18/06/2018, 16:14

Nam tiến (bài 1)

CHƯƠNG 1: NGUYÊN NHÂN, CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH PHẦN CỦA CUỘC NAM TIẾN Bản đồ (chỉ có tính minh họa) lãnh thổ qua các thời kỳ- nguồn: Wikipedia Đổng Thành Dan h Nam tiến là một sự kiện lịch sử quan trọng, nó thể hiện chiều hướng phát triển của dân tộc. Xu thế phát triển đó ...

CHƯƠNG 1: NGUYÊN NHÂN, CHỦ TRƯƠNG VÀ THÀNH PHẦN CỦA CUỘC NAM TIẾN

Bản đồ (chỉ có tính minh họa) lãnh thổ qua các thời kỳ- nguồn: Wikipedia

Bản đồ (chỉ có tính minh họa) lãnh thổ qua các thời kỳ-
nguồn: Wikipedia

Đổng Thành Danh

Nam tiến là một sự kiện lịch sử quan trọng, nó thể hiện chiều hướng phát triển của dân tộc. Xu thế phát triển đó không phải vô cớ mà có, có những động lực, nguyên nhân đưa đến quá trình mở cõi về phía Nam của dân tộc Việt. Những nguyên nhân đó đã đưa đến xu thế Nam tiến của người Việt, nhưng phải cần có những tiền đề, những điều kiện để thực hiện cuộc Nam tiến ấy.

            Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải biết cách thức, phương pháp của người xưa để thực hiện cuộc Nam tiến, trong đó có hệ thống những chủ trương, đối sách của các triều đại, các ông vua, chúa, đây là một vấn đề rất quan trọng. Những chủ trương, đối sách rất rất cần thiết khi nghiên cứu, thực hiện đề tài này, vì từ đó ta có thể hiểu được diễn biến công cuộc Nam tiến sau này. Mặt khác, chúng ta cũng cần nên quan tâm đến những thành phần, lực lượng từ quan lại, đến nhân dân đã tham gia, đóng góp vào quá trình Nam tiến.

            Những vấn đề trên sẽ được chúng tôi trình bày trong chương này: chúng tôi chia nội dung phần này ra làm hai phần: một là hoàn cảnh lịch sử đưa đến việc tiến hành Nam tiến, thứ hai là những đối sách, chủ trương, những thành phần lực lượng tham gia vào quá trình này.

1, Bối cảnh lịch sử, những nguyên nhân của cuộc Nam tiến.

Từ trước đến nay khi nói đến nguyên nhân đưa đến cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, chúng ta thường thấy nói rằng: vì nước Việt Nam phía Bắc đối diện với Trung Quốc hùng mạnh, lúc nào cũng đe dọa đến sự tồn vong, đến nền độc lập Đại Việt. Do đó để phát triển lãnh thổ, cũng như tăng cường sức mạnh, tạo ra những đề kháng trước phương Bắc (Trung Quốc), tổ tiên chúng ta phải Nam tiến, vì phía Tây nước ta giáp với Lào có dãy Trương Sơn hùng vĩ ngăn trở, địa hình khó khăn để đi qua và liên kết, trong khi nhìn về phía Đông lại là biển nên người Việt không thể mở ra. Chỉ có phương Nam là dể tiếp xúc, dễ liên kết, phương Nam lại là vùng đất mới tuy là lãnh thổ của dân tộc khác, nhưng đất đai chưa khai phá hết, càng về phương Nam đất đai lại càng trù phú, người Việt chỉ có thể mở cõi về phương Nam, để mưu cái lợi sau này.

Nói như vậy, có thể đúng, nhưng lại chưa đủ.  Nước Việt Nam, từ bao đời nay, lúc nào cũng lo lắng cho sự trường tồn của mình trước một đế quốc Trung Hoa, một đế quốc lúc nào luôn lăm le xâm chiếm nước ta. Nhưng đó chưa phải là tất cả lý do, để người Việt thực hiện cuộc Nam tiến. Việc đưa ra nguyên nhân trên để giải thích Nam tiến có chỗ không xác đáng, ở chỗ người Việt không cần phải mở đất về Nam họ vẫn có thể đối chọi với Trung Quốc và khi họ đã Nam tiến thì đâu có nghĩa là Trung Quốc không có tham vọng xâm lược nước Việt nữa, đó là những điều không xác đáng của nguyên nhân này. Có lẽ người ta đưa ra nguyên nhân này để cố biện minh cho sự Nam tiến là bắt buộc, là hoàn cảnh khó xử của nước Việt. Xem thế, thì nguyên nhân này không đủ là lý do của cuộc Nam tiến, nó không giúp chúng ta lý giải được nguyên nhân thực tế, nguyên nhân xâu xa của công cuộc Nam tiến, từ nguyên nhân này chúng ta không thể xem Nam tiến như là một xu thế phát triển của đất nước, một xu thế tự nhiên, tất yếu được.

Trong bài viết này, tôi muốn trình bày nguyên nhân của quá trình Nam tiến như là một xu thế tất yếu của lịch sử. Một dân tộc nào cũng vậy, khi thực lực của họ đã lớn, đã hùng mạnh họ cần phải có một vùng đất để phát triển, khi mở rộng họ phải gặp một dân tộc khác và kết quả là hình thành xung đột, nếu gặp phải một dân tộc yếu thì dân tộc đó sẽ bị tiêu diệt mà lấy đất, nhược bằng gặp phải dân tộc mạnh thì có thể lại bị xâm chiếm. Cái quy luật tất yếu, “cá lớn nuốt cá bé” đời nào mà không có, nơi nào mà không tồn tại. Có dân tộc nào, đất nước nào khi sức mạnh phát triển lại không lo mở đất, tạo điều kiện cho dòng giống mình phát triển, trong quy luật đó kẻ yếu phải cáo chung kẻ mạnh thì phát triển cũng là chuyện thường tình!

Ngày xưa người Trung Quốc vốn ở phía Bắc sông Dương Tử, cũng vì cái quy luật chung đó, mà tiến xuống phia Nam sông Dương Tử, giành lấy đất đai của người Bách Việt mà phát triển, người Bách Việt ngày càng mòn mỏi, phải dần dàn tháo lui về phương Nam xa xôi., quốc gia Trung Quốc từ đó mới có được phần lãnh thổ lớn như bây giờ. Xa hơn về nước Mỹ, ban đầu lập quốc cũng chỉ có một phần đất nhỏ ở phía Đông, sau đó nhờ đi xâm chiếm, nhờ mua bán mà mở rộng lãnh thổ ra gắp nhiều lần.

Nước Việt Nam ta, cũng nằm trong xu thế đó, từ sau khi thoát ra khỏi ách thống trị ngót ngàn năm của phương Bắc. Đất nước, bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, đương sung mãn, trải qua các triều đại ban đầu ngắn ngủi, bước vào thời đại Lý – Trần, kinh tế, văn hóa, xã hội không ngừng phát triển, từ đó Đại Việt đã đạt được những sự hưng thịnh nhất định, thời Lê Sơ, đặc biệt là thời Lê Thánh Tông nước Đại Việt lại phát triển thịnh đạt vô cùng, sau này đến thời chúa Nguyễn cũng vậy. Một quốc gia phát triển như thế thì phải mở rộng cương thổ của mình chứ! Làm sao có thể ở một chổ, một vùng mà phát triển được? Theo chúng tôi đây là một xu thế tất yếu, một nguyên nhân khách quan.

Hơn nữa, dân cư Đại Việt ngày càng phát triển, đồng bằng Bắc Bộ không còn đủ sức chứa cho một dân tộc đang sung mãn, dân cư ngày càng đông đúc, làng xã miền Bắc thì ngày càng chật hẹp, ruộng đất canh tác ngày càng không đáp ứng được nhu cầu đất đai, chổ ở, lương thực cung cấp cho con người…Theo tính toán của nhà nghiên cứu Li Tana, dân số Đại Việt khoảng cuối thế kỷ XV là 3 triệu người, Li Tana tính toán dân số dựa trên số làng xã, cũng như số đinh mà sử liệu ghi lại rồi tính toán dựa trên số đinh bình quân của mỗi làng xã, cách tính này dựa khá nhiều vào sự chính xác của số làng xã và số lượng dân cư bình quân[1].

Một căn cứ khác để xác nhận tính đúng đắn của con số 3 triệu người là vào thời nhà Hồ, Hồ Qúy Ly muốn xây dựng một đội quân 1 triệu người, Hoàng Hối Khanh mới được giao làm sổ hộ tịch và thống kê số đinh, không có sử liệu ghi nhận về số đinh, số thống kê, nhưng xem mong ước và thái độ hài lòng sau khi xem thống kê số dân của Hồ Qúy Ly thì ta thấy dân số Đại Việt thời đó có thể sấp xỉ theo tính toán của Li Tana. Nhiều nhà nghiên cứu gần đây cho rằng tham vọng xây dựng một đội quân 1 triệu người thời kỳ này là không tưởng, nhưng như ta đã thấy Hồ Qúy Ly là một con người thực tế, một nhà cải cách quan trọng, xét cho cùng cũng là một người tài biết suy nghĩ, chẳng lẽ ông lại đưa ra ý định xây dựng một đội quân triệu người, mà không một tính toán, không có một cơ sở nhất định. Đặt giả thuyết ông có một đội quân triệu người thì dân số Đại Việt thời này phải khoảng 5 triệu, cứ 5 dân 1 quân là chuyện không hiếm thời kỳ này, vì chúng ta biết lúc này nhà Hồ đang chuẩn bị kháng chiến với quân Minh. Hoặc giả, cho rằng việc xây dựng đội quân 1 triệu người của Hồ Qúy Ly là quá đáng, không thể thực hiện được thì cứ bỏ bớt quân đi, khi đưa ra ý định trên hẳn rằng, Hồ Qúy Ly phải có một tính toán nhất định, nếu như không thể xây dựng được một đội quân triệu người thì ít nhất cũng là nữa triệu tức là ½ với ước muốn của Hồ Qúy Ly. Tóm lại, khi đã đưa ra yêu cầu xây dựng đội quân triệu người, thì một nhà chính trị lỗi lạc như Hồ Qúy Ly đã có một tính toán, một cơ sở chắc chắn và ít nhất nếu như không có một đội quân triệu người thì cũng có một đội quân nữa triệu, theo giả thuyết 5 dân 1 quân, thì ít nhất Đại Việt thời này có khoảng 2,5 – 3 triệu. Vậy, thì thống kê dân số của Li Tana cũng có cơ sở lắm! 

Tất nhiên, điều quan trọng không phải ở đó mà qua đó tôi muốn nói rằng: ở Đại Việt thời Lê Sơ, Đàng Ngoài thời Lê – Trịnh trong hai thế kỷ XV – XVII dân số ngày càng tăng, thậm chí đến cả triệu người, với trình độ sản xuất thời đó, sản lượng nông sản tạo ra ngày càng không đáp ứng hết nhu cầu của người dân kết quả là nhiều người phải đi tìm cùng đất mới để khai phá, đặc biệt là trong thời kỳ chiến tranh Nam – Bắc triều, Trịnh – Nguyễn phân tranh, cộng với sự gia tăng thiên tai thường xuyên hằng năm cũng làm cho tình trạng, đói kém ngày càng phổ biến và có tính liên tục. Theo thống kê của Sakurai, trong số 49 trận lụt ở đồng bằng sông Hồng từ 1422 đến 1786, thì 22 trận xảy ra trong vòng 100 năm gần nhất[2].  

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (Toàn Thư), liên tục thống kê các sự kiên đói kém, mất mùa ở miền Bắc trong những năm 1561, 1570, 1572, 1585, 1586, 1589, 1594, 1608… sách Toàn Thư chép về năm 1571 như sau “…Năm ấy đất Thanh Hoa mất mùa, dân đói to, nhiều người xiêu giạt…”, sang năm sau 1571 Toàn Thư lại chép “…Năm ấy, các huyện ở Nghệ An, đồng ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to lại bị bệnh dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt, kẻ thì lần vào Nam, người thì giạt ra Bắc, trong hạt rất tiêu điều…”[3].

Tất nhiên tình trạng đói kém, mất mùa trên không hẳn chỉ là do sự phát triển của dân số và gia tăng của thiên tai như đã nói ở trên, mà một nguyên nhân nữa cũng quan trọng không kém dẫn đến tình trạng trên, tạo điều kiện cho những cuộc Nam tiến của nhân dân (cần phân biệt Nam tiến của nhân dân và Nam tiến của chính quyền, cuộc Nam tiến của nhân dân là các cuộc di dân tự phát của những lưu dân, trên bước đường họ di cư vào Nam). Đó là tình trạng xung đột giữa các tập đoàn phong kiến đầu tiên là Lê – Mạc, sau đến Trịnh – Nguyễn đã làm cho đời sống của người nông dân ngày càng cơ cực, ruộng đồng bỏ hoang. Đây cũng là nguyên nhân thúc đẩy cuộc Nam tiến của người Việt, nhưng đây chỉ là một nguyên nhân chủ quan.

Trong khi đó, ở về phía Nam từ miền đất Thuận Hóa, Quảng Nam đất đai phì nhiêu chưa khai thác hết, sản vật thì phong phú, nông sản tươi tốt. Ở phương Nam cuộc sống an lành, sung túc, đó thật sự là miền đất hứa cho người Việt xuống khai phá. Sách Toàn Thư viết về đời sống xứ Đàng Trong vào cùng thời điểm mà ở phía Bắc liên tục mất mùa, đói kém như sau: “…Hoàng (Nguyễn Hoàng) vỗ trị mấy chục năm, chính lệnh khoan hoà, thưởng ban ân huệ, dùng phép công bằng, chấn chỉnh, khuyên răn tướng sĩ bản bộ. Cấm chỉ, trừ bỏ bọn hung ác, dân hai trấn đều cảm mến nhân đức, thay đổi phong tục, chợ búa không nói thách, dân chúng không làm giặc, cổng ngoài không phải đóng, thuyền buôn nước ngoài đều tới buôn bán trao đổi phải giá, quân lệnh nghiêm cẩn, người người gắng sức…”[4].

Về sự trù phú, phì nhiêu của xứ Đàng Trong, Phủ Biên Tạp Lục viết: “…Những sản vật quý phần nhiều xuất từ miền Nam…Xứ Quảng (kể cả Gia Định) là đất phì nhiêu nhất thiên hạ…Ở phủ Thăng Hoa, phủ Điện Bàn đồng ruộng rộng rãi, lúa tốt…Ba phủ Quy Nhơn, Quảng Nghĩa, Gia Định lúa gạo phần nhiều không kể xiết…ở Gia Định giá lúa rẻ chưa nơi nào như thế. Gạo nếp, gạo tẻ đều trắng trẻo, tôm cá rất to, ăn không hết…”[5].  Sách Ố Châu Cận Lục chép: “…Đồng bằng thì nông trang vốn sẵn nghiệp nhà, bờ biển thì cá, muối là kho vô tận…Hải vị sơn hào của nhiều trang chứa. Cá tôm có sẵn ở sông bể, gỗ lấy ở núi rừng. Xóm làng trù mật, nên gà, chó từng đàn; cỏ, nước ngon lành, nên trâu bò béo tốt…; đất cát phì nhiêu, được thóc gạo không cần khó nhọc…”[6].

Kết quả là những đoàn người lần lượt kéo nhau vào phía Nam, từ thời cuối đời Lê Sơ sang thời Lê Trung Hưng con số này ngày càng tăng. Vào thời Lý, Trần, Hồ việc di dân này đa phần mang tính cưỡng ép, do nhà nước tổ chức nhiều hơn là tự phát nhưng trong thời kỳ sau, đại bộ phận các cuộc di dân là do nhân dân tự phát, nói cách khác từ sau năm 1471, đặt biệt là những năm cuối thế kỷ XVI – XVII số lượng những di dân không ngừng tăng, trong một dòng chảy rất đều, không ngừng nghĩ, nó hoàn toàn thoát khỏi sự ràng buộc của chính quyền, để sinh ra hiện tượng mà sau này khi nghiên cứu Nam tiến chúng ta hay nói đến: “lưu dân đi trước, nhà nước theo sau”.

Tác giả Li Tana, trong luận án về xứ Đàng Trong của mình, bà đã bỏ ra nhiều công lao để nghiên cứu về sự di dân, nhất là giai đoạn sau khi Nguyễn Hoàng vào trấn thủ phía Nam. Dựa trên những tài liệu của Ô Châu Cận LụcPhủ Biên Tạp Lục, Li Tina thống kê thí điểm ở phủ Điện Bàn, Quảng Nam dân số hằng năm tăng 0,78 %, dân số phủ Điện Bàn từ 1555 đến 1777 tăng từ 29040 đến 86680, đây là mức tăng trưởng cao so với phía Bắc, nhưng là mức tăng trung bình của cả Đàng Trong[7]. Trong sách Phủ Tập Quảng Nam Ký Sự, có nói đến việc Bùi Tá Hán nhận lệnh diệt quân Mạc ở Cổ Lũy, ông dẫn quân vào Cù Lao Ré và giả làm người di cư đổ bộ lên bờ và tấn công quân Mạc[8]. Điều này cho thấy những đoàn người di cư vào Nam khoảng thế kỷ thứ XVI – XVII là rất đông đúc, một đoàn lớn có thể tương đương một đội quân.

Những nguyên nhân ở trên, như đã nói là do các cuộc di dân, nó nằm ở cấp độ “lưu dân đi trước”, hay là những nguyên nhân tự phát. Bây giờ chúng tôi phân tích những nguyên nhân từ góc độ nhà nước, chính quyền những lý do nào khiến các ông vua, chúa chủ trương thực hiện cuộc Nam tiến. Trong loại nguyên nhân này tôi không đề cập về nhà Lý, Trần nữa mà sẽ bắt đầu tư nhà Hồ, Lê và đặc biệt là từ phía chính quyền chúa Nguyễn.

Từ các thời Lý – Trần, Đại Việt đã bước những bước đầu tiên về phía Nam, nhưng dựa vào những chứng cớ lịch sử từ hai phía (Đại Việt và Champa), thì lúc này Đại Việt chưa có chủ trương Nam tiến, lúc này họ chỉ thu được phần lãnh thổ mới do vua Champa dâng nộp: lần đầu vào năm 1069, thu lấy Bồ Chính, Ma Linh, Địa Lý do vua Champa dâng cho Đại Việt để được tha về nước, đến năm 1306 cũng do vua Champa dâng hai đất châu Ô, Lý để cưới công chúa Đại Việt.

Mãi đến thời Hồ – Lê, các quân vương Đại Việt mới chủ động đánh và lấy các phần đất của Champa về cho Đại Việt, mở rộng cương vực quốc gia. Về Nguyên nhân các vương triều này tấn công xuống, lấy đất Champa tôi không bàn đến nữa, tôi cho rằng đây là chủ trương của họ, trong những lần Nam tiến này chính quyền đều là lực lượng chính và những lưu dân sau này mới di dân vào vùng đất mới thu lấy. Như vậy, theo tôi, cuộc Nam Tiến thời Hồ (1402) và thời Lê Thánh Tông (1471),  nằm trong nguyên nhân là muốn mở rộng sức mạnh, thực hiện theo tình thần tự nhiên, khách quan của quy luật mạnh được yếu thua (đã đề cập lúc đầu) mà ở bất cứ thời gian nào, không gian nào của lịch sử cũng đều tồn tại. 

Một nguyên nhân nữa cũng quan trọng nằm ở khía cạnh “Nhà nước theo sau” của Nam tiến chính là cuộc xung đột Trịnh – Nguyễn và khát vọng vươn lên, tăng cường sức mạnh của chúa Nguyễn. Cuộc xung đột này đã dẫn đến cuộc phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài. Trong cuộc xung đột đó, lúc đầu thực lực của chúa Nguyễn rất kém, chúa Nguyễn từng phải xưng thần, tỏ ra thần phục với chúa Trịnh, chính vì thế để tăng cường thực lực của mình chúa Nguyễn đã tìm cách bấm vững chắc ở vùng Thuận – Quảng, không những thế một chủ trương quan trọng khác, nhầm tăng cường thế mạnh của mình, đề phòng với chúa Trịnh ở phương Bắc, chính là hoạt động Nam tiến.

Nam tiến đối với chúa tôi họ Nguyễn chính là vấn đề mang tính chất sống còn. Nhiệm vụ Nam tiến thời các chúa Nguyễn được xem như là một quyết sách hàng đầu, có vai trò quan trọng như là chính sách Bắc cự họ Trịnh của họ. “Đất  Thuận  Quảng  phía  bắc  có  núi Ngang [Hoành Sơn] và sông Gianh [Linh Giang] hiểm trở, phía nam ở núi Hải Vân và núi Đá Bia [Thạch Bi sơn] vững bền. Núi sẵn vàng sắt, biển có cá  muối,  thật  là  đất  dụng  võ  của  người  anh  hùng.  Nếu  biết  dạy  dân  luyện binh  để  chống  chọi  với  họ  Trịnh  thì  đủ  xây  dựng  cơ  nghiệp  muôn  đời.  Ví bằng  thế  lực  không  địch  được,  thì  cố  giữ  vững  đất  đai  để  chờ  cơ  hội,  chứ đừng  bỏ  qua  lời  dặn  của  ta”[9].

Tóm lại, ở trên chúng tôi đã đề cập đến những nguyên nhân đưa đến sự di dân của người Việt, có thể tóm tắt lại ở ba nguyên nhân chính:

Thứ nhất, phải kể đến sự vươn lên mạnh mẽ của một quốc gia Đại Việt đang muốn trở thành một quốc gia hùng mạnh, được các quốc gia lân bang kính sợ, các quốc gia lớn nể phục, thiết nghĩ sự bành trướng của người Việt cũng chỉ là quy luật mạnh được yếu thua, anh không đi chiếm đất người thì người cũng chiếm đất anh!

Thứ hai, là sự gia tăng của dân số, thiên tai, đất đai ngày càng thu hẹp, không đáp ứng đủ nhu cầu cho người dân, cộng với chiến tranh, sưu thuế, lao dịch liên tục, thúc đầy hàng đoàn người di cư về Nam. Những bước chân của những người lưu dân này chính là những minh chứng cho quá trình Nam tiến, những bước chân của những người khai thiên mở cõi chính là những bước tiến vỉ đại của lịch sử dân tộc Việt Nam, trên lộ trình mở cõi về phương Nam.

Thứ ba, một nguyên nhân chủ quan là cuộc xung đột Trịnh – Nguyễn và những kỳ công mở cõi của các chúa Nguyễn về phương Nam. Đây là giai đoạn Nam tiến cuối cùng, nhưng mạnh mẽ, sôi nổi nhất trong lịch sử Nam tiến của người Việt, một cuộc Nam tiến chỉ võn vẹn trong chưa đến 1,5 thế kỷ, nhưng có vai trò quan trọng nhất trong lộ trình Nam tiến từ trước đến nay. Chính từ thời kỳ chúa Nguyễn, lãnh thổ nước Đại Việt đã tăng lên gấp đôi, những vùng lãnh thổ mới ở Nam bộ, nổi tiếng là vựa lúa “khổng lồ” của cả nước, được sáp nhập vào nước ta. Xem thế, thì vai trò của chúa Nguyễn với quá trình Nam tiến thật là to lớn!

2. Chủ trương, đối sách và thành phần tham gia vào công cuộc Nam tiến.

2. 1 Hoàn cảnh, điều kiện quốc gia và khu vực ảnh hưởng đến việc đề ra chủ trương, đối sách và những thành phần dân cư thực hiện cuộc Nam tiến của Đại Việt:

 Nam tiến không chỉ là một quá trình xuất phát từ những hoàn cảnh cơ bản của nội tình Đại Việt, mà nó còn liên quan nhiều đến mối quan hệ của Đại Việt với các quốc gia lân bang, gận cận và liên quan trực tiếp nhất là Champa và Chân Lạp, không những thế quá trình Nam tiến còn gắn liền gian tiếp với các mối quan hệ giữa Đại Việt với các quốc gia lân bang khác như Trung Quốc, Xiêm La. Nam tiến như thế, là một tổng hòa các mối quan hệ giữa Đại Việt với các quốc gia lân bang, không những chỉ là mối quan hệ song phương, mà còn là đa phương.

 Trong tổng hòa mối quan hệ đó Nam tiến không chỉ quyết định từ ý chí chủ quan của người Việt, hoàn cảnh lịch sử của nước Đại Việt, mà còn phải phụ thuộc nhiều vào nội tình của các quốc gia Champa, Chân Lạp, cũng như những hoàn cảnh chung của mối quan hệ lịch sử những biến động của khu vực trong từng giai đoạn, từng thời kỳ khác nhau. Trong từng thời kỳ, từng hoàn cảnh khác nhau đó, người Việt (bao gồn chính quyền và nhân dân Việt) phải có những chủ trương, đối sách phù hợp với từng thời kỳ, khôn khéo, linh hoạt thay đổi ở mỗi hoàn cảnh khác nhau để có thể thực hiện thành công quá trình Nam tiến.

Vì thế, trước khi phân tích những hệ thống chủ trương, đối sách để thực hiện Nam tiến, tôi xin khái lược về những hoàn cảnh, điều kiện trong mỗi thời kỳ Nam tiến của lịch sử Việt Nam. Những hoàn cảnh, điều kiện trong nước và mối quan hệ khu vực đó chính là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến việc đề ra những chủ trương, đối sách của chính quyền Đại Việt qua mỗi thời kỳ mở cõi về phương Nam.

Trong giai đoạn đầu, cuộc Nam tiến của người Việt, chủ yếu chịu ảnh hưởng từ mối quan hệ Đại Việt – Champa, có khi là mối quan hệ Đại Việt – Chân Lạp, Đại Việt – Trung Quốc, Đại Việt – Champa – Chân Lạp – Trung Quốc…Tất nhiên, mối quan hệ Đại Việt – Champa là yếu tố chính chi phối cuộc Nam tiến thời kỳ này (thời kỳ đầu), nội tình nước Champa cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến chủ trương, đối sách của Đại Việt thời kỳ này. Trong giai đoạn này, nội tình Đại Việt, Champa, mối quan hệ Đại Việt – Champa, có một số đặc điểm sau:

Về nội tình Đại Việt, sau năm 938 nước Đại Việt bước vào thời kỳ độc lập tự chủ, vượt qua những biến chuyển, những rối loạn ban đầu của quá trình xây dựng một quốc gia phong kiến tự chủ từ thời Ngô – Đinh – Tiền Lê, đến thời Lý – Trần, sau này là Lê Sơ quốc gia Đại Việt nói chung và chế độ phong kiến Đại Việt nó riêng ngày càng đi vào ổn định và không ngừng hoàn thiện. Trong bối cảnh đó, các ông vua Đại Việt một mặt lo cũng cố nội trị một mặt lo đối phó với Trung Quốc, tuy bề ngoài xưng thần với phương Bắc nhưng bên trong vẫn luôn cố gằng giữ vững nền độc lập và vẫn luôn lo lắng xây dựng, cũng cố thế lực hầu đối chọi với phương Bắc. Đối với các bộ tộc thiểu số, các quốc gia lân bang khác, Đại Việt luôn cố khẳng định uy quyền, sức mạnh của mình, buộc các nước này phải triều cống, xưng thần, vị thế của Đại Việt trong khu vực thời kỳ này rất mạnh mẽ. Đặc biệt, vào thời Lê Thánh Tông, chế độ phong kiến Đại Việt hưng thịnh nhất, Trung Quốc phải kính nể, các lân bang phải nể sợ.

Trong hoàn cảnh đó, quốc gia Đại Việt không thể chấp nhận những quốc gia ở phương Nam, phía Tây luôn chống đối lại mình, tỏ ra không thần phục mình, các nước này còn chủ trương liên hệ với phương Bắc để tấn công Đại Việt, hay thường xuyên đánh phá miền biên viễn Đại Việt. Ở đây tôi muốn nói đến Champa, một quốc gia ở phía Nam, mà sử liệu ghi nhận luôn luôn quấy rối miền biên giới, luôn nằm trong liên minh với phương Bắc để chống lại Đại Việt, đặc biệt vào thời nhà Trần, quốc gia Champa còn trở thành mối đe dọa lớn cho Đại Việt khi hết lần này đến lần khác, quân Champa đánh phá Đại Việt, thậm chí còn tiến vào vào tận kinh đô nước Đại Việt. Chưa có thời nào, Champa lại trở thành mối đe dọa lớn cho Đại Việt như thời kỳ này. Đại Việt liên tục phải đem quân chinh phạt, trừng trị Champa, hoặc khẳng định sức mạnh, uy thế của mình với Champa, như những lần hành binh năm 1069, 1402, 1471…

Về nội tình Champa, bước vào thế kỷ thứ X, tình trạng chiến tranh liên tục với Java giai đoạn trước còn để lại nhiều hậu quả, làm suy thoái đất nước. Sau thế kỷ thứ X, một mặt phải đối diện với người Việt với những cuộc chiến tranh liên tiếp từ những năm 980, 1044, 1096, 1227, đặc biệt những cuộc xung đột liên tục trong thế kỷ XIV, chiến sự năm 1400, 1402, 1446, 1471. Mặt khác, trong thế kỷ XI – XVII, Champa lại liên tục bị tàn phá bởi những xung đột với Chân Lạp, có lần kinh đô của họ còn bị thiêu cháy, nhiều đền tháp bị phá hủy…Bên cạnh đó, Champa với đặc thù của một quốc gia theo quy chế Mandala, có những tình trạng chía cắt và phân liệt. Trong đó, một tiểu quốc phía Nam là Panduranga, luôn được sử liệu, bia ký và các chuyên gia về lịch sử Champa ghi nhận rằng không bao giờ chịu thần phục chính quyền trung ương, liên tục nổi loạn, có thể nguyên nhân này cũng làm cho thực lực quốc gia này liên tục suy yếu. Một quốc gia trước rất cường thịnh, thậm chí còn độc lập trước nước Việt hàng trăm năm, nhưng nay do những nguyên nhân đó mà nội lực liên tục suy yếu, thế lực ngày càng suy mòn (chỉ trừ một lần vùng lên dười thời Chế Bồng Nga), để rồi lụi tàn mãi mãi, ngày càng bị nước Đại Việt chèn ép, dần dần lấy hết lãnh thổ này đến lãnh thổ khác.

 Ở trên, tôi chỉ mới lượt xét về nội tình của hai quốc gia, bây giờ đến nội tình mối quan hệ giữa hai quốc gia. Năm 1069, nhà Tống (Trung Quốc) đã tạo một liên minh trong đó có Champa, nhầm bao vây, cô lập Đại Việt. Nhà Tống kích động Champa không cống nạp và tiến hành tấn công biên giới hai nước, kết quả là vua Đại Việt, Lý Thánh Tông quyết định thân chinh đánh Champa để trừng phạt, kết quả là vua Champa Rudravarman III (Chế Củ) phải nhượng lại vùng đất cực Bắc tương đương ba châu Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh (Quảng Bình, Bắc Quảng Trị) của Champa cho Đại Việt.

Bước sang thời kỳ nhà Trần, sau khi cùng nhau hợp tác chống Mông – Nguyên xâm lượt thế kỷ XVIII, mối quan hệ Đại Việt – Champa trở nên thân thiện. Nhầm xây dựng mối quan hệ ngày càng tốt đẹp, thúc đẩy sự hiểu biết giữa hai quốc gia, Phật Hoàng Trần Nhân Tông sang thăm Champa, được sự đoán tiếp nồng hậu của vua Champa Simhavarman III (Chế Mân), Trần Nhân Tông đã hứa gả công chúa Huyền Trân cho Đại Việt. Sau khi về nước vua Trần Anh Tông theo lời hứa của cha, gả Huyền Trân cho Chế mân, nhưng do sự phản đối của quần thần, nên Simhavarman III (Chế Mân) phải lấy hai châu Ô, Lý (Nam Quảng Trị đến Bắc Quảng Nam ngày nay) để làm quà cưới. Đây là chặng hai của quá trình Nam tiến.

Nhưng sau giai đoạn này, khi Đại Việt cướp công chúa Huyền Trân về nước, hai nước luôn mâu thuẫn, các vị vua Champa liên tục tiến hành chiến tranh với Đại Việt để thu lại vùng đất cũ đã bị mất, dù có nhiều lúc đã tấn công vào đến tận Thăng Long, làm nước Đại Việt rung chuyển, nhưng chung cuộc Champa vẩn thất bại. Đến năm 1402, Hồ Hán Thương đem quân đánh Champa, chắc là để trừng phạt một giai đoạn dài Champa đánh phá Đại Việt và trong lần đó nhà Hồ đã lấy tiếp hai vùng đất Chiêm Động, Cổ Lũy (Nam Quảng Nam, Quảng Ngãi ngày nay).

Sang thời nhà Lê đặc biệt là thời Lê Thánh Tông, nước Đại Việt vươn lên phát triển mạnh mẽ, đó là thời kỳ cực thình nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Chính trong giai đoạn này ưu thế của Đại Việt ngày càng mạnh, một quốc gia Đại Việt đương sung sức, không bao giờ chấp nhận những quốc gia lân bang luôn bất tuân, chống đối, không chịu cống lễ, lại liên tiếp đánh phá miền biên ải nước Việt như Champa nên Thánh Tông quyết định thân chinh trừng phạt Champa, kết quả là Đại Việt nhập vùng đất từ Quảng Nam đến Bình Định ngày nay vào lãnh thổ (trước nhà Hồ đã lấy vùng Chiêm Động, Cổ Lũy tương đương với Nam Quảng Nam đến Quảng Ngãi, nhưng khi Đại Việt bị nhà Minh đô hộ, thì Champa đã lấy lại vùng đất này).

Trên là lượt xét về những điều kiện, hoàn cảnh trong giai đoạn đầu của Nam tiến, bây giờ sẽ đến những điều kiện, hoàn cảnh của quốc gia Đại Việt, Champa, Chân Lạp, , cũng như hoàn cảnh khu vực vào thời chúa Nguyễn, rồi từ đó mới hiệu được những yếu tố tác động đến hệ thống chủ trương, đối sách để thực hiện công cuộc Nam tiến vào thời kỳ này.

Bối cảnh Đại Việt: lợi dụng lúc nhà Lê trở nên suy yếu, năm 1527 Mặc Đăng Dung cướp ngôi lập ra nhà Mạc. Sau đó không lâu, Nguyễn Kim một tướng cũ của nhà Lê, tìm người hậu duệ lập nên nhà Lê Trung Hưng ở Thanh Hóa và chống lại nhà Mạc ở Thăng Long, sử gọi giai đoạn này là thời kỳ Nam – Bắc triều. Ngay trong thời kỳ này, trong nội bộ Nam triều (Lê Trung Hưng) cũng bắt đầu phân liệt, trong đó sau khi Nguyễn Kim mất, Trịnh Kiểm nắm quyền mang tiếng phò vua Lê, loại trừ thế lực của họ Nguyễn, Nguyễn Hoàng (con của Nguyễn Kim) dùng mưu để về phía Nam làm trấn thủ Thuận Hóa, Quảng Nam, dần dần họ Nguyễn của Nguyễn Hoàng ở phía Nam trở thành đối trọng với họ Trịnh ở phương Bắc, hình thành cục diện Trịnh – Nguyễn phân tranh. Ở phía Nam một mặt Bắc cự với chúa Trịnh, các chúa Nguyễn lo mở rộng cương thổ, cường tỏa ảnh hưởng của mình xuống tận miền đất Chân Lạp, để trở thành một thế lực quan trọng, đủ sức đối trọng với chúa Nguyễn.

Vương Quốc Champa như đã nói, trong thời kỳ chúa Nguyễn Hoàng về trấn thủ Quảng Nam trở về sau thực lực ngày càng mòn mỏi, yếu kém, sức đề kháng ngày càng yếu trước chúa Nguyễn, trong các năm 1611, 1653, 1692, các chúa Nguyễn đã lần lượt tích hợp, thu nhập hết phần đất còn lại của vương quốc này vào lãnh thổ Đại Việt.

Đáng chú ý nhất thời kỳ này chính là tình hình quốc gia Chân Lạp, trong giai đoạn trước quá trình Nam tiến của Đại Việt (ở đây tức là vương quốc Đàng Trong của chúa Nguyễn) chỉ liên hệ trực tiếp đến Champa, nhưng giai đoạn này lại liên hệ nhiều đến Chân Lạp, thậm chí mối quan hệ này còn phức tạp hơn, khi còn liên quan đến cả Xiêm  La. Hoàn cảnh Chân Lạp và mối quan hệ Đại Việt – Chân Lạp, hay Đại Việt – Chân Lạp – Xiêm La có những đặc điểm sau đây, sẽ ảnh hưởng đến việc đề ra hệ thống các chủ trương đối sách của chúa Nguyễn trong quá trình mở đất.

Từ sau thế kỷ thứ XV trở đi, sau một thời kỳ Angkor rực rỡ, Chân Lạp bước vào thời kỳ suy thoái, kinh tế kém phát triển, những mâu thuẫn xã hội vốn tìm tàng, nay càng trở nên gay gắt, xung đột phe phái, tranh chấp quyền lực liên tục nổ ra, không đủ sức phát triển kinh tế xã hội, sức đề kháng của quốc gia ngày càng yếu, ngày càng trở nên yếu thế trước các quốc gia lân bang hùng mạnh. Từ thế kỷ XVI, Chân Lạp đã trở thành nơi tranh giành phạm vi ảnh hưởng của hai bên một là Đàng Trong của các chúa Nguyễn và một bên là đế quốc Xiêm La[10].

Trong bối cảnh đó, trước sự lớn mạnh của Xiêm La và chủ thuyết “Đại Thái” của triều đình Xiêm đang ngày càng đe dọa đến quyền lợi của chúa Nguyễn ở Chân Lạp, nếu thế lực của Xiêm ngày càng lớn mạnh, khống chế Chân Lạp, đưa một lực lượng thân Xiêm lên cầm quyền ở Chân Lạp thì an ninh, chủ quyền, quyền lợi của Đàng Trong cũng đang ngày càng bị đe dọa. Trước tình hình đó, một mặt, các chúa Nguyễn phải lo ngăn chặn nguy cơ từ Xiêm thực hiện cuộc mở mang lãnh thổ, mặt khác tiếp tục thực hiện việc mở rộng đất đai về Nam Bộ. Như vậy, nổi bật lên trong bối cảnh thời bấy giờ là cuộc tranh giành ảnh hưởng giữa các chúa Nguyễn với Xiêm La tại Chân Lạp, những điều này sẽ chi phối rất nhiều đến việc đưa ra các chủ trương đối sách Nam tiến, mối quan hệ tay ba này là nét đặc thù chưa từng có trong quá trình Nam tiến giai đoạn trước. 

2.2 Hệ thống các chủ trương, đối sách của người Việt để thực hiện Nam tiến:

         Dựa vào những yếu tố, đặc điểm, điều kiện hoàn cảnh của từng quốc gia, của khu vực, của mối quan hệ bang giao giữa Đại việt với các quốc gia lân bang…đã đề cập, phân tích ở trên, cũng như những nghiên cứu sử liệu, tham khảo tài liệu của các chuyên gia  tôi có thể đưa ra một số những chủ trương, đối sách của các vương triều Đại Việt trong việc thực hiện “Nam tiến” như sau:

         Thực hiện chiến tranh chinh phạt, rồi thu lấy đất đai. Ở đây, tôi không đi sau vào diễn biến chiến sự, nhưng cũng xin giới thiệu một số các cuộc chinh phạt để mở mang bờ cõi (chủ trương này thì phần lớn sử dụng cho Champa). Trừ lần hành quân đầu tiên năm 1069 của Lý Thánh Tông, sau đó thì vua Rudravarman III mới dâng đất cho Đại Việt để được tự do, một lần vua Champa dâng đất để làm sính lễ cưới công chúa Đại Việt năm 1306, thì các lần hành quân năm 1402, 1471, 1611, 1653, 1692 phía Đại Việt luôn tiến hành chiến tranh chinh phạt rồi sau đó thu lấy đất của Champa (phần diễn biến cụ thể sẽ được trình bày ở chương sau).

         Thực hiện chiến tranh, can thiệp, dàn xếp vào nội tình của Chân Lạp: Trong gia đoạn từ những năm 20 của thế kỷ thứ XVII, đến những năm 60 của thế kỷ XVIII, nội bộ quốc gia Chân Lạp liên tục nổ ra những cuộc xung đột quyền lực, những mâu thuẫn này còn bắt nguồn từ những cuộc can thiệp của Xiêm La và chúa Nguyễn. Hay nói cách khác, những xung đột giữa phe phái này phe phái nọ ở Chân Lạp có sự can thiệp của các chúa  Nguyễn và Xiêm La, nó nằm trong cuộc tranh giàng ảnh hưởng của Đàng Trong và Xiêm La ở Chân Lạp.

            Năm 1658, vua nước Chân Lạp mất, nội bộ nước Chân Lạp lục đục vì tranh giành ngôi. Chúa Nguyễn Phúc Tần đem 3000 quân sang đánh, bắt Nặc Ông Chân, sau tha về nhưng buộc phải triều cống và tạo điều kiện cho lưu dân Việt đi sinh sống. Sau khi Ông Chân qua đời chúa Nguyễn đã giúp một hoàng thân Chân Lạp là Batom Reachea lên ngôi, đáp lại vị vua mới của Chân Lạp đã ký hiệp ước triều cống chúa Nguyễn hàng năm và cho phép người Việt được làm chủ vùng đất đã khai hoang ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bà Rịa.

            Năm 1672, vua Chân Lạp bị giết, con là Angcheng lên nối ngôi, sang cầu viện Xiêm La để đánh hoàng thân Angton và Angnon, những lực lương thân Việt Nam, Angnon cầu cứu Đàng Trong, chúa Nguyễn Phúc Tần cử binh giúp Angnon, lấy đất Saigon làm Phó vương Chân Lạp.

Năm 1755, biết vua Chân Lạp là Nặc Nguyên (Ang Tong) thông sứ với chúa Trịnh ở Đàng Ngoài để lập mưu đánh chúa Nguyễn, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm 1756, Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ, rồi xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp (nay là Tân An và Gò Công) cho chúa Nguyễn để cầu hòa.

Năm 1757 Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận dâng hai phủ Trà Vinh và Ba Thắc (Sóc Trăng) xin chúa Nguyễn Phúc Khoát phong cho làm vua Chân Lạp. Sau đó Nặc Nhuận bị người con rể là Nặc Hinh giết và cướp ngôi. Quan tổng suất là Trương Phúc Du thừa kế sang đánh thắng Nặc Hinh. Chúa Nguyễn cho lập Nặc Tôn (Outey II), con Nặc Nhuận vốn đang nương nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên trong lúc hoạn nạn làm vua Chân Lạp. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong Long (vùng đất nằm giữa Sông Tiền và Sông Hậu tương ứng với Châu Đốc, Sa Đéc) để tạ ơn chúa Nguyễn[11].

Nhà nước chủ trương, khuyến khích và tạo điều kiện cho di dân người Việt và người Hoa di cư vào vùng đất mới ở phía Nam. Ngay từ thời nhà Lý, sau khi Đại Việt sát nhập những vùng đất của Champa, các triều đại luôn có chính sách khuyến khích lưu dân vào vùng lãnh thổ mới để một mặt mở rộng địa bàn cư trú, mặt khác đưa những người dân đến vùng đất mới để khẳng định và xác lập chủ quyền với vùng đất mới.

Chúng ta biết vào thời Nhà Lý, năm 1075, Lý Thường Kiệt có đi đánh Champa, họa đồ ba vùng đất Bồ Chính, Địa Lý, Ma Linh đã được nhập vào lãnh thổ Đại Việt trong cuộc hành quân của Lý Thánh Tông với Champa, sau đó Lý Thường Kiệt còn được giao mộ dân binh xuống cư trú tại vùng đất này[12]. Tình trạnh cũng diễn ra tương tự vào thời Trần, sau khi vùng đất châu Ô, Lý năm 1306.

Sang đến thời nhà Hồ, vua nhà Hồ đã thể hiện một quyết tâm to lớn nhầm xây dựng, giữ vững chủ quyền vùng đất mới thu lấy của Champa là Chiêm Động và Cổ Lũy. Toàn thư ghi lại về sự kiện nhà Hồ di dân vào đất mới: Quý Mùi, [1403], Mùa xuân, tháng 2, Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ…Người ở châu nào thì thích hai chữ tên châu ấy vào hai cánh tay để làm dấu hiệu. Đến năm sau đưa vợ con đi theo, giữa đường, bị bão chết đuối, dân phần nhiều ta oán. Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước…”[13].

Sang đến thời Lê, sau khi Lê Thanh Tông chinh phục Champa lấy những vùng đất từ Quảng Nam đến Bình Định vua đã cho những tù binh bị lưu đầy ở Thanh Hóa, nghệ An, Hà Tĩnh di cư vào vùng đất mới biên chế cho họ theo từng địa phương[14].

Sang đến giai đoạn sau, đặc biệt là thời chúa Nguyễn cho dù đại đa số di dân không phải do nhà nước tổ chức như trước nữa, mà phần đông là do tự nguyện di cư vào miền Nam (nguyên nhân đã phân tích ở phần trước), nhưng nếu như không có chủ trương tổ chức và tạo điều kiện của chúa Nguyễn thì chưa chắc đã có đông di dân đến như vậy. Một mặt, những di dân này bỏ quê hương bản quán, vốn khó khăn, bị đe dọa liên tục bởi thiên tai, đói kém. Bên cạnh đó, chúa Nguyễn cũng rất muốn thu giữ những người này, cấp đất đai, tổ chức hành chính, làng xã cho họ, để nhầm gia tăng lực lượng, sức mạnh cho cháu Nguyễn chống với họ Trịnh ở Đàng Ngoài, ngoài ra những lưu dân này còn giúp chúa Nguyễn xác lập chủ quyền của quốc gia ở những vùng đất mới sáp nhập, như các triều trước đã làm.

Đến thời chúa Nguyễn, một chính sách tổ chức di dân chưa có tiền lệ trước đó, được thực hiện, đó là sử dụng, tạo điều kiện cho lực lượng di dân người Hoa vào khai phá phương Nam. Nguyên là vào thế kỷ XVII nhà Minh bị lật đổ, quan lại, binh sĩ và cư dân Trung Quốc không chịu phục tùng nhà Thanh do ngoại tộc thành lập, nên vượt biển vào vùng Đàng Trong với số lượng hàng ngàn người. Họ xin chúa Nguyễn giúp cho chổ ở, nhân tình hình chúa Nguyễn mới cho những di dân này đến vùng đất Đông Nam bộ ngày nay cư trú, hành động này có tác dụng to lớn trong cuộc Nam tiến, bởi vì cho dù trước đó đa số người Việt đã đến đây làm ăn, sinh sống, chúa Nguyễn củng đã lập hai trạm thu thuế ở đây, tức là vai trò của người Việt ở vùng mà ngày nay là Biên Hòa, Thành phố Hồ Chí Minh đang rất lớn, nhưng trên thực tế chủ quyền khu vực này vẫn thuộc về người Chân Lạp, nên sử dụng một lực lượng rất đông người Hoa đến khai phá vùng đất này, sẽ tạo điều kiện để sau này chúa Nguyễn công khai xác lập chủ quyền về Đại việt vùng đất này một cách dễ dàng.

Như vậy, trong suốt tiến trình Nam tiến, những di dân buổi đầu đều là do nhà nước tổ chức, những di dân tự nhiên có, nhưng rất ít (chính vì thế ở chương sau tôi xếp giai đoạn này là Nam tiến tự phát, sang đến thời kỳ sau thì Nam tiến mới chuyển sang tự giác). Sang đến thời chúa Nguyễn, đại đa số là những di dân là tự do, số lượng những di dân này tuy không trực tiếp do chúa Nguyễn tổ chức, nhưng ít nhất phải có sự đồng thuận, tạo điều kiện của các chúa Nguyễn, thì họ mới có thể đến định cư những vùng đất mới, tổ chức thành làng xã, sản xuất phục vụ cho chính quyền, đáng chủ ý là những lưu dân người Hoa. Đây là một chủ trương, đối sách quan trọng của chính quyền, góp phần thu giữ, xác lập chủ quyền của người Việt trên các vùng đất mới.

Sử dụng con đường hôn nhân. Trong quá trình Nam tiến, có hai cuộc hôn nhân đáng chú ý đó là cuộc hôn nhân giữa Simhavarman III (Chế Mân) và Huyền Trân công chúa, thứ hai là hôn nhân giữa vua Chey chetta II và công nữ Ngọc Vạn.

Trong cuộc hôn nhân đầu tiên, giữa công chúa Huyền Trân với vua Champa. Chúng ta thấy nổi lên những điểm đáng chú ý được sử liệu ghi nhận rằng: “…Tháng 2 (1305), Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và bộ đảng hơn trăm người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn. Các quan trong triều đều cho là không nên…”, năm 1306 “…Trước đây, Thượng hoàng vân du sang Chiêm Thành, đã hứa gã rồi. Các văn sĩ trong triều ngoài nội nhiều người mượn chuyện vua Hán đem Chiêu Quân gả cho Hung Nô làm thơ, từ bằng quốc ngữ để châm biếm việc đó…”, năm 1307 “… đổi hai châu Ô, lý thành châu Thuận và châu Hoá…Trước đấy chúa Chiêm Thành Chế Mân đem đất hai châu đó làm lễ vật dẫn cưới…”[15].

Như vậy, trong cuộc hôn nhân đầu tiên liên quan đến vấn đề mở nước này, chúng ta nhận ra được vua Champa Simhavarman III (Chế Mân) đã lấy hai châu Ô, Lý dâng cho Đại Việt để làm sính lễ cưới công chúa Đại Việt, ở đây tôi không đi vào nguyên nhân, rõ ràng trong lần hôn nhân này do phía Champa tự cầu hôn và dâng đất cho Đại Việt. Nhưng như trên đã thấy, cuộc hôn nhân này là do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khi sang Champa, hứa gả công chúa cho Chế Mân. Nhưng khi sứ giả được vua Chế Mân gửi sang, thì các quan đại thần đa phần không tán đồng, vua Champa có thể phải dâng thêm hai châu Ô, Lý, thì lúc đó vua Trần Anh Tông mới quyết đem gả công chúa Huyền Trân cho vua Champa. Như vậy, cuộc hôn nhân này tuy là phía Đại Việt thụ động, nhưng Đại Việt đã đồng ý vì sính lễ là hai châu Ô, Lý. Nên tôi cho rằng, cuộc hôn nhân này sở dĩ thành hiện thực cũng do một phần nào năm trong tư duy chính trị của phía Đại Việt.

Cuộc hôn nhân thứ hai, giữa công chúa Ngọc Vạn và vua Chân Lạp Chey Chetta II năm 1620, lại có điểm khác biệt, cuộc hôn nhân này không trực tiếp đem đến cho Đại Việt một phần đất đai nào. Nhưng cuộc hôn nhân này lại là tiền đề cho công cuộc mở cõi về vùng đất Nam bộ thời bây giờ. Thông qua cuộc hôn nhân này, những người Việt đầu tiên đã theo bà Ngọc Vạn sang Chân Lạp, những lưu dân người Việt đầu tiên đã đến định cư trên vùng đất Nam bộ (lúc bấy giờ thuộc Chân Lạp). Sau cuộc hôn nhân này, dưới ảnh hưởng của mình, công nữ Ngọc Vạn đã cho phép, khuyên khích lưu dân người việc đến đây ngày càng đông. Nhờ cuộc hôn nhân này, mà chúa Nguyễn có thể lập được các trạm thu thuế đầu tiên ở vùng Gia Định, Biên Hòa. Đây chính là những tiền đề sau này để chúa Nguyễn có thể xác lập chủ quyền ở vùng đất Đông Nam bộ. Cuộc hôn nhân này, đánh dấu một bước ngoặt lớn, một sự kiện sẽ chi phối những sự kiện khác sau này của cả công cuộc Nam tiến vĩ đại của dân tộc.

Tóm lại, quá trình Nam tiến là một quá trình đấu tranh giữa Đại Việt với các quốc gia láng giềng, các quốc gia trong khu vực. Đó là quá trình vừa kiềm chế, hòa hợp, vừa tìm cách xâm chiếm, mở rộng lãnh thổ theo quy luật lịch sử. Quá trình đó, không phải ngắn ngủi, mà là một bước tiến dài, trải qua biết bao nhiêu biến cố của thời cuộc, của lịch sử, của mối quan hệ từng quốc gia, từng khu vực. Do đó, mà ở mỗi thời kỳ, cần có những chủ trương, đối sách, khôn khéo, phù hợp, thay đổi linh hoạt để hoàn thành cuộc Nam tiến một cách trọn vẹn. Ở trên, tôi đã trình bày ra bốn chủ trương, đối sách chính để thực hiện cuộc Nam tiến: tiến hành chiến tranh; can thiệp vào tình hình nội bộ Chân Lạp; tổ chức và tạo điều kiện cho di dân; con đường hôn nhân. 

2.3 Những lực lượng, thành phần tham gia vào cuộc Nam tiến.

Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt, không chỉ là một quá trình mà nhà nước thu giữ, xâm chiếm, sáp nhập, tuyên bố chủ quyền vùng đất mới, mà có được, đó còn phải là quá trình mà người Việt (hoặc do nhà nước tổ chức, hoặc tự nguyện) di cư vào vùng đất mới, sinh sống, lao động. Một mặt họ đã dựng làng, mở xóm, xây dựng, mở rộng nền hành chính của quốc gia mình, mặt khác sự có mặt của những di dân trên những vùng đất mới chiếm lĩnh, mới sáp nhập này, còn khẳng định chủ quyền quốc gia, cũng như quyết tâm giữ vững vùng đất mới chiếm giữ đó. Vì vậy, nói đến Nam tiến, mà chỉ nói về lịch sử những lần thu giữ, sáp nhập, chiếm lĩnh đất đai, thiết lập chế độ hành chính ở vùng đất mới là chưa đủ. Cần phải nói đến những di dân đã vào sinh sống, làm ăn trong vùng đất mới. Tìm hiểu xem họ gồm những ai? Vì lý do gì mà phải vào Nam? Những cuộc di cư này là tự nguyện hay bắt buộc.

Những nguyên nhân, điều kiện, hoàn cảnh của đất nước và quan hệ khu vực được trình bày ở phần trên không những chỉ ảnh hưởng đến việc đề ra những chủ trương, đối sách Nam tiến của chính quyền, mà còn ảnh hưởng đến thành phần, lực lượng của những người di cư vào Nam, trên đường mở cõi. Tùy từng giai đoạn, từng thời kỳ với những diều kiện, hoàn cảnh lịch sử quốc gia, khu vực khác nhau thì thành phần, lực lượng những di dân này cũng sẽ khác nhau.

Sử sách, chép khá rõ về những dòng di dân vào thời kỳ Nam tiến. Chúng tôi xin nêu ra ở đây những loại người được sử liệu đề cập phổ biến, đã tham gia vào công cuộc Nam tiến.

  • Những tướng lĩnh, quan chức tiên phong đi chính chiến mở cõi hoặc đi trấn thủ vùng đất mới, rồi ở lại cùng với gia đình, thân thuộc, người hầu, linh canh trên vùng đất mới. Chẳng hạn như Lương Văn Chánh (thời Nguyễn Hoàng, người được giao đưa quân vào Phú Yên khai phá)[16], Nguyễn Hữu Cảnh (người được chúa Nguyễn giao thu lấy phần đất Bình Thuận và sau đó là kinh lược sứ Đồng nai, Gia Định), hay trường hợp Chủ sự Văn Phong[17]…
  • Những tướng lĩnh và quan chức không được triều đình yêu trọng, thậm chí khinh ghét, trù dập, bị đưa ra trấn giữ vùng đất mới mở. Những người này lại mang theo gia đình và gia nhân của họ với số lượng lớn đi theo. Tiêu biểu trong số này có Nguyễn Hoàng[18], hay trường hợp một vị quan thần của ông là Đào Duy Từ (có tài nhưng không được chúa Trịnh trọng dụng bỏ vào Nam theo chúa Nguyễn).
  • Những binh lính, cũng đồng thời là những nông bình, trong những năm tháng đầu tiên mở cõi. Những người này được chính quyền đem đến để trấn thủ, bảo vệ những vùng đất vừa tiếp quản, nhưng cũng một số họ ở lại vùng đất mới lập nghiệp. Nhà nước tổ chức cho họ vừa là quân sĩ, lúc nhàn thì tham gia sản xuất nông nghiệp.
  • Những người nông dân không có ruộng, ruộng ít hay ruộng đất bị chiếm đoạt bởi tình hình khủng hoảng ruộng đất ngày càng trầm trọng của phía Bắc bộ, nhất là thời kỳ Lê – Trịnh. Về những người đầu tiên trong số này, thật ra đã vào Nam từ thời Hồ đã di cư vào Nam, Toàn Thư ghi lại năm 1403: “…Mùa xuân, tháng 2, Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ…”[19].
  • Những người bỏ quê hương, bản quán trên đường lánh nạn đao binh trong những thời kỳ chiến tranh, phân liệt, đặc biệt là vào thời kỳ phân tranh Nam – Bắc triều và Trịnh – Nguyễn. Về những con người này, sử liệu cung cấp cho chúng ta nhiều cứ liệu, trong đó sách Toàn Thư có đoạn chép: “…Năm (1571) ấy, các huyện ở Nghệ An, đồng ruộng bỏ hoang, không thu được hạt thóc nào, dân đói to lại bị bệnh dịch, chết đến quá nửa, nhiều người xiêu giạt, kẻ thì lần vào Nam…”[20].
  • Những tội đồ, bị chính quyền xử tội lưu đầy, được chính quyền sử dụng như là những nhân công cho cuộc khai thác, làm chủ những vùng đất mới chiếm được. Với các thành phần này, sử liệu năm 1474 của Toàn Thư cũng chép rõ: “…Mùa hạ, tháng 4, ngày 22, ra sắc chỉ rằng: Tù nhân bị tội lưu, ở châu gần thì sung làm quân vệ Thăng Hoa, ở châu ngoài thì sung làm quân vệ Tư Nghĩa, ở châu xa thì sung làm quân vệ Hoài Nhân, những kẻ được tha tội chết cũng sung làm làm quân vệ Hoài Nhân…”[21].
  • Những tù binh của cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn, những nông dân Đàng Ngoài bị chúa Nguyễn bắt hoặc ép vào Đàng Trong, làm gia tăng lực lượng cho chúa Nguyễn tạo sức mạnh và thực hiện công cuộc mở cõi. Minh chứng về điều này, Toàn thư chép vào năm 1633 như sau “…Tháng 2, Nguyễn Phúc Nguyên sai quân đánh phá châu Nam Bố Chính, giết quan châu, lấy tiền của kho bắt hết dân đinh ở đó làm lính, đặt ra 24 đội thuyền…”[22].
  • Một trong những lực lượng đặc biệt, cũng cần phải kể đến trong số những lực lượng liên quan đến vấn đề Nam tiến. Những lưu dân người Hoa, biên niên sử chính thức của nhà Nguyễn, Đại Nam Thực Lục (Tiền biên) chép chi tiết về sự kiện liên quan đến những cư dân này như sau: “…Kỷ mùi,  năm  thứ  31  [1679],  mùa  xuân,  tháng  giêng,  tướng  cũ  nhà Minh là Long Môn tổng binh Dương Ngạn Địch và Phó tướng Hoàng Tiến Cao Lôi Liêm, Tổng binh Trấn Thượng Xuyên và phó tướng Trần An Bình đem hơn 3.000 quân và hơn 50 chiến thuyền đến các cửa biển Tư Dung và Đà  Nẵng,  tự  trần  là  bô  thần  nhà  Minh,  nghĩa  không  chịu  làm  tôi  nhà Thanh,  nên  đến  để  xin  làm  tôi  tớ.  Bấy  giờ  bàn  bạc&n
0