn bất đồng về chủ quyền đối với hai hòn đảo Warbah và Bubiyan phía tây vịnh Persian. Năm 1973, Iraq chiếm một đồn biên phòng của Kuwait, nhưng sau đó buộc phải rút quân do sự phản đối mạnh mẽ của các nước Arập. Năm 1975, hai bên ngồi vào bàn đàm phán để giải quyết những bất đồng trên hai vấn đề lớn là biên giới và chủ quyền hải đảo, nhưng không đi đến kết quả.
Trong những năm 80, quan hệ hai nước có chiều hướng bớt căng thẳng vì Iraq mải lo chiến tranh với Iran. Trong cuộc chiến đẫm máu này, với tư cách là “anh em Arập”, Kuwait đứng về phía Iraq, tài trợ cho Iraq 17 tỷ USD để tiến hành chiến tranh chống lại một nước phi Arập. Trớ trêu thay khi chiến tranh Iraq – Iran kết thúc thì cũng là lúc bất đồng giữa Iraq và Kuwait nổi lên.
Trong cuộc họp thượng đỉnh của Liên đoàn Arập tại Bagdad (5/1990), Tổng thống Iraq Sadam Hussein tố cáo các nước Arập, đặc biệt là Kuwait sản xuất dầu quá mức hạn định, khiến giá dầu thô hạ, gây thiệt hại cho Iraq. Hussein đòi các nước Arập phải xóa nợ viện trợ cho nước này.
Sau đó, phía Iraq còn tố cáo Kuwait khai thác dầu mỏ ở Rumaila, vùng đất vẫn đang tranh chấp giữa hai nước. Để giải quyết những bất đồng giữa hai bên, một số nước Arập như Ai Cập, Saudi Arabia… đã tiến hành các hoạt động hòa giải. Nhưng chính trong giai đoạn này, Iraq bắt đầu triển khai lực lượng quân sự ở vùng biên giới. Đến ngày 30/7/1990, Iraq đã tập trung khoảng 10 vạn quân, 300 xe tăng, 300 khẩu pháo hạng nặng, tiến hành lập các tuyến tiếp tế phục vụ cho việc triển khai lực lượng, phương tiện chiến tranh. Mục đích của việc này là gây áp lực với Kuwait trên bàn đàm phán, nhưng cũng là hành động sẵn sàng đánh chiếm Kuwait khi thương lượng thất bại. Và thực tế cuộc đàm phán giữa hai nước ngày 30/7/1900 tại Jeddah (Saudi Arabia) hoàn toàn bế tắc do lập trường khác biệt giữa hai bên.
Tấn công
Ngày 2/8/1990, sau 1 ngày cuộc thương lượng không thành, quân đội Iraq tiến hành đánh chiếm Kuwait. Đúng 1 giờ sáng, 3 sư đoàn của bộ chỉ huy các lực lượng Vệ binh cộng hòa (RGFC) đã vượt biên giới tấn công vào Kuwait, một sư đoàn bộ binh cơ giới và một sư đoàn thiết giáp thực hiện cuộc tấn công theo hướng nam dọc theo trục Sapwan-Abdally, tiến tới đèo Al-Jalra. Một sư đoàn thiết giáp khác tấn công yểm trợ từ phía tây. Cùng lúc, vào 1 giờ 30 phút, một lực lượng tác chiến đặc biệt thực hiện cuộc tấn công đầu tiên vào thủ đô Kuwait City – một cuộc tấn công bằng trực thăng vào các cơ sở chủ chốt của chính phủ Kuwait.
Trong khi đó, các đội biệt kích đổ bộ bằng đường biển tấn công vào cung điện của quốc vương và các cơ sở quan trọng khác của Kuwait. Quốc vương nước này đã kịp trốn sang Saudi Arabia, nhưng người em trai của ông bị sát hại trong khi quân Iraq tấn công vào cung điện Dasman. Đến tối 2/8, xe tăng của Iraq đã tiến về phía nam dọc theo bờ biển để đánh chiếm những hải cảng.
Các lực lượng vũ trang của Kuwait đã không thể chống chọi lại một lực lượng tập trung và bị đánh quỵ một cách vô vọng. Một vài đơn vị phải rút sang biên giới với Saudi Arabia do tuyến phòng thủ bị vỡ, máy bay Kuwait thì chỉ thực hiện được những vụ không kích có giới hạn vì hai sân bay quân sự chính của nước này đã bị quân Iraq chiếm.
Đến giữa trưa 3/8, quân Iraq đã chiếm được các vị trí gần biên giới với Saudi Arabia. Ngày 4/8, xe tăng của Iraq thiết lập các vị trí phòng thủ. Hàng trăm xe hậu cần di chuyển người, đạn dược và đồ tiếp tế xuống phía nam, các sư đoàn bộ binh được triển khai ở vùng biên giới vào cuối tháng 7 đã di chuyển chiếm đóng Kuwait City và đảm bảo được tuyến liên lạc ban đầu đi và đến vùng phía nam của Iraq.
Ngày 6/8, quân Iraq tiếp tục củng cố và bổ sung lực lượng. Vào thời điểm này, ít nhất 11 sư đoàn Iraq đã ở hoặc đang tiến vào Kuwait với quân số lên tới 200.000 người, được trên 2.000 xe tăng yểm trợ. Hai ngày sau, Saddam Hussein thông báo sáp nhập đất nước nhỏ bé Kuwait thành “tỉnh thứ 19” của Iraq.
II. Âm mưu chiến lược của Mỹ
Ý đồ của Iraq
Có thể nói, việc Iraq đưa quân vào Kuwait là hành động vi phạm chủ quyền của một quốc gia độc lập, vi phạm luật pháp quốc tế. Không có lý do chính đáng nào giải thích cho hành động này của Iraq. Vậy mục tiêu, ý đồ của Iraq là gì?
Trước hết, theo như Tổng thống Sadam Hussein tuyên bố ngày 25/8/1990: “Kuwait là một vật cản khiến Iraq không có lối ra biển”. Trên thực tế, hai đảo Warbah và Bubiyan thuộc Kuwait nằm án ngữ hầu hết 29 km bờ biển của Iraq, chặn con đường giao thông từ cảng Umm Qasr của Iraq ra Vịnh Persian. Như vậy, Iraq chiếm Kuwait chính là thực hiện mục tiêu “mở đường thông ra biển” hoặc ít nhất cũng thành lập được một chính phủ ở Kuwait thân Iraq, sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của nước này vô điều kiện.
Việc tồn tại một chính phủ thân với mình như vậy phù hợp với yêu cầu của Iraq trên mọi phương diện. Một là, Iraq không bị lên án là xâm lược vì đã đưa quân vào Kuwait để xóa bỏ một thể chế quân chủ lỗi thời. Hai là, bằng việc thương lượng với chính phủ Kuwait dưới sự bảo trợ của mình, Iraq có thể mở rộng cảng Umm Qasr, một đầu mối quan trọng giúp phát triển kinh tế nước này. Ba là, vấn đề biên giới giữa hai nước sẽ được giải quyết dễ dàng và có lợi cho Iraq.
Một mục tiêu không kém phần quan trọng của Iraq là nếu sáp nhập Kuwait với lý do “thu lại phần lãnh thổ bị mất” thì nghiễm nhiên Iraq có thêm một nguồn dầu lửa khổng lồ, chiếm 20% trữ lượng dầu lửa thế giới. Mặt khác, Kuwait là một nước giàu có hơn hẳn Iraq với hàng trăm tỷ USD gửi ở các ngân hàng nước ngoài, lợi tức hàng năm khoảng 8,8 tỷ USD sẽ giúp Iraq bù vào sự thiếu hụt ngân sách do nền kinh tế bị suy sụp sau cuộc chiến với Iran trước đó. Chính những toan tính trên đã dẫn Tổng thống Iraq lúc đó có quyết định sai lầm, nguy hiểm. Để biện minh cho hành động tấn công Kuwait, ông Hussein nói: “Sự can thiệp của Iraq vào Kuwait cho phép chấm dứt sự phân chia giàu nghèo giữa thiểu số giàu có và đa số nghèo khó”.
Cuối cùng, mục tiêu bao trùm nhất mà Iraq theo đuổi từ lâu là trở thành một cường quốc trong khu vực có khả năng chi phối Vùng Vịnh và các nước Arập, hay nói cách khác, Iraq là người lãnh đạo, là “thanh mã tấu” của thế giới Arập. Trên thực tế, Iraq đã là một cường quốc quân sự tại Vùng Vịnh và cả Trung Đông. Với 1 triệu quân, 6.000 xe tăng và xe bọc thép các loại, gần 700 máy bay chiến đấu hiện đại, sản xuất được vũ khí hóa học, sinh học và triển khai một số cơ sở nghiên cứu vũ khí hạt nhân… không một nước Arập nào, kể cả Ai Cập, đạt được tiềm lực quân sự lớn như vậy vào thời điểm đó.
Toan tính của Mỹ
Với ý đồ và tham vọng của mình, quyết tâm chiếm Kuwait của Iraq được củng cố thêm bằng hành động dường như “bật đèn xanh” của Mỹ. Thông qua đường ngoại giao, Mỹ khẳng định (25/7/1990): “Không có ý kiến gì về những cuộc xung đột giữa các nước Arập”. Đặc biệt, trước Ủy ban đối ngoại của Quốc hội, Thứ trưởng Ngoại giao Mỹ John Kelly lúc đó nói: “Chúng ta ủng hộ nền độc lập và an ninh của các nước bạn trong khu vực. Chúng ta đã duy trì lực lượng hải quân tại đây nhưng chúng ta không có hiệp ước phòng thủ với các nước Vùng Vịnh. Điều này là rõ ràng”. Phải chăng đó là những tín hiệu về sự “không can thiệp” của Mỹ?
Tờ Newsweek tháng 3/1991 đã đăng bài phát biểu của một nghị sĩ Mỹ trong đó tiết lộ cuộc mặc cả giữa Tổng thống Saddam Hussein với Tổng thống Ai Cập Mubarak ngay từ tháng 5/1990 rằng: “Chúng ta sẽ đưa quân vào Saudi Arabia và Kuwait để lập lại sự bình đẳng về lợi ích kinh tế trong vùng”. Trước đó, ông Hussein cũng nói với vua Fahd của Saudi Arabia rằng “không có gì phải áy náy về việc cho rằng Vùng Vịnh không nên có các quốc gia nhỏ, phải sáp nhập họ vào các quốc gia lớn”.
Rõ ràng, việc Iraq có ý định đưa quân vào Kuwait đã được “2 người bạn” (Ai Cập và Saudi Arabia) của Mỹ biết trước và vì thế Mỹ không thể không biết. Song xuất phát từ ý đồ “lập lại trật tự, củng cố quyền lợi ở Trung Đông”, Mỹ không những không có hành động ngăn chặn mà còn đẩy nhanh quá trình Iraq xâm lược Kuwait.
Ngay cả khi Iraq, trước sự phản đối của dư luận, tuyên bố rút một phần lực lượng khỏi Kuwait, nhưng Mỹ vẫn không từ bỏ việc sử dụng sức mạnh quân sự, vẫn đưa quân đến Vùng Vịnh. Tại sao vậy? Phải chăng đây là một cơ hội có một không hai để Mỹ “thủ tiêu” Iraq – mối đe dọa đối với lợi ích của Mỹ ở Trung Đông? Quả thực, thế giới không có lợi ích gì trong việc “khôi phục ngai vàng” của quốc vương Kuwait mà chỉ quan tâm đến việc “giá dầu có theo giá thị trường” hay không.
Có thể khẳng định rằng việc đưa quân vào Kuwait của Iraq không nằm ngoài dự kiến của Mỹ và vì vậy Mỹ tìm mọi cách đẩy Iraq vào một tình thế “tiến thoái lưỡng nan”, từ đó tạo cớ đánh Iraq. Không phải ngẫu nhiên mà người đứng đầu tòa thánh Vatican lúc đó, Giáo hoàng Paul II lại khẳng định: “Mưu toan đẩy tới một cuộc chiến tranh đã có từ rất lâu, trước khi Iraq xâm lược Kuwait”.
III.Phản ứng của thế giới
Cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh được khởi đầu với việc Iraq tấn công Kuwait là một hành động gây bất ngờ đối với các thành viên Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (HĐBA LHQ). Phản ứng hầu như đồng loạt của các nước được thể hiện thông qua thái độ bỏ phiếu thuận đối với Nghị quyết (NQ) 660 lên án việc đánh chiếm Kuwait.
Thái độ của Anh và Pháp (2 trong số 5 nước ủy viên thường trực HĐBA) về cơ bản là giống nhau và có khuynh hướng tận dụng tối đa việc gây sức ép để buộc Iraq nhượng bộ, hơn là sử dụng vũ lực. Hai nước này e ngại cuộc đối đầu quân sự, nếu xảy ra với quy mô lớn, có thể gây ra thảm họa và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích lâu dài của họ ở Vùng Vịnh. Vì vậy, trong suốt cả thời kỳ trước khi chiến sự giữa Iraq và liên quân bùng nổ, Anh và nhất là Pháp cũng có những nỗ lực tìm kiếm giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột. Ngay khi cuộc chiến tranh Iraq xảy ra, các nước cũng tuyên bố là để giải phóng Kuwait chứ không phải để tấn công Iraq.
Với 2 nước ủy viên thường trực HĐBA khác, trong thời gian này, Liên Xô đang có những khó khăn nội bộ, công khai tuyên bố không cử binh sỹ tham gia liên quân, trừ trường hợp lực lượng này đặt dưới sự chỉ huy của LHQ. Mặc dù tán thành việc sử dụng vũ lực buộc Iraq tuân thủ NQ của HĐBA nếu các biện pháp hòa bình không mang lại kết quả, nhưng Liên Xô vẫn có nhiều nỗ lực ngoại giao nhằm trì hoãn việc bùng nổ chiến tranh và cảnh cáo hành động vũ trang của liên quân chống Iraq “có nguy cơ vượt quá quyền hạn mà NQ của LHQ đề ra”.
Cũng vậy, Trung Quốc vừa thoát khỏi sự kiện Thiên An Môn, lợi ích chiến lược lúc này là cải thiện quan hệ với các nước lớn như Mỹ, Nhật, Liên Xô và khu vực Tây Âu nên mặc dù có quan hệ với Iraq, Trung Quốc vẫn chấp nhận thỏa hiệp với các nước thành viên thường trực khác của HĐBA. Trung Quốc một mặt tìm cách ngăn ngừa sử dụng vũ lực tấn công Iraq, mặt khác do lợi ích của mình nên đã chọn giải pháp có lợi nhất là bỏ phiếu thuận các NQ lên án Iraq và bỏ phiếu trắng NQ 678 cho phép sử dụng vũ lực chống Iraq.
Thái độ của các nước thành viên không thường trực HĐBA cũng theo hướng phản đối Iraq. Nhóm phương Tây phát triển như Canada, Áo, Phần Lan đồng nhất với Mỹ vì có lợi ích tương tự ở Vùng Vịnh. Đối với các nước đang phát triển, việc thôn tính Kuwait của Iraq là hành động đi ngược lại với xu thế chung, nhất là đối với các nước nhỏ, đặt họ trước những nguy cơ bị thôn tính bằng vũ lực, cản trở tiến trình giải quyết các cuộc tranh chấp khu vực bằng biện pháp hòa bình.
Mỹ “không khoan nhượng”
Trong khi đó, nhân danh LHQ, Mỹ một mặt tuyên bố sẵn sàng cho mọi giải pháp đồng thời tích cực cô lập Iraq, tập hợp liên minh chống Iraq và động viên một lực lượng quân sự khổng lồ đến Vùng Vịnh. Có nhiều nguyên nhân kinh tế, chính trị đã thúc đẩy Mỹ đứng ra đảm nhận vai trò “cầm cờ” trong cuộc chiến chống Iraq.
Cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh đã tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế thế giới. Ngay khi khủng hoảng xảy ra, giá dầu mỏ ở hầu hết các nơi trên thị trường thế giới đều tăng vọt, dẫn đến một cuộc khủng hoảng năng lượng mới, khiến nền kinh tế nhiều nước lao đao vì sự phụ thuộc vào dầu nhập khẩu. Đáng chú ý là khủng hoảng Vùng Vịnh diễn ra trong bối cảnh kinh tế Mỹ đang đứng bên bờ vực suy thoái. Đây là một trong những nguyên nhân trực tiếp khiến Mỹ phản ứng nhanh chóng và đưa một lực lượng lớn quân đội vào Vùng Vịnh.
Mặt khác, từ sau Chiến tranh thế giới thứ 2, Mỹ ra sức gạt bỏ vai trò của Anh, Pháp ở khu vực Trung Đông, dùng Israel và Iran làm chỗ dựa cho việc thực hiện ý đồ khống chế khu vực. Nhưng cách mạng Iraq (1958) và Iran (1979) đã làm hỏng tính toán đó của Mỹ. Ngoài ra, Iraq, với một lực lượng quân đội hùng mạnh ở Trung Đông, có khả năng làm “đối trọng” với đồng minh của Mỹ trong khu vực là Israel. Đặc biệt, giới lãnh đạo Iraq từ lâu đã theo đuổi chính sách đối ngoại không phù hợp với lợi ích của Mỹ, vì vậy Iraq đã trở thành “vật cản” đối với chiến lược của Washington tại khu vực.
Mục tiêu tiếp theo của Mỹ, thông qua việc tiến hành chiến tranh, là khống chế khu vực dầu mỏ giàu có của Vùng Vịnh, vốn chiếm hơn 30% sản lượng dầu mỏ của thế giới, từ đó khống chế Nhật Bản và Tây Âu – những nước phụ thuộc lớn vào nguồn dầu mỏ Vùng Vịnh, buộc những đối thủ kinh tế này nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Mỹ.
Cuối cùng, thông qua việc khuất phục Iraq, Mỹ có thể khẳng định vai trò siêu cường duy nhất trên thế giới đồng thời có cơ hội thử nghiệm những loại vũ khí hiện đại. Đó là những lý do giải thích tại sao Mỹ đã cứng rắn, phản ứng nhanh chóng, quyết liệt và không khoan nhượng đối với hành động của Iraq, bất chấp những nỗ lực hòa bình của các nước khác và bất chấp cả việc vượt quá phạm vi cho phép của NQ của HĐBA.
Trong thời gian Iraq mang quân xâm chiếm Kuwait đến trước khi liên quân do Mỹ đứng đầu phát động cuộc tấn công chống Iraq (2/8/1990 – 15/1/1991), HĐBA đã thông qua liên tiếp 12 NQ liên quan đến cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh. Nhìn chung, những NQ này đều khẳng định đây là một hành động phá hoại hòa bình, an ninh quốc tế và yêu cầu Iraq rút quân ngay lập tức ra khỏi Kuwait vô điều kiện, đồng thời yêu cầu hai nước đàm phán ngay để giải quyết bất đồng. Xét về bối cảnh quốc tế và khu vực, Iraq mất chỗ dựa Liên Xô trước đây, không có đồng minh, bị cô lập cao độ về ngoại giao và bị phong tỏa về kinh tế, nên hết sức bất lợi.
IV. Màn dạo đầu của cuộc khủng hoảng
Nổi lên từ cuộc chiến tranh Iran – Iraq ở cương vị lãnh đạo một cường quốc quân sự nổi bật ở Vùng Vịnh, Saddam Hussein tự cho mình là một nhà lãnh đạo cao nhất trong thế giới Arập. Tháng 4/1990, ông tuyên bố có một vai trò to lớn hơn trong khu vực và yêu cầu Mỹ phải rút khỏi Vùng Vịnh, cho rằng khu vực này không cần có sự hiện diện của nước ngoài. Ngày 1/7, Hussein tuyên bố Iraq sở hữu vũ khí hóa học – “một vũ khí răn đe đủ để chọi với vũ khí nguyên tử của Israel”. Đồng thời, nhà lãnh đạo Iraq đưa ra vài bài phát biểu có tính chất khiêu khích, cho rằng một mình Iraq đã bảo vệ “dân tộc Arập” chống lại mối đe dọa lâu đời của vùng Vịnh Persian (ám chỉ Israel).
Vào thời điểm cuộc xâm lược Kuwait, quân đội Iraq là một đơn vị thiện chiến đã qua thử thách. Iraq bắt đầu cuộc chiến tranh với hơn 1 triệu quân tương đương 69-71 sư đoàn, 100.000 xe tăng và xe bọc thép chở quân, 3.000 khẩu pháo lớn. Iraq có lực lượng mặt đất lớn nhất Vùng Vịnh và thứ 4 thế giới. Không quân cũng lớn: 700 máy bay chiến đấu với nhiều loại máy bay tiêm kích, cường kích hiện đại bậc nhất (E18, MIG-29, Su-24) và một hệ thống chỉ huy kiểm soát phòng không hiện đại (C2). Lực lượng phòng không mạnh với tên lửa phòng không SAM-3-6, tên lửa Roland, 7.000 khẩu pháo phòng không…
Về hải quân, Iraq chỉ có tàu tuần dương nhưng được trang bị tên lửa Styx (tầm bắn 46 – 95 km) và có tên lửa “con tằm” (100 km), nhiều thủy lôi chạm nổ. Ngoài ra, Iraq còn có các loại tên lửa Scud (tầm bắn 600 – 700 km) mang đầu đạn thường hoặc hóa học, sinh học và có tin nước này đang chuẩn bị sản xuất vũ khí hạt nhân.
Trong 6 tháng cuối cùng của cuộc chiến tranh Iran-Iraq, quân đội Iraq đã thể hiện một khả năng tác chiến hiệp đồng quân binh chủng, trên nhiều trục, với sự tham gia của nhiều quân đoàn thọc sâu vào trong lãnh thổ của đối phương… Quân đội Iraq đã phát triển một hệ thống bảo đảm an ninh và đánh lừa đối phương tốt ở cấp chiến dịch. Các lực lượng vũ trang của Iraq được cơ cấu như quân đội Anh, nhưng các hoạt động tác chiến của lực lượng này lại gần giống với các lực lượng vũ trang Xô Viết.
Tuy nhiên, việc Iraq xâm lược Kuwait đã dẫn đến hậu quả hết sức nghiêm trọng. Một là, Mỹ có cớ để can thiệp vào Vùng Vịnh với chiêu bài “giải phóng Kuwait”, tập hợp lực lượng tiến hành cuộc chiến tranh chống Iraq. Ngay sau khi đưa quân tiến công Kuwait, Tổng thống Saddam Hussein đã phải đối mặt với một bất lợi ngoài dự kiến là vấn đề không chỉ dừng lại ở khu vực các nước Arập mà nhanh chóng lan rộng ra toàn thế giới với sự bất lợi về chính trị cho nước này. Cụ thể, HĐBA LHQ với sự thao túng của Mỹ đã đưa ra một loạt NQ trong đó có NQ 678 (29/11/1990) cho phép sử dụng vũ lực trừng phạt Iraq.
Hai là, việc Iraq xâm lược Kuwait làm cho mối quan hệ giữa các nước Arập vốn đã lỏng lẻo càng chia rẽ hơn bao giờ hết. Liên đoàn Arập được thành lập tháng 3/1945 với mục tiêu đoàn kết chống lại chủ nghĩa thực dân, bảo vệ quyền lợi của dân tộc Arập, song giữa các nước thành viên vẫn âm ỉ những mâu thuẫn nội tại khó điều hòa.
Có thể thấy những mâu thuẫn đó qua quan hệ giữa Iraq và Syria đối với cuộc nội chiến ở Liban, trong đó mỗi nước ủng hộ 1 phe phái; giữa Iraq và Ai Cập – nước có cùng tham vọng làm lãnh đạo thế giới Arập; giữa các nước Arập đối với vấn đề giải phóng các vùng đất bị Israel chiếm đóng, trong đó một số nước ủng hộ giải pháp vũ lực, một số nước muốn thương lượng hòa bình…Và đặc biệt là những mâu thuẫn hết sức nhạy cảm ẩn chứa trong lòng thế giới đạo Hồi, giữa các dòng đạo khác nhau với những quan niệm riêng về giáo lý, lễ phục… Tất cả những mâu thuẫn nội tại đó thường bùng nổ quyết liệt bởi sự “nhòm ngó” của phương Tây.
Như vậy, cuộc khủng hoảng Vùng Vịnh với việc Iraq xâm lược Kuwait và sau đó liên quân do Mỹ đứng đầu tiến hành cuộc chiến tranh hủy diệt Iraq, là sự bùng nổ những mâu thuẫn từ lâu giữa các nước trong thế giới Arập – đạo Hồi, giữa thế giới Arập – đạo Hồi với Mỹ và phương Tây. Thế giới Arập vốn là một dân tộc có tiếng nói chung, phong tục tập quán chung và một nền văn minh chung, nhưng trong quá trình lịch sử đã hình thành hơn 20 quốc gia có chế độ chính trị khác nhau và do đó cũng nảy sinh những mâu thuẫn chồng chéo và hết sức phức tạp. Tất cả những mâu thuẫn đó trở nên phức tạp hơn khi có sự lũng đoạn, tranh giành quyền lợi của các nước phương Tây tại khu vực này.
V. Chiến dịch “Lá chắn sa mạc”
Chỉ vài giờ sau khi Iraq tấn công Kuwait, các phái đoàn ngoại giao của Kuwait và Mỹ đã yêu cầu HĐBA LHQ nhóm họp, thông qua NQ 660, lên án cuộc xâm lược và yêu cầu Iraq rút quân. Ngày 3/8, Liên đoàn Arập cũng thông qua NQ của riêng mình lên án cuộc xâm lược và đòi Iraq rút quân, đồng thời kêu gọi nội khối tìm ra một giải pháp cho cuộc xung đột và cảnh báo chống lại sự can thiệp từ bên ngoài.
Việc Iraq chiếm đóng Kuwait đặt ra vấn đề khẩn cấp đối với các nhà hoạch định quân sự của Mỹ. Lầu Năm Góc đánh giá: Iraq đã kiểm soát 20% lượng dầu của thế giới tại Kuwait và đang uy hiếp Saudi Arabia – nước cũng có trữ lượng dầu hỏa chiếm 20% lượng dầu của thế giới. Nếu Iraq xâm lược Saudi Arabia và chiếm đóng các bến cảng của nước này thì việc Mỹ can thiệp sẽ hết sức khó khăn và tốn kém. Do đó, Tổng thống George H. W. Bush nhanh chóng thông báo rằng Mỹ sẽ tung ra một chiến dịch “bảo vệ toàn diện” nhằm ngăn chặn Iraq tấn công Saudi Arabia hay còn gọi là chiến dịch
“Lá chắn sa mạc”.
Mục tiêu quân sự của Mỹ trong chiến dịch này là: Phát triển 1 khả năng phòng thủ ở Vùng Vịnh để ngăn chặn không cho lực lượng của Tổng thống Saddam Hussein tấn công thêm nữa; bảo vệ Saudi Arabia nếu răn đe thất bại; xây dựng một liên quân có hiệu quả và hợp nhất các lực lượng của liên quân vào kế hoạch tác chiến; và cuối cùng thực hiện trừng phạt kinh tế theo các NQ 661 và 665 của HĐBA LHQ. Để thực hiện chiến dịch “Lá chắn sa mạc”, Bộ Tư lệnh Vận tải Hàng không quân sự Mỹ lập một cầu không vận lớn nhất từ trước tới nay, giữa Mỹ – châu Âu – Saudi Arabia, cơ động lực lượng, phương tiện, vũ khí trang bị tới Vùng Vịnh.
Theo đó, Mỹ ra lệnh cho các tàu sân bay di chuyển đến vịnh Oman và biển Hồng Hải. Ngày 5/8, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ cùng chỉ huy Bộ Tư lệnh Trung tâm sẵn sàng đưa quân sang Saudi Arabia và bảo đảm sẽ rút quân khỏi nước này sau khi hoàn thành nhiệm vụ. Cùng ngày, Vua Fahd của Saudi Arabia đề nghị Mỹ can thiệp.
Trong khi đó, Tổng tư lệnh Bộ chỉ huy Trung tâm (CINCCENT) báo cáo với Bộ trưởng Quốc phòng, các cố vấn chủ chốt và Chủ tịch Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân Mỹ (CJCS) về hai phương án sử dụng lực lượng quân sự để đánh Iraq. Một phương án gồm tấn công trả đũa bằng không quân nhằm vào các mục tiêu ở Iraq, một phương án bao gồm triển khai không quân và lục quân bảo vệ bán đảo Arập. Thời gian để triển khai lực lượng ước tính cần 17 ngày.
Hải quân Mỹ tiếp tục huy động hai nhóm tàu chiến: USS Dwight D. Eisenhower và USS Independence tới khu vực, và họ đã ở tình trạng sẵn sàng vào ngày 8/8/1990. Cũng trong ngày hôm đó, 48 chiếc F – 15 ở căn cứ không quân Langley, Virginia, đã hạ cánh xuống Saudi Arabia và ngay lập tức bắt đầu tiến hành tuần tra trên những vùng không phận biên giới nước này với Iraq nhằm ngăn chặn đà tiến của quân đội Iraq. Mỹ cũng điều chiến hạm USS Missouri và USS Wisconsin tới Vùng Vịnh. Việc huy động quân sự liên tục diễn ra, cuối cùng đã lên tới 500.000 quân hiện diện tại khu vực này.
Cùng lúc ấy hàng loạt NQ của Hội đồng bảo an và Liên đoàn Ả Rập được đưa ra về cuộc xung đột. Một trong những NQ quan trọng nhất là NQ 678 của Liên hợp quốc thông qua ngày 29/11 cho phép sử dụng “mọi biện pháp cần thiết” – một công thức ngoại giao cho phép sử dụng biện pháp mạnh nếu Iraq không rút quân khỏi Kuwait trước ngày 15/1/1991.
Mỹ biện minh cho hành động can thiệp quân sự
Mỹ đưa ra nhiều lí do biện minh cho việc dính líu vào cuộc xung đột. Lý lẽ đầu tiên là tầm quan trọng của mối quan hệ liên minh lâu dài với Saudi Arabia. Tuy nhiên, một số người Mỹ không bằng lòng với cách giải thích đó và khẩu hiệu “Không đổi máu lấy dầu” đã trở thành tiếng kêu thường thấy nhất trong các cuộc biểu tình phản đối từ bên trong nước Mỹ, dù chúng không bao giờ đạt tới tầm cao như phong trào phản chiến trong Chiến tranh Việt Nam. Lý do tiếp theo đó là lịch sử vi phạm nhân quyền của Iraq dưới chế độ của Tổng thống Saddam Hussein, nguy cơ Iraq có thể phát triển vũ khí hạt nhân hay vũ khí hủy diệt hàng loạt và rằng “sự gây hấn lộ liễu sẽ không có chỗ đứng”.
Mỹ lúc đó đã tập hợp lượng đồng minh chống Iraq gồm 34 nước. Quân đội Mỹ chiếm 74% trong số 660.000 lính trước chiến tranh. Nhiều lực lượng đồng minh bất đắc dĩ phải tham gia vì họ cho rằng cuộc chiến là công việc nội bộ của khối Arập, số khác thì lo ngại sự tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Kuwait. Cuối cùng, nhiều nước đã bị thuyết phục khi chứng khiến sự hiếu chiến của Iraq đối với các nước Arập khác cùng với những hứa hẹn viện trợ kinh tế cũng như giảm nợ.
Trong khi đó, nhiều sáng kiến hòa bình đã được đưa ra nhưng không được chấp nhận. Washington nhấn mạnh rằng giải pháp duy nhất có thể chấp nhận được để có hòa bình toàn diện với Iraq là nước này phải rút quân không điều kiện ra khỏi Kuwait. Iraq thì yêu cầu việc rút quân khỏi Kuwait phải “gắn liền với” sự rút quân đồng thời của quân đội Syria ra khỏi Libăng và quân đội Israel ra khỏi Bờ Tây, Dải Gaza, Cao nguyên Golan, và nam Liban.
Maroc và Jordan đã bị thuyết phục bởi đề xuất này của Baghdad, nhưng Syria, Israel và liên minh chống Iraq phản đối rằng không hề có một mối liên hệ nào giữa những việc trên với vấn đề Kuwait. Syria đã tham gia vào liên quân chống lại Saddam nhưng Telaviv vẫn giữ thái độ trung lập dù đã có những cuộc tấn công tên lửa vào thường dân Israel vì chính quyền Bush đã thuyết phục Israel đứng ngoài cuộc chiến với những hứa hẹn về việc tăng cường viện trợ.
Ngày 12/1/1991, Quốc hội Mỹ thông qua NQ cho phép Tổng thống Bush sử dụng lực lượng quân sự tấn công Iraq nếu nước này không rút quân ra khỏi Kuwait. Ngay sau đó, các nước đồng minh khác cũng làm điều tương tự.
VI. Tấn công – Chiến dịch Bão táp sa mạc
Mờ sáng ngày 17/1/1991, tên lửa hành trình của Mỹ từ các tàu chiến phóng vào các mục tiêu quân sự của Iraq và máy bay tàng hình ném bom điều khiển trúng vào tòa nhà Thông tin ở Thủ đô Bagdad là những hành động quân sự mở đầu cho chiến dịch với mật danh “Bão táp sa mạc”. Tiếp đó, 400 máy bay chiến đấu của Mỹ, Anh, Saudi Arabia và Kuwait đã đánh trúng các đầu mối thông tin, căn cứ không quân, trận địa tên lửa, các nhà máy nguyên tử và hóa học, các tòa nhà của chính phủ và các trận địa tên lửa tại khu vực phía tây Iraq.
Sau 1 giờ, phía Iraq mới chống trả bằng tên lửa và pháo phòng không, đồng thời dùng tên lửa Scud bắn sang Israel và Saudi Arabia. 2 giờ sau những cuộc tấn công đầu tiên, Tổng thống Mỹ Bush đọc diễn văn trên đài truyền hình tuyên chiến chống Iraq.
rong chiến dịch không tập này, Mỹ và liên quân đã sử dụng trên 20 loại máy bay với 44 đời khác nhau với tổng cộng hơn 3.800 lượt cất cánh cùng 7/114 tàu sân bay của Mỹ cũng như các loại vệ tinh và tên lửa hành trình Tomahawk. Các loại máy bay chiến đấu, ném bom, vũ khí, các phương tiện bảo đảm thông tin chỉ huy, điều khiển đều thuộc thế hệ mới nhất, có uy lực mạnh và độ chính xác cao. Trong khi đó, hầu hết các máy bay hay vũ khí của Iraq đều thuộc thế hệ thứ 2, chỉ có một số ít thuộc thế hệ thứ 3 nhưng lại không đủ các thiết bị then chốt.
Mục tiêu ưu tiên hàng đầu của liên minh là phá hủy sở chỉ huy đầu não, các cơ sở không quân và phòng không của Iraq. Nhiệm vụ này nhanh chóng hoàn thành và trong suốt thời gian xảy ra cuộc chiến, không quân liên minh hầu như không gặp phải trở ngại nào khi hoạt động.
Dù khả năng phòng không của Iraq được Mỹ đánh giá cao, nhưng liên minh chỉ thiệt hại 1 máy bay trong ngày mở màn chiến dịch. Máy bay tàng hình của Mỹ được sử dụng nhiều trong giai đoạn đầu tiên này nhằm tránh các hệ thống tên lửa đất đối không SAM dày đặc của Iraq; khi đã phá hủy xong những hệ thống đó, các máy bay chiến đấu khác có thể được đem ra sử dụng với độ an toàn cao hơn. Đa số các phi vụ tấn công xuất phát từ Saudi Arabia và các nhóm tàu sân bay của liên minh ở Vịnh Persian.
Các mục tiêu tiếp theo của liên quân là các sở chỉ huy và thông tin. Những nhà lập kế hoạch bên phía liên quân hy vọng sự kháng cự của Iraq sẽ nhanh chóng sụp đổ nếu hệ thống chỉ huy và liên lạc của họ bị phá hủy. Trong tuần đầu tiên của chiến dịch không quân Iraq ít khi xuất kích và cũng không gây thiệt hại gì đáng kể, 38 máy bay MiG của Iraq đã bị không quân liên quân bắn hạ. Ngay sau đó, không quân Iraq phải chạy trốn sang Iran với hơn 100 chiếc. Ngày 23/1, Iraq bắt đầu đổ gần 1 triệu tấn dầu thô xuống biển, gây ra vụ tràn dầu lớn nhất trong lịch sử.
Giai đoạn thứ ba và lớn nhất trong chiến dịch không kích của lực lượng liên quân là nhằm vào các mục tiêu quân sự trên khắp Iraq và Kuwait: các bệ phóng tên lửa Scud, các địa điểm vũ khí hủy diệt hàng loạt, những cơ sở nghiên cứu vũ khí và các lực lượng hải quân. Khoảng 1/3 không lực liên quân được dành riêng để tấn công các bệ phóng tên lửa Scud do chúng nằm trên các xe tải nên rất khó tìm kiếm để tiêu diệt. Ngoài ra, họ cũng nhắm vào các mục tiêu có thể được sử dụng cho cả mục đích dân sự và quân sự: các nhà máy điện, lò phản ứng hạt nhân, thiết bị thông tin liên lạc, cảng biển, nhà máy lọc và phân phối xăng dầu, đường sắt và cầu.
Iraq đáp trả bằng cách bắn tên lửa vào các căn cứ của liên quân tại Saudi Arabia và Israel cùng với hy vọng buộc Israel tham gia cuộc chiến và các nước Arập khác rút lui khỏi liên quân. Nhưng chiến thuật này tỏ ra không hiệu quả. Israel vẫn trung lập và tất cả các nước Arập khác tiếp tục tham chiến, trừ Jordan. Các tên lửa Scud nói chung là gây ra rất ít thiệt hại, dù nó cũng đã một lần chứng minh được sức mạnh vào ngày 25/2 khi một tên lửa Scud phá hủy doanh trại của Mỹ tại Dhahran khiến 28 binh sỹ thiệt mạng. Những tên lửa Scud nhắm vào Israel không có hiệu quả bởi vì khi tăng tầm bắn, độ chính xác và khả năng sát thương của tên lửa này bị giảm đi rất nhiều.
Trận phản công được cho là lớn nhất của Iraq diễn ra vào ngày 29/1. Iraq sử dụng khoảng 1.500 quân với 80 xe tăng, xe bọc thép, tấn công lực lượng liên quân ở Khafji tại Saudi Arabia (cách biên giới Kuwait – Saudi 30 km). Tuy nhiên, Trận Khafji đã kết thúc khi quân Iraq phải lùi bước trước các lực lượng Saudi Arabia được lính thủy đánh bộ và không quân Mỹ yểm trợ 2 ngày sau đó.
Ngay sau khi Iraq xâm chiếm Kuwait, Khafji đã trở thành một thành phố có vị trí chiến lược. Sự chậm chạp của Iraq khi đưa các sư đoàn thiết giáp vào Khafji và sau đó dùng nơi này làm bàn đạp để tiến vào phần phía đông được bảo vệ kém cỏi của Saudi Arabia là một sai lầm lớn về chiến lược. Nếu làm được như vậy, Iraq không chỉ kiểm soát được phần lớn những nguồn cung cấp dầu ở Trung Đông mà sau đó còn đe dọa được lực lượng quân Mỹ triển khai dọc theo các đường chiến tuyến.
Với ưu thế áp đảo về vũ khí, với cách đánh nhanh, mạnh, liên tục, kéo dài làm cho toàn bộ hệ thống thông tin, radar, các lực lượng phòng không, không quân của Iraq hầu như bị tê liệt ngay từ ngày đầu, không có thời gian củng cố và tổ chức đánh trả. Hiệu quả của chiến dịch không quân là đã làm thiệt hại 10% toàn bộ lực lượng quân sự Iraq được triển khai trên sa mạc. Theo tờ The Time của Mỹ, sau 38 ngày đêm không kích, Mỹ và liên quân đã phá hủy 1685/5500 xe tăng, 1400/3500 khẩu pháo, 97 máy bay chiến đấu của Iraq. Hệ thống cầu cống, đường giao thông, các cơ sở kinh tế, quốc phòng chủ yếu… bị đánh phá dữ dội. Chiến dịch này cũng ngăn chặn một cách có hiệu quả việc tiếp tế của Iraq cho những đơn vị đồn trú chiến đấu phía trước và khiến số quân đông đảo (450.000) người không thể tập trung phát huy sức mạnh.
VII. Chiến dịch “Thanh kiếm sa mạc”
Ngày 22/2/1991, Iraq chấp nhận đề nghị hòa bình do Liên Xô đưa ra, theo đó sẽ rút quân không điều kiện khỏi Kuwait, đồng thời giải quyết tất cả các vấn đề khác trong vùng. Việc rút quân do HĐBA LHQ giám sát. Tuy nhiên, phía Mỹ bác bỏ thỏa thuận này nhưng nói rằng việc rút quân của Iraq sẽ không bị tấn công và giới hạn trong 24 giờ.
Đúng 1 giờ (GMT) ngày 24/2/1991, liên quân tiến hành cuộc tiến công trên bộ với mật danh “Thanh kiếm sa mạc”. Sư đoàn lính thủy đánh bộ số 1 và 2 của Mỹ xuất phát từ biên giới Saudi Arabia – Kuwait, vượt qua tuyến phòng thủ của Iraq, tiến vào Kuwait theo hướng đông bắc. Cùng lúc, các lực lượng Saudi Arabia vượt qua biên giới tiến dọc theo bờ biển Kuwait. Sư đoàn thiết giáp số 6 của Pháp, sư đoàn không vận 101 của Mỹ với khối lượng lớn dự trữ nhiên liệu, nước, trang bị vượt biên giới Iraq tiến theo hướng bắc – đông bắc. Từ phía tây, các đơn vị Saudia Arabia – dọc biên giới Saudi Arabia – Kuwait cũng nổ súng tấn công và tiến theo hướng đông bắc.
Cùng thời gian này sư đoàn bộ binh số 24, 1 bộ phận quân đoàn đổ bộ đường không số 18, quân đoàn bộ binh số 7 Mỹ cùng với sư đoàn thiết giáp số 1 của Anh tiến vào Iraq bằng đường bộ, đường không theo hướng bắc, đánh chiếm các kho, trạm nhiên liệu và hậu cần của Iraq nằm sâu trong sa mạc. Sư đoàn không vận 101 Mỹ với 460 trực thăng, tiến hành cuộc đổ bộ xuống thung lũng sông Tigre và Euphrate (cách Bagdad gần 200 km) thiết lập căn cứ tác chiến và hậu cần nhằm chia cắt, chặn đường rút lui của quân Iraq. Tướng Norman Schwarzkopf (Mỹ) nói: “Nhờ có chiến thuật nghi binh và hiệu quả của nó, chúng tôi chẳng phải lo lắng gì về những chướng ngại vật. Chúng tôi đi vòng qua đối phương và nhanh chóng đánh tập hậu”.
Ngày 25-26/2, lực lượng đặc nhiệm Saudi Arabia tiếp tục tiến công sườn phía đông Kuwait tạo điều kiện cho các lính thủy đánh bộ đang tiến về phía bắc bắt đầu chuyển sang hướng đông tiến về thủ đô Kuwait. Lực lượng Anh tiến trên lãnh thổ Iraq dọc theo biên giới Iraq – Kuwait trong khi quân đoàn 7 Mỹ chuyển sang hướng đông đánh vào các sư đoàn Vệ binh cộng hòa. Sư đoàn bộ binh số 24 Mỹ thọc sâu tới thung lũng sông Tigre và Euphrate nhằm chặn không cho quân Iraq rút lui. Quân Pháp chiếm các vị trí ở phía tây, ngăn chặn lực lượng Iraq đánh tạt sườn liên quân.
Lực lượng trên bộ của Iraq cũng được coi là một lực lượng mạnh với hệ thống phòng thủ khá kiên cố. Nhưng sau 38 ngày đêm bị oanh kích, các công trình phòng thủ như bãi mìn, hầm ngầm, vật cản… bị phá hủy nghiêm trọng. Người và vũ khí bị tiêu hao nhiều, hệ thống thông tin chỉ huy bị tê liệt, sức chiến đấu sa sút, tinh thần hoang mang. Vì vậy Iraq không thể chống chọi trước sức tấn công ào ạt của lực lượng liên quân, bị bao vây, chia cắt, và cuối cùng là bị tiêu diệt, bị bắt, bị tan rã từng mảng lớn một cách nhanh chóng
Trước tình hình trên, ngày 26/2, quân đội Iraq bắt đầu rút khỏi Kuwait, đốt cháy các giếng dầu mà họ bỏ lại. Một đoàn quân Iraq dài dằng dặc rút lui dọc theo đường cao tốc Iraq-Kuwait nhưng bị liên quân tấn công liên tục khiến nhiều phương tiện bị hủy hoại và nhiều binh sĩ thiệt mạng tới mức nó được gọi là “Xa lộ chết”.
Điều ngạc nhiên nhất của chiến dịch trên bộ là tỷ lệ thương vong thấp của liên quân. Lý do là vì quân Iraq không thể tìm ra một biện pháp phản công thích hợp đối với những ống nhòm hồng ngoại và loại đạn năng lượng động lực từ các xe tăng M1 Abrams của Mỹ và liên quân. Phương tiện này cho phép những chiếc xe tăng liên quân chiến đấu và tiêu diệt một cách hiệu quả các xe tăng Iraq từ khoảng cách