Chiến tranh trăm năm giữa Pháp và Anh- bài 2
Một số trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm năm Một số trận đánh trong cuộc chiến của nhà Edward năm 1337 -> 1360 Trận Crécy-1346 Bối cảnh Như đã nói ở phần trước trực hệ trưởng của Nhà Capetian đã qua đời để lại ba người thừa kế nam: Louis X, Philip V và ...
Một số trận đánh tiêu biểu trong chiến tranh Trăm năm
Một số trận đánh trong cuộc chiến của nhà Edward năm 1337 -> 1360
Trận Crécy-1346
Bối cảnh
Như đã nói ở phần trước trực hệ trưởng của Nhà Capetian đã qua đời để lại ba người thừa kế nam: Louis X, Philip V và Charles IV. Isabella-người con thứ tư của vua Phillip IV đã kết hôn với Edward II của Anh và năm 1312 bà này đã sinh hạ một cậu con trai được đặt tên là Edward Windsor-đây là người thừa kế tiềm năng cho ngai vàng của Anh quốc ( qua người cha của ông) và Pháp quốc (qua ông nội của ông).
Sau khi Philip VI kế thừa ngai vàng thì người Anh vẫn kiểm soát vùng Gascony. Vùng này sản xuất các loại hàng quan trọng là muối và rượu vang và có lợi nhuận rất cao. Đó là một vùng đất phong riêng biệt nằm lọt thỏm vào vùng đất của vương quốc Pháp hơn là một lãnh thổ của nước Anh. Sở hữu của vùng đất này là một tranh chấp quyết liệt giữa hai vị vua. Philip VI thì muốn Edward công nhận chủ quyền của mình, Edward lại muốn chiếm lại những vùng đất đã bị mất bởi cha. Một thỏa hiệp ” homage ” đã không làm hài lòng không bên nào đã được ký kết vào năm 1329, nhưng trong năm 1331 vì phải đối mặt với những vấn đề nghiêm trọng ở quê nhà, Edward đã chấp nhận Philip là Vua của Pháp quốc và từ bỏ tuyên bố của ông về ngôi vua Pháp. Trong thực tế người Anh vẫn giữ vùng Gascony, đổi lại Edward từ bỏ tuyên bố của ông như là một vị vua hợp pháp của nước Pháp.
Năm 1333, Edward III tiến hành một cuộc chiến tranh chống lại David II của Scotland. Philip nhìn thấy cơ hội để đòi lại vùng Gascony trong khi nước Anh đang tập trung sự chú ý về phía bắc. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh này ít nhất ban đầu lại là một thành công nhanh chóng cho quân Anh và vua David đã buộc phải chạy trốn sang Pháp sau khi bị đánh bại bởi vua Edward và Edward Balliol tại Trận Hill Halidon vào tháng Bảy. Năm 1336, Philip đã lên kế hoạch cho một chuyến chinh phạt để khôi phục David lên ngôi Scotland và cũng để chiếm lấy vùng Gascony nhưng đã bị thất bại tại trận Sluys.
Để trả đũa ngày 05 tháng 7 năm 1346, Edward III dong buồm từ Portsmouth với khoảng 750 tàu và 7,000-10,000 lính bắt đầu một cuộc tấn công lớn từ Englis Channel. Đi cùng với ông là Edward, Hoàng tử đen (Edward của Woodstock)-con trai của ông mới gần 16 tuổi, gần đây đã được phong làm Hoàng tử xứ Wales. Ngày 12 tháng 7, Edward đã đổ bộ xuống Hague trong Bán đảo Cotentin của vùng Normandy.
Quân Anh hành quân xuyên qua Normandy. Philip đã tập hợp một đội quân lớn để chống lại ông ta và Edward đã chọn để hành quân về vùng đất thấp phía bắc, tiến hành cướp bóc những vùng ông đã đi qua hơn là cố gắng để chiếm và giữ các vùng lãnh thổ. Trong thời gian này, ông đã có hai trận chiến thành công, đó là trận đột kích vào Caen và Trận Blanchetaque. Cuối cùng không thể lẩn tránh mãi đội quân của Philip, Edward đã bố trí lực lượng của mình cho trận chiến và Philip đã tấn công vào của quân đội ông tại Trận Crécy nổi tiếng. Lực lượng quân đội Pháp với số lượng lớn hơn rất nhiều lần đã thực hiện một loạt các cuộc tấn công từng phần vào bộ binh Anh và cung thủ trường cung xứ Wales, và tất cả các cuộc tấn công đã bị đánh tan tác với tổn thất nặng nề cho đến khi người Pháp buộc phải rút lui. Crécy là một thất bại tan nát đối với người Pháp.
Chỉ huy của các bên đối địch
Chỉ huy bên Anh
Vua Edward III
Edward III (của Windsor) (13 tháng 11 1312 – Ngày 21 tháng 6 năm 1377) là một trong những nhà vua Anh thành công nhất thời Trung cổ. Ông đã phục hồi được quyền lực của hoàng tộc sau thời gian trị vì tai hại của cha ông-Edward II, sau đó Edward III tiếp tục chuyển đổi Vương quốc Anh thành một trong những quốc gia có lực lượng quân sự hiệu quả nhất ở châu Âu. Trong triều đại của ông đã có sự phát triển quan trọng trong cơ quan lập pháp và chính phủ đặc biệt là sự phát triển của Quốc-hội Anh cũng như sự tàn phá của bệnh dịch Black Death. Ông đã ở trên ngôi vị 50 năm, không có nhà vua Anh nào lại có thể trị vì lâu như Henry III trừ George III- vua của Vương quốc Anh.
Edward lên ngôi ở tuổi mười bốn, sau khi cha ông bị truất ngôi. Khi chỉ mới mười bảy tuổi, ông đã cầm đầu một cuộc đảo chính để chống lại, Roger Mortimer – viên quan nhiếp chính và bắt đầu cai trị với tư cách cá nhân của ông. Sau khi đánh bại, nhưng không chinh phục nổi Vương quốc Scotland, ông tuyên bố mình là người thừa kế hợp pháp ngôi vua nước Pháp trong năm 1338, bắt đầu từ những gì sẽ trở thành cuộc chiến trăm năm. Sau một số trở ngại ban đầu, cuộc chiến đã trở nên đặc biệt thuận lợi với nước Anh, những chiến thắng ở Crécy và Poitiers đã dẫn đến Hiệp ước Brétigny rất thuận lợi. tuy nhiên những năm sau của Edward lại được đánh dấu bằng thất bại trên chính trường quốc tế và những xung đột trong nước, chủ yếu là do tính cách bảo thủ và sức khỏe tồi tệ của ông.
Edward III là một con người có tính khí thất thường nhưng cũng có lòng khoan hồng lớn. Ông cũng giống như hầu hết các vị vua bình thường khác, chủ yếu là quan tâm đến chiến tranh. Trong nhiều thế kỷ sau, Edward đã bị tố cáo như là một con người phiêu lưu vô trách nhiệm bởi các nhà sử gia thuộc Whig. Nhưng hiện nay quan điểm này đã thay đổi và các nhà sử gia hiện đại đã tin rằng ông ta đã tạo ra rất nhiều thành tích.
Tiểu sử
Tuổi trẻ
Edward được sinh ra tại Windsor ngày 13 Tháng 11 năm 1312, và được gọi là Edward Windsor trong những năm đầu đời của ông. Triều đại của ông mình-Edward II, đã tràn ngập với những thất bại quân sự, các đại quý tộc nổi loạn và cận thần tham nhũng, nhưng sự ra đời của một người thừa kế nam vào năm 1312 đã tạm thời cải thiện vị trí của Edward II trên ngôi báu. Trong những gì có lẽ là một nỗ lực của cha ông để kéo lại ưu thế của hoàng gia sau nhiều năm bị bất mãn, Edward con đã được phong làm Bá tước của Chester ở lúc chỉ mới mười hai ngày tuổi và chỉ không đến hai tháng sau đó, cha ông đã lập ra cho con mình một triều đình với đầy đủ các cận thần, để ông có thể sống độc lập như thể ông là một nhà quý tộc đã trưởng thành.
Bất mãn với Edward II đã tăng lên một lần nữa khi ông trở nên mê muội vì Hugh Despenser Trẻ. Sự tham lam và bạo lực của ông đã không được nhà vua kiểm soát và ông này có rất nhiều kẻ thù. Sợ rằng phải để lại một mình Despenser ở lại Anh với rất nhiều những người muốn giết ông này, nhà vua với vợ là Nữ hoàng Isabella đến Pháp để đàm phán với ông anh vợ là-Charles IV của Pháp. Sau đó Charles yêu cầu có sự quy phục từ Edward II hoặc từ con trai ông. Nhà vua đã bị thuyết phục bởi Despenser và cha ông đã để cho Edward sang Pháp. Ở Pháp rất nhiều kẻ thù của Despenser đã tụ tập quanh Isabella và họ đã lợi dụng Edward chống lại nhà vua. Để tăng cường liên minh giữa Isabella và Hainault, ông đã đính hôn với Philippa của Hainault. Từ đó một cuộc xâm lược đã được tiến hành và quân đội của Edward II hoàn toàn bỏ rơi ông ta.
Ngày 20 tháng một năm 1327, khi Edward con được mười bốn tuổi, mẹ của ông và tình nhân của bà là Roger Mortimer đã lật đổ nhà vua. Edward lúc này đã trở thành Edward III và đăng quang vào ngày 01 tháng 2, với Isabella và Mortimer là các nhiếp chính. trên thực tế Mortimer là người cai trị Anh, nhưng ông này bị nhà vua trẻ tuổi căm gét và luôn bị làm nhục. Vào ngày 24 tháng 1 năm 1328 nhà vua mười lăm tuổi, kết hôn với Philippa của Hainault mới mười ba tuổi tại York Minster.
Mortimer biết rằng vị trí của ông là rất bấp bênh, đặc biệt là sau khi Philippa có một con trai vào ngày 15 tháng sáu năm 1330. Ông đã sử dụng quyền lực của mình để có được danh hiệu cao quý và chiếm nhiều bất động sản, rất nhiều trong số đó thuộc về Edmund FitzAlan, Bá tước đời thứ 9 của Arundel. FitzAlan, người vốn vẫn trung thành với Edward II trong cuộc đấu tranh của ông với Isabella và Mortimer, đã bị hành hình vào ngày 17 tháng 11 năm 1326. Tuy nhiên Mortimer vốn rất kiêu ngạo và có lòng tham vô đáy nên rất nhiều các quý tộc khác rất căm ghét ông ta, tất cả điều này là không qua được mắt vị vua trẻ.
Vị vua trẻ tuổi và cứng đầu đã không quên số phận của cha mình, tại sao ông đã bị đối xử như một đứa trẻ. Vào lúc gần 18 tuổi, Edward đã sẵn sàng để trả mối thù của mình. Ngày 19 tháng 10 năm 1330, Mortimer và Isabella đang ngủ tại lâu đài Nottingham Castle. Ẩn náu trong bóng đêm, một nhóm trung thành với Edward bước vào pháo đài qua một lối đi bí mật và xông vào phòng của Mortimer. Phe đảo chính tiến hành bắt giữ Mortimer nhân danh nhà vua, và ông này được đưa đến nhà Ngục tháp London. Bị tước đoạt hết đất đai và tước vị, ông đã bị kéo lê trước mặt nhà vua mới 17 tuổi và bị cáo buộc là giả mạo quyền lực của hoàng gia của Anh quốc. Mẹ của Edward có lẽ đã mang thai với Mortimer và bà cầu xin cho lòng thương xót một cách vô ích. Không có xét xử, Edward kết án tử hình Mortimer một tháng sau cuộc đảo chính. Sau khi Mortimer bị hành hình, mẹ của Edward đã bị lưu đày tại lâu đài Castle Rising nơi có báo cáo là bà đã bị sảy thai. Vào ngày sinh nhật thứ 18 của ông, Edward đã hoàn tất việc trả thù và ông đã trở thành người cai trị duy nhất ở Anh quốc.
Những năm đầu của triều đại Edward III
Edward đã lựa chọn nối lại cuộc xung đột quân sự với Vương quốc Scotland nơi mà cha và ông nội của ông đã tham chiến với những thành công khác nhau. Edward đã bác bỏ Hiệp ước Northampton vốn được ký kết trong thời gian nhiếp chính, do đó đổi mới tuyên bố về chủ quyền của Anh với Scotland và kết quả là nổ ra cuộc chiến tranh giành độc lập lần Thứ hai của Scotland.
Có ý định lấy lại những gì mà người Anh cho là của họ, ông đã giành lại quyền kiểm soát Berwick và có được một chiến thắng quyết định Anh tại Trận Hill Halidon trong năm 1333 khi chống lại lực lượng của David II-nhà vua trẻ tuổi của Scotland. Edward III lúc này đặt Edward Balliol trên ngai vàng của Scotland và yêu cầu bồi thường một khoản tiền tương đương 2.000 librates đất tại các quận phía nam – Lothians, Roxburghshire, Berwickshire, Dumfriesshire, Lanarkshire và Peebleshire. Bất chấp những chiến thắng của ông ở Dupplin và Halidon, phe nhà Bruce đã sớm bắt đầu khôi phục và vào cuối năm 1335 sau Trận Culblean thì sự chiếm đóng của nhà Plantagenet ngày càng trở nên khó khăn và phe nhà Balliol đã nhanh chóng sụp đổ.
Tại thời điểm này, năm 1336, John của Eltham, Bá tước xứ Cornwall-em trai của Edward III chết. John Fordun trong quấn Gesta AnnaliaPerth. đã tuyên bố rằng Edward đã giết chết em trai của ông trong một cuộc tranh cãi tại
Mặc dù Edward III đã phải dùng đến một đội quân rất lớn để chiến đấu ở Scotland, bởi vào năm 1337 phần lớn lãnh thổ Scotland đã được phục hồi bằng lực lượng của David II, chỉ để lại một vài lâu đài như Edinburgh, Roxburgh và Stirling thuộc sở hữu của Plantagenet. Những vị trí cỏn con này không đủ để áp đặt sự cai trị của Edward và năm 1338/ 9 Edward đã chuyển từ một chính sách chinh phục sang chính sách ngăn chặn.
Edward phải đối mặt với các vấn đề quân sự trên hai mặt trận; những thách thức từ chế độ quân chủ Pháp. Người Pháp tạo ra ba vấn đề: đầu tiên, họ đã cung cấp hỗ trợ liên tục cho người Scotland qua liên minh Pháp-Scotland. Philip VI bảo vệ cho David II sống lưu vong và hỗ trợ các cuộc tấn của Scotland vào phía Bắc nước Anh. Thứ hai, Pháp tấn công một số thị trấn ven biển Anh, dẫn đến tin đồn ở Anh về một cuộc xâm lược toàn diện. Cuối cùng, của tài sản nhà vua Anh ở Pháp đã bị đe dọa, trong 1337, Philip VI tịch thu công quốc Aquitaine và hạt Ponthieu.
Thay vì tìm kiếm một giải pháp hòa bình cho cuộc xung đột bằng cách tỏ lòng tôn kính nhà vua Pháp, Edward tuyên bố chủ quyền với vương miện của nước Pháp như là hậu duệ nam duy nhất còn sống của ông ngoại đã chết của ông, Philip IV. Tuy nhiên người Pháp viện dẫn luật Salic và bác bỏ yêu cầu này và cho rằng Philip VI-cháu trai của Philip IV mới là người thừa kế thực sự, và qua đó làm bùng nổ chiến tranh Trăm năm. Edward đã cho kết hợp biểu tượng tam sư của nước Anh và hoa huệ của nước Pháp thành gia huy trên áo choàng của mình và tự xưng làm vua của cả Anh và Pháp.
Trong cuộc chiến chống lại nước Pháp, Edward đã xây dựng liên minh với một thiểu số các hoàng thân ở Pháp. Năm 1338, Louis IV đại diện của Đế quốc La Mã Thần thánh đã hứa hỗ trợ ông. Tuy nhiên biện pháp này tạo ra những kết quả ít ỏi, chỉ có chiến dịch quân sự chính được thực hiện trong giai đoạn này của cuộc chiến là chiến thắng của hải quân Anh tại Sluys ngày 24 tháng 6 năm 1340, làm 16.000 binh lính và thủy thủ Pháp đã thiệt mạng.
Trong khi đó, áp lực tài chính vào vương quốc bị gây ra bởi các liên minh đắt tiền của Edward đã dẫn đến sự bất mãn ở quê nhà. Đáp lại, ông trở về mà không báo trước vào ngày 30 tháng 11 năm 1340. Để xóa bỏ sự rối loạn, ông đã quyết định thanh trừng chính quyền hoàng gia và phớt lờ về khoản nợ nước ngoài của Anh quốc (người đầu tiên trong số hai nhà vua không trả nợ trong lịch sử Anh quốc) và có thể ông đã góp phần vào sự sụp đổ của ngân hàng Compagnia dei Bardi. Những biện pháp này đã không mang lại sự ổn định trong nước và sau đó một bế tắc xảy ra giữa nhà vua và John de Stratford-Tổng.giám.mục Canterbury.
Edward, tại Nghị viện Anh của Tháng Tư năm 1341, đã buộc phải chấp nhận hạn chế nghiêm trọng đến đặc quyền của mình về tài chính và hành chính. Tuy nhiên, vào tháng Mười năm đó, nhà vua bác bỏ đạo luật này và đã bị Đức Tổng.giám.mục Stratford tẩy chay về mặt chính trị. Các trường hợp bất thường của Quốc.hội năm 1341 đã buộc nhà vua vào trình, nhưng trong những hoàn cảnh bình thường các quyền hạn của nhà vua trong thời Trung cổ Anh đã hầu như không giới hạn, và Edward đã lợi dụng điều này.
Vận may của chiến tranh
Sau nhiều chiến dich không có kết quả tại Lục địa châu Âu, Edward đã quyết định tiến hành một cuộc tấn công lớn trong năm 1346 và căng buồm đi Normandy với một lực lượng là 15.000 người. Quân đội của ông chiếm thành phố Caen và hành quân trên toàn miền Bắc nước Pháp. Ngày 26 tháng 8 ông đã gặp lực lượng vua của Pháp trong trận chiến Crécy và giành được một chiến thắng quyết định. Trong khi đó khi trở về nhà, William Zouche-Tổng.giám.mục York đã huy động được một đội quân để chống lại David II, người đã quay trở lại và đánh bại rồi bắt tù binh ông này (David II) tại Trận Cross of Neville vào ngày 17 tháng 10. Với biên giới phía bắc của ông đã được bảo đảm, Edward cảm thấy tự do để tiếp tục cuộc tấn công lớn của ông vào nước Pháp và tiến hành bao vây thành phố Calais, thành phố này đã thất thủ sau gần một năm bị bao vây vào tháng 8 năm 1347.
Cũng trong năm 1348, bệnh dịch Black Death đã lan vào Châu Âu và đã giết chết một phần ba hoặc hơn nữa dân số nước Anh. Điều này có nghĩa là không đủ nhân lực để tiến hành một chiến dịch lớn. Các chủ đất lớn phải vật lộn với tình trạng thiếu nhân lực và tình trạng lạm phát đã dẫn đến chi phí lao động cao vọt. Cố gắng để khắc phục tình huống này, nhà vua và Quốc.hội đã ban hành Pháp lệnh về người làm công (1349) và Điều lệ về người làm công (1351). Tuy nhiên bệnh dịch hạch đã không dẫn đến một sự cố toàn diện cho chính phủ và xã hội và số nhân khẩu được nhanh chóng phục hồi một cách đáng kể.
Năm 1356, con trai của Edward, Edward, Hoàng tử đen, đã giành một chiến thắng tuyệt vời tại trận Poitiers. Lực lượng Anh ít hơn rất nhiều không chỉ đẩy lui người Pháp mà còn bắt tù binh vua Pháp, John II. Sau khi một loạt các chiến thắng, người Anh đã nắm giữ số tài sản lớn ở Pháp, vua Pháp bị giam ở Anh và chính phủ trung ương Pháp đã gần như hoàn toàn sụp đổ. Cho dù yêu cầu bồi thường của Edward đến vương miện của Pháp ban đầu thật ra chỉ là một mánh khóe chính trị, nó bây giờ dường như là trong tầm tay. Tuy nhiên, một chiến dịch trong năm 1359 với mục đích để hoàn tất các cam kết nhưng lại không thành công. Do đó năm 1360, Edward chấp nhận Hiệp ước Brétigny, theo hiệp ước này ông từ bỏ tuyên bố của mình về ngôi vua nước Pháp nhưng được bảo đảm rằng chủ quyền của tài sản của ông ở Pháp là đầy đủ.
Thời gian sau của triều đại III
Trong thời gian đầu của triều đại của ông, Edward đã tỏ ra năng động và thành công, trong những năm sau ông đã trở nên ỳ vì những thất bại quân sự và xung đột chính trị. Các công việc hằng ngày của quốc gia đã thu hút hơn Edward hơn những chiến dịch quân sự, do đó, trong thập kỷ 1360 Edward ngày càng dựa vào sự giúp đỡ của các thuộc hạ của mình, đặc biệt là William Wykeham. Là một kẻ mới phất, Wykeham đã được bổ nhiệm làm Lord Privy Seal (quan chưởng ấn) trong năm 1363 và Lord Chancellor vào năm 1367, mặc dù những khó khăn trong sự kết nối chính trị cùng với thiếu kinh nghiệm của ông ta, Quốc.hội đã buộc ông này phải từ chức chancellorship trong năm 1371.
Càng tạo thêm các khó khăn cho Edward là những cái chết của người mà ông tin cậy nhất, một số do sự tái phát của bệnh dịch hạch từ năm 1361-1362. William Montacute- đồng hành của Edward III trong cuộc đảo chính 1330, đã chết năm 1344. William de Clinton, Người đã ở cùng với nhà vua tại Nottingham đã qua đời năm 1354. Một trong những Bá tước của năm 1337, William de Bohun, đã qua đời năm 1360 và năm tiếp theo là Henry Grosmont, có lẽ là viên đại úy ưa thích nhất của Edward đã chết vì dịch hạch. Cái chết của họ để lại phần lớn các Thành viên Quốc.hội trẻ hơn và tự nhiên là phù hợp với các hoàng tử hơn là với nhà vua.
Người con trai thứ hai của nhà vua, Lionel Antwerp, cố gắng để quy phục lực lượng tự trị của các lãnh chúa người Anglo-Ailen ở Ireland. Nhưng chiến dịch đã không thành công, và nó chỉ kéo dài sự chiếm đóng của người Anh theo Điều luật Kilkenny trong năm 1366.
Tại Pháp, trong khi đó, trong thập kỷ sau Hiệp ước Brétigny là một trong yên bình tương đối, nhưng trên 8 tháng Tư, 1364 John II đã chết trong giam cầm ở Anh, sau khi không thành công cố gắng để nâng cao tiền chuộc của riêng mình tại nhà. Ông đã được thừa kế bởi nhà vua Charles V mạnh mẽ, người đã tranh thủ được năng lực của vị Nguyên soái đầy tài năng Bertrand du Guesclin. Năm 1369, chiến tranh ở Pháp lại bắt đầu với một chiều hướng và John của xứ Gaunt-người con trai trẻ tuổi của Edward đã được trao trách nhiệm chỉ huy một chiến dịch quân sự. Những nỗ lực này đã không thành công và với Hiệp ước Bruges trong năm 1375 các tài sản lớn của Anh ở Pháp đã bị giảm xuống chỉ còn là các thị trấn ven biển Calais, Bordeaux và Bayonne.
Thất bại quân sự ở nước ngoài và áp lực liên quan đến tài chính của chiến dịch quân sự đã dẫn đến sự bất mãn chính trị tại quê nhà. Vấn đề này đã lên đến đỉnh cao ở nghị viện vào năm 1376 và trở thành cái gọi là Good Parliament. Quốc.hội được triệu tập để ban hành sắc thuế mới, nhưng House of Commons nắm lấy cơ hội để giải quyết những khiếu nại cụ thể. Đặc biệt, những lời chỉ trích đã được nhắm vào một số các cố vấn thân cận nhất của nhà vua. Lord Chamberlain William Latimer và Lord Steward John Neville, 3 Baron de Raby Neville. Alice Perrers- người tình của Edward, người đến lúc đó được coi như nắm quá nhiều quyền lực so với vị vua già, đã bị đuổi khỏi triều đình. đã bị miễn nhiệm khỏi vị trí của họ.
Tuy nhiên đối thủ thực sự của Quốc-hội, người vốn được hỗ trợ bởi những Đại quý tộc hùng mạnh như Wykeham và Edmund de Mortimer, Bá tước thứ 3 Earl của Max, lại là John của Gaunt. Cả nhà vua và Hoàng tử đen vào thời gian này mất khả năng điều hành Triều chính do bệnh tật, Gaunt đã nắm quyền kiểm soát chính phủ Anh, nhưng rồi ông này cũng đã buộc phải nhượng bộ những đòi hỏi của Quốc.hội, nhưng sau cuộc họp Quốc-hội trong năm 1377, hầu hết các thành tựu của nó đã bị đảo ngược.
Tuy nhiên bản thân Edward đã không làm gì nhiều trong thời kỳ này, sau khoảng năm 1375, ông đóng một vai trò hạn chế trong chính phủ. Khoảng 29 tháng 9, 1376 ông bị bệnh và bị áp xe (có tin đồn là ông bị bệnh lậu). Sau một thời gian ngắn hồi phục vào tháng Hai, nhà vua đã chết vì một cơn đột quỵ tại Sheen, ngày 21 tháng Sáu. Ông được kế tục bởi cháu trai mười tuổi của mình, Vua Richard II-con trai của Hoàng tử đen vì ông này cũng đã qua đời vào ngày 8 tháng 6 năm 1376.
Edward, Hoàng tử đen
Edward của Woodstock, Hoàng tử xứ Wales, Công tước xứ Cornwall, Hoàng tử của Aquitaine, (15 tháng 6 năm 1330 – Ngày 08 tháng 6 1376) là con trai cả của vua Edward III của Anh và Philippa của Hainault, và là cha của vua Richard II của Anh quốc.
Ông được gọi là Edward của Woodstock-nơi ông được sinh ra và sau này ông được gọi một cách phổ biến là Black Prince. Ông là một nhà lãnh đạo quân sự đặc biệt, chiến thắng của ông trước người Pháp ở Crécy và Poitiers làm cho ông ta trở nên rất nổi tiếng. Năm 1348 ông trở thành người đầu tiên Knight of the Garter, tổ chức mà ông là một trong những người sáng lập.
Edward qua đời một năm trước cha của ông và trở thành Hoàng tử xứ Wales đầu tiên không để trở thành vua của nước Anh, thay vào đó là con trai ông- Richard II, một cậu bé vị thành niên đã lên ngôi sau cái chết của Edward III.
Edward sinh ngày 15 tháng 6 năm 1330 tại Woodstock Palace ở Oxfordshire. Ông đã được lập làm Bá tước của Chester vào ngày 18 Tháng 5 năm 1333, Công tước xứ Cornwall ngày 17 tháng 3 năm 1337 và cuối cùng là Hoàng tử xứ Wales vào ngày 12 tháng năm 1343 khi ông mới gần mười ba tuổi. Ở Anh, Edward đã từng là một nhiếp chính tượng trưng trong thời kỳ những năm 1339, 1340 và 1342, trong khi Edward III đang tham gia vào các chiến dịch. Ông được dự kiếnsẽ tham dự tất cả các cuộc họp Quốc-hội và ông đã tham gia vào các cuộc đàm phán với giáo hoàng về cuộc chiến tranh 1337.
Edward đã được nuôi lớn cùng với người chị em họ của ông-Joan, “The Maid Fair của Kent.” Edward đã được giáo hoàng Innocent VI làm phép rửa tội bởi vì quan hệ họ hàng của họ là tương đối gần (như khi Edward III kết hôn với Philippa của Hainault, người chị em họ của ông) và đã kết hôn với Joan trong ngày 10 tháng 10 năm 1361 tại lâu đài Windsor, cuộc hôn nhân này tạo ra một số tranh cãi, chủ yếu do thực tế là kết hôn với một người đàn bà̀ Anh là lãng phí một cơ hội để hình thành một liên minh với một thế lực ngoại quốc.
Khi ở Anh, nơi cư trú chính của Edward là ở Wallingford Castle trong Berkshire (Bây giờ Oxfordshire) hoặc Berkhamsted Castle trong Hertfordshire.
Ông từng là đại diện của nhà vua Anh tại Aquitaine, nơi ông và Joan nắm giữ một Triều đình vốn được coi là một trong những hoàng gia xuất sắc trong mọi thời gian. Đây là khu nghỉ dưỡng của các vị vua phải sống lưu vong, như James IV của Majorca và Peter của Castile.
Peter của Castile, bị đẩy khỏi ngai vàng của mình bởi anh trai ngoài giá thú-Henry của Trastámara, ông này xin dâng các lãnh địa của mình ở vịnh Biscay cho Edward vào năm 1367, để đổi lấy viện trợ của Hoàng tử đen trong việc khôi phục ngai vàng của mình. Edward đã thành công trong Trận Najera trong đó ông đánh bại hoàn toàn các lực lượng Pháp và Castilian do Bertrand du Guesclin chỉ huy.
Hoàng tử đen trở lại Anh trong tháng 1 năm 1371 và qua đời vài năm sau đó sau khi mắc một căn bệnh lâu dài có thể bị ung thư hoặc bệnh đa xơ cứng.
Edward và tinh thần thượng võ
Edward đã sống trong một thế kỷ của sự suy giảm trong lý tưởng hiệp sĩ. Sự hình thành Knight of the Garter, một tổ chức của hoàng gia Anh mà Edward là một thành viên sáng lập, thể hiện một sự thay đổi đối với chủ nghĩa quốc gia và xa rời việc tham gia các cuộc thập tự chinh-vốn vẫn là đặc trưng của quý tộc Anh trong hai thế kỷ trước. lập trường của Edward trong quá trình này dường như phần nào chia rẽ. Edward hiển thị tuân theo các nghĩa vụ đạo đức điển hình thông qua đóng góp hào hiệp của ông vào tòa Nhà thờ chính Canterbury trong suốt cuộc đời của ông.
Một mặt, sau khi bắt được John the Good-Vua của Pháp, và người con trai út của ông ta tại Poitiers, ông đối xử với họ một cách cực kỳ tôn trọng, ông còn cho phép John quay trở về nhà và cùng cầu nguyện với John tại tòa Nhà thờ chính Canterbury. Đáng chú ý là ông cũng cho phép một ngày trước Trận Poitiers để hai bên có thể thảo luận về trận chiến sắp tới và để Hồng y Périgord có thể đàn phán hòa bình.
Mặt khác, tinh thần hiệp sỹ của ông cũng bị thay thế nhiều lần bởi chủ nghĩa thực dụng. Hoàng tử đen đã sử dụng lặp đi lặp lại chiến thuật chevauchée (đốt cháy và cướp bóc các thị trấn và các trang trại) vốn không phù hợp với quan niệm của tinh thần thượng võ, nhưng nó đã khá hiệu quả trong việc hoàn thành các mục tiêu của chiến dịch của ông và làm suy yếu sự thống nhất và nền kinh tế của nước Pháp. Trên chiến trường, chủ nghĩa thực dụng áp đảo tinh thần thượng võ cũng đã được chứng minh qua việc các bên ngày càng sử dụng nhiều pháo binh, các kị sỹ xuống ngựa để chiến đấu cùng với cung thủ trường cung và tấn công ở bên cánh. Hơn nữa, ông đặc biệt có thái độ khắc nghiệt và khinh thường đối với các tầng lớp thấp trong xã hội, biểu hiện bằng các loại thuế má nặng nề khi đánh vào công quốc Aquitaine và do đó ông đã gây ra những vụ thảm sát tại Limoges và Caen. Hành vi của Edward là điển hình của một số lượng ngày càng tăng các hiệp sĩ Anh và giới quý tộc ở cuối thời Trung cổ- những người càng lúc càng ít quan tâm hơn tới lý tưởng cao cả của tinh thần thượng võ, những hành vi mà sau này sẽ ảnh hưởng nhiều đến các nước khác.
Danh sách các chiến dịch lớn mà Hoàng tử Đen tham gia và ý nghĩa của nó
- Chiến dịch Flanders năm 1345 ở mặt trận phía Bắc-đây là một chiến dịch có rất ít ý nghĩa và kết thúc sau ba tuần khi một trong những đồng minh của Edward đã bị ám sát.
- Chiến dịch Crécy trên mặt trận phía Bắc và nó làm tê liệt quân đội Pháp trong khoảng mười năm, cho phép người Anh tiến hành cuộc bao vây Calais mà chỉ gặp rất ít những kháng cự của quân chính quy của đối phương trước khi bệnh dịch hạch nổ ra. Ngay cả khi quân đội Pháp đã phục hồi, lực lượng họ được triển khai chỉ khoảng tương đương một phần tư quân số mà họ đã triển khai ở Crécy (như được cho thấy tại trận Poitiers). Vùng Normandy đã hầu như nằm trong sự kiểm soát của người Anh, nhưng họ lại quyết định tập trung vào miền Bắc nước Pháp, để vùng Normandy nằm dưới sự kiểm soát của chư hầu và đồng minh của nước Anh.
- Cuộc bao vây Calais, ở đó người dân phải chịu những hoàn cảnh tồi tệ nhất và họ phải ăn thịt chó và chuột. Cuộc bao vây đã tạo cho người Anh và chư hầu khả năng kiểm soát suốt cả miền Bắc nước Pháp trước khi có nền hòa bình tạm thời do bệnh dịch hạch Cái chết đen
- Chiến dịch phản công ở Calais, sau đó Calais vẫn nằm trong tay người Anh.
- Les sur Mer Espagnols hoặc trong trận Winchelsea trên kênh English Channel, đó là một chiến thắng có chút ít ý nghĩa Pyrrhic (chiến thắng với cái giá đắt đỏ, thậm chí làm người chiến thắng suy kiệt), để ngăn chặn các cuộc tấn của người Tây Ban Nha vào quận Ess.e.x của Anh quốc.
- Cuộc cướp bóc vĩ đại trong năm 1355 trong vùng Aquitaine-Languedoc, nhằm mục đích làm tê liệt nền kinh tế của miền Nam nước Pháp và gây nên sự bất mãn của nông dân Pháp với nhà vua của chính họ. Các cuộc tấn công chinh phục vào khu vực vùng “đệm” tạo cơ hội mở ra một liên minh với các nước láng giềng trong vùng Aquitaine mà xứ Navarre của Charles the Bad là một tiểu quốc đáng chú ý nhất, và gây ra xu hướng làm cho nhiều vùng thuộc nước Pháp muốn có quyền tự chủ và làm cho nước Pháp không còn là một vương quốc thống nhất nữa.
- Cuộc chinh phục vùng Aquitaine đem lại sự kiểm soát vững chắc hơn cho người Anh vào vùng đất này để mang lại nhiều nguồn tài nguyên đất đai và vật lực để phục vụ cho nhu cầu chiến tranh của Edward.
- Chiến dịch Poitiers ở vùng Aquitaine-Loire làm tê liệt quân đội Pháp trong vòng 13 năm, gây ra tình trạng hỗn loạn và chính sự hỗn loạn lại là căn nguyên của Hiệp ước Bretigney được ký kết trong năm 1360. Sau chiến dịch này, nước Pháp không còn bất kỳ vị chỉ huy quân đội danh tiếng nào, mọi thách thức đều dồn vào Charles the Wise (Charles VII-vị vua Pháp lên thay thế John II) và các quý tộc Pháp bị giết chết ở Crécy và Poitiers còn nhiều hơn cả bởi bệnh dịch Cái chết đen.
- Chiến dịch Reims, chiến dịch mà sau đó hòa bình cuối cùng đã đạt được với Hiệp ước Bretigny. Tuy nhiên, theo các điều khoản tương tự, người Anh chỉ rời khỏi khoảng một phần ba các vùng đất chiếm được của Pháp chứ không là hơn một nửa như họ sẽ phải thực hiện theo Hiệp ước London. Điều này là do thất bại trong việc chiếm Reims dẫn đến sự cần thiết của một lối đi lại an toàn trong nước Pháp. Kết quả là, một hiệp ước nhỏ hơn đã được đồng ý và Edward III đã buộc phải bỏ tuyên bố của ông lên ngôi vua Pháp. Pháp vẫn còn bị buộc phải trả một khoản tiền khổng lồ khoảng bốn lần tổng sản phẩm nội địa hàng năm của Pháp để chuộc John the Good. Các khoản tiền chuộc được trả được, tuy nhiên vẫn còn thiếu một chút so với yêu cầu của người Anh và John the Good đã không bao giờ được trả lại cho người Pháp. Như vậy, chiến dịch này mang lại nhiều kết quả khác nhau, nhưng chủ yếu là có ý nghĩa tích cực cho Edward. Một điều đáng nhớ là Edward III không bao giờ thực sự từ bỏ yêu cầu của mình đối với ngai vàng của và rằng khoảng một nửa lãnh thổ của Pháp đã bị kiểm soát bởi các chư hầu của người Anh.
- Cuộc vây hãm Limoges trong năm 1370 ở vùng Aquitaine, sau đó Hoàng tử Đen là đã phải dừng các công việc của mình lại không chỉ vì bệnh tật và các vấn đề tài chính, mà còn do sự tàn ác khủng khiếp của cuộc bao vây, quấn sử Froissar cho thấy có vụ thảm sát đến khoảng 3.000 cư dân của vùng này. Vì không có Hoàng tử, các nỗ lực chiến tranh của người Anh chống lại Charles the Wise và Bertrand Du Guesclin đã bị tiêu diệt. John of Gaunt-người anh em ruột của Hoàng tử Đen đã không quan tâm với cuộc chiến ở Pháp, mà hướng nhiều hơn sự chú ý của ông vào cuộc chiến kế vị ở Tây Ban Nha.
- Vua Edward III và hoàng tử Đen lại dong buồm đến nước Pháp từ Sandwich với 400 tàu chở 4.000 kị sỹ và 10.000 cung thủ, nhưng sau sáu tuần vì thời tiết xấu và hướng đi bị thay đổi, họ đã phải hướng trở lại nước Anh
William de Bohun-Bá tước Northampton (năm 1312-1360)
William de Bohun, bá tước đầu tiên của Northampton, một người anh em họ và người bạn tận tâm của Edward III, đã hai lần làm trung úy của nhà vua tại Anh và trong nội chiến Bretonvà một chỉ huy hàng đầu của Anh trong giai đoạn đầu tiên trong chiến tranh Trăm năm, ông là người con trai thứ năm của Humphrey de Bohun-bá tước của Hereford và Es***, và Elizabeth-con gái của Edward I, trong tháng 10 năm 1330, ông cầm đầu vụ bắt giữ Roger Mortimer-bá tước của March tại lâu đài Nottingham, từ đó bắt đầu sự cai trị cá nhân của Edward III. Bohun từng chiến đấu ở Scotland trong đầu thập kỷ 1330 và năm 1336 đã tham gia đàm phán một thỏa thuận ngừng bắn Anh-Scotland. Trong năm 1332, Bohun nhận được vùng đất trước đây thuộc về người chú của vua, Thomas của Brotherton-Bá tước Norfolk, và trong năm 1335 kết hôn với Elizabeth, góa phụ của người thừa kế Bá tước March. Ngày 16 tháng 3 năm 1337, Bohun được được thụ phong làm Bá tước của Northampton, một trong sáu Bá tước mới được tấn phong để mở rộng số lượng các nhà quý tộc Anh nhằm tăng cường những chỉ huy quân sự trong cuộc chiến sắp tới với Pháp. Bá tước Northampton đã đàm phán cho Edward với Pháp và các đồng minh tiềm năng trong vùng đất thấp trong năm 1337-38 và, trong năm sau, được nhà vua cử làm liên lạc với Hội đồng Anh. Ông chiến đấu trong chiến dịch năm 1339 tại miền Bắc nước Pháp và trong trận chiến hải quân Sluys, chiến dịch mà ông đã cho nhà vua vay £ 800. Trong tháng 7 năm 1340, ông bị giam giữ một thời gian ngắn tại Brussels như là một con tin về các khoản nợ lớn của nhà vua và chỉ thoát khỏi đó bằng cách bỏ trốn khỏi nhà giam để về với quân đội Anh và với Edward III trong tháng 11. Bá tước Northampton đã phát biểu thay mặt nhà vua với John Stratford, tổng.giám.mục của Canterbury, trong cuộc khủng hoảng chính trị năm 1340-1341. Ông được bổ nhiệm làm trung úy của nhà vua tại Anh vào 20 tháng 7 năm 1342, Bá tước Northampton đã tiến hành một cuộc bao vây vào Brest và đánh bại Charles của Blois, ứng cử viên do Pháp hậu thuẫn cho danh hiệu công tước Morlaix vào ngày 30 tháng 9. Sau đó ông bao vây Nantes trước khi từ chức trung úy của nhà vua vào ngày 02 tháng tư năm 1343 để tham gia vào các cuộc đàm phán hòa bình được đề xuất bởi Clement VI như một phần của thỏa thuận ngừng bắn Malestroit. Với sự sụp đổ của các cuộc đàm phán, Northampton đã được tái bổ nhiệm trung úy tại Anh vào ngày 24 tháng 4 năm 1345. Ông đã chiến đấu tại Crécy trong tháng 8 năm 1346 và tại cuộc bao vây năm Calais 1347 cho đến khi tháng Giêng, khi ông một lần nữa lại từ chức chức trung ú́y ở Breton để tiến hành các cuộc đàm phán với người Pháp và Flemings. Ông được nhận vào Order of the Garter trong tháng Chín năm 1349, Ông trở về Scotland trong thập kỷ 1350 và phục vụ như là người quản lý các tù nhân của các chiến dịch rồi đô đốc của Hạm đội phía Bắc và chỉ huy trưởng của Lâu đài Carlisle. Năm 1359-60, vị bá tước trở này về Pháp và phục vụ trong Chiến dịch Rheims và chứng kiến việc ký kết Hiệp ước Bretigny. Ông mất ngày 16 tháng chín 1360.
Beauchamp Thomas, Bá tước Warwick ( năm 1314-1369)
Thomas Beauchamp, bá tước thứ 11 của Warwick và là một đồng đội quan trọng và đặc biệt nhất của Edward III, ông tham gia vào hầu hết các trận đánh và chiến dịch ban đầu của chiến tranh trăm năm. Beauchamp chỉ là một đứa trẻ khi cha của ông-Guy de ự quyền sở hữu vùng đất Warwick đến Hugh Despenser the Elder-sủng thần của ông ta, nhưng vị bá tước trẻ tuổi và cuộc hôn nhân của anh ta được giao phó cho Roger Mortimer-vị bá tước tương lai của March, người có con gái kết hôn với Bá tước Warwick trong khoảng 1327. Trong tháng hai năm 1329 trong khoảng thời gian cai trị của bố vợ ông và Nữ hoàng Isabella cho phép Warwick được phong tước hiệp sĩ và chiếm lại đất đai của mình, mặc dù ông vẫn còn chưa đủ tuổi. Trong thập kỷ 1330, Warwick đã chiến đấu tại Scotland, nơi ông được bổ nhiệm làm chỉ huy quân đội trong năm 1337. Năm 1339, ông cùng với Edward III đến Pháp và năm 1340 đã có mặt tại cuộc bao vây Tournai và tham gia vào các cuộc đàm phán dẫn tới cuộc ngưng bắn Esplechin. Từ tháng 9 năm 1340 cho đến tháng 5 năm 1341, Vị bá tước này cũng bị giam cầm trong Malines như vật bảo lãnh cho việc thanh toán các khoản nợ của nhà vua. Năm 1342, Warwick phục vụ tại cuộc bao vây của Vannes tại Anh và trong năm 1346 và chiến đấu bên cạnh Edward-Hoàng tử đen, tại Crécy nơi mà ông ta đã được gặt hái đáng kể về danh tiếng quân sự được nâng cao. Warwick đã có mặt tại các cuộc bao vây Calais trong năm 1347 và đi cùng với Hoàng tử đen trong các chiến dịch Che vauchee xuyên qua miền nam nước Pháp trong năm 1355. Sử gia Geoffrey Baker viết rằng Warwick và các đồng chí của ông đã chiến đấu những con sư tử tại Poitiers trong tháng 9 năm 1356 và trong năm 1359-1360, ông này cũng tham gia Chiến dịch Rheims và là một trong những nhân chứng tại buổi lễ ký kết Hiệp ước Bretigny. Bá tước Warwick cũng đã được hào phóng ban thưởng cho sự phục vụ của ông và được bổ nhiệm làm bá tước Thống chế của quân đội Anh năm 1344 và nhận được một món quà của hơn £ 1.300 trong năm 1347. Năm 1348, nhà vua cấp cho Warwick một khoản trợ cấp hàng năm 1.000 đồng mark và cũng đã chọn ông làm một thành viên sáng lập của the Order of the GARTER, chỉ sau có Edward-Hoàng tử Đen và Henry của Grosmont-công tước vùng Lancaster. Trong thập kỷ 1360, ông cũng phục vụ cho Hoàng tử đen ở Aquitaine và tham gia thập tự chinh ở Phổ và đã dẫn đầu một phái đoàn ngoại giao đến Scotland. Về việc nối lại cuộc chiến trong 1369, Warwick đã đi cùng với John của Gaunt-công tước của Lancaster, đến Calais, nơi mà tin tức về sự xuất hiện của vị bá tước này được cho là đã thuyết phục Philip the Bold-công tước của Bourgogne, rút quân đội của ông khỏi vùng này. Sau đó Warwick đã tham gia vào chiến dịch chevauche’e của Gaunt vào Normandy, khi trở về Calais vị bá tước này đã mắc phải dịch bệnh và qua đời vào ngày 13 Tháng 11 năm 1369.
CHỈ HUY QUÂN ĐỘI PHÁP
Philip VI (năm 1293-1350)
Philip VI là nhà cai trị đầu tiên trong rất nhiều thế hệ của người Pháp đã bại trận trong tay người Anh. Ông ta được sinh ra trong năm 1293 và cha của ông-Charles, Bá tước của Valois, Anjou và Maine là người em trai của vua Philip IV và cũng là ông nội của Louis IX. Mẹ của ông ta là Marguerite-con gái của vua Charles II của Naples ở niền Nam Italy. Khi mà bản thân Philip thừa kế các xứ Valois, Anjou và Maine, thì anh họ của ông-Charles trở thành vua của nước Pháp.
Đăng quang vào năm 1328, Philip VI chết vào năm 1350 và là vị vua Pháp nhà Valois đầu tiên cai trị nước Pháp tới tận năm 1589. Philip được tưởng nhớ đến như một chính trị gia sắc xảo và tinh khôn hơn là một chiến binh, và là một người cực kỳ thận trọng về những vấn đề về quân sự.
Charles II-Bá tước của Alencon
Charles II-Bá tước của Alencon, là người em trai của nhà Vua Philip VI, Ông ta là một chiến binh thực thụ hơn so với nhà vua và trước khi xảy ra thảm họa ở Crécy thì ông là một chỉ huy quân sự hoàn toàn thành công. Ví dụ như trong năm 1330 ông đã chiếm được thành phố Saintes-lúc này đang nằm trong tay người Anh ở miền phía Tây của nước Pháp bất chấp rằng ở đó có một lượng lớn quân Anh đồn trú. Người ta không biết rằng liệu những hoạt động sau khi công chiếm thành phố Saintes có được duyệt bởi Vua Philip VI không, chỉ có điều những vị trí đầu tiên của Edward III đã bị buộc phải đầu hàng. Thật không may những thành công của ông ta ở Saintes có thể làm cho vị Bá tước của Alencon một ấn tượng sai lầm về cả năng lực của ông lẫn sức mạnh của người Anh.Tuy nhiên, ông ta vẫn là một trong những cố vấn có kinh nghiệm nhất cho vua Philip và John, Công tước xứ Normandy-người con trai ốm yếu của Philip, người mà sau này trở thành vua John II , và hỗ trợ cho Charles of Blois trong những cố gắng của ông ta để tái chiếm Nantes-thủ đô mang tính lịch sử của xứ Brittany. Sự tham dự của Alencon vào cuộc thương thuyết đã phá vỡ một liên minh Anglo-Flemish ở gần Bouvines mà không phải đánh trận đã cho thấy rằng ông ta là người thông minh về ngoại giao.
John of Luxembourg
John of Luxembourg là con trai của một Hoàng đế Đức. Bản thân ông ta có một cái gì đó fgiống như một hiệp sỹ lang thang, với những kỹ năng mã thượng về tài lãnh đạo và chỉ huy cũng như là hoàn toàn trung thành với nước Pháp. Vùng Bohem mà bây giờ là một phần lãnh thổ của Cộng Hòa Séc, có triều đình địa phương của nó bị tuyệt tự sau vụ ám sát của Wencelas III in 1304. Các quý tộc người Bohem đã chuyển sang chọn Triều đình Luxembourg-một dòng tộc Đức bị ảnh hưởng nặng nề bởi người Pháp. Và kết quả là cậu bé 14 tuổi John of Luxembourg đã trở thành nhà vua của vùng Bohem vào năm 1310. Sự nhiệt tình về tinh thần mã thượng đã là động cơ để ông ta tham gia vào các chiến dịch Thập tự chinh ở Lithuania ( các năm 1328-29, 1337 và 1345) chiến dịch ở Italy (1330-31) và tại chính vùng Bohem.Sự quan tâm của John of Luxembourg là hoàn toàn về hướng về phương Tây (ý nói tuy ông ta làm vua của Bohem một vùng ở Đông Âu). Những vùng đất của tổ tiên của ông nằm ở những vùng vỡ vụn của Đế quốc Thánh thần vốn bao quanh nước Pháp. Ở đó tầng lớp quý tộc nói tiếng Pháp trong khi tầng lớp bình dân sử dụng rất đa dạng tiếng Đức vùng Đất thấp mà người Pháp đánh đống làm một như là Thiois. Trong suốt tuổi thành niên, John of Luxembourg luôn luôn là một cận thần, một người lính và một nhà ngoại giao trung thành với Triều đình Pháp. Như là một người mà Philip VI tin tưởng nhất, ông ta đã được ủy quyền quản lý miền Tây Nam nước Pháp in năm 1338 -> 39, và chiến đấu bên cạnh nhà vua ở Cambrai, và lập ra một phần của đội thương thuyết đã phá vỡ một liên minh Anglo-Flemish ở Bouvines. John of Luxembourg cũng là một trong những người hỗ trợ chính về tài chính cho chiến dịch Crécy của Philip VI trong năm 1346, vào thời gian đó ông ta chưa già lắm nhưng gần như bị mù lòa.
Carlo Grimaldi
Carlo Grimaldi, II Grand là một trong 4 gia đình đứng đầu ở Genoa thời Trung cổ. Nhà Grimanldi là Guelph, những người ủng hộ truyền thống của Giáo hoàng khi phải đối đầu với đối thủ của họ là Đế quốc La Mã Thánh thần. Như vậy suy rộng ra thì họ cũng là bạn của người Pháp, những người vốn là lực lượng ủng hộ Giáo hoàng mạnh mẽ nhất. Hậu quả là Grimaldi thường chiến đấu ở Pháp như là lính đánh thuê, chỉ huy quân sự hoăchj Đồng minh. Ranieri-bố của Carlo đã từng là Lãnh chúa của vùng Ventumiglia từ năm 1329 tới 1335 cho tới khi bị đảo chính bởi Ghibbeline ( vốn ủng hộ Đế chế). Bốn năm sau đó Genoa mệt mỏi vì cuộc cãi cọ giữa các quý tộc của nhà Guelph và Ghibbeline, đã chọn Simon Boccanegra làm Tổng trấn mới, nhưng ở vùng Ventumiglia nơi mà Carlo Grimaldi đã dành lại được quyền kiểm soát đã từ chối quyền điều hành của vị tổng trấn mới. Trong năm 1341 Carlo mua lại vùng Monaco từ nhàv Spinola và vùng này cùng với vùng Ventumiglia và Roquebrune đã trở thành những nơi tị nạn của những gia đình Genoa Guelph. Carlo Grimaldi và rất nhiều những thành viên của gia đình ông ta và những người phụ thuộc vào họ thường luôn ủng hộ Philip của nước Pháp trong cuộc chiến của ông này chống lại Edward III của nước Anh. Lãnh thổ của nhà Grimaldi thì rất nhỏ nhưng sức mạnh hải quân của họ thì hoàn toàn có giá trị. Họ cũng chuẩn bị chiến đấu với các hạm đội được cung cấp bởi đối thủ Ghibbeline của họ-nhà Doria. Lần đầu tiên trong lịch sử của nó, vùng tự trị Monaco đã được công nhận khi mà Carlo và Antoine-anh trai của ông ta được phong làm đại diện của Giáo Hội của vùng Provence. Trong năm 1346 Carlo Grimaldi đã tạm thời bị đuổi khỏi quyền lực ở Monaco bởi một cuộc đảo chính ở địa phương đúng vào lúc ông ta đang hoàn toàn cung cấp các hỗ trợ cho Philip VI và làm cho ông ta bị thương nặng trong trận chiến Crécy.
Kế hoạch xâm lược Pháp của người Anh
Nước Pháp trước khi có cuộc xâm lược của vua Anh-Edward III năm 1346
Sáu thế kỷ rưỡi sau khi sảy ra các sự kiện, người ta vẫn không thể biết được ý định ban đầu của Edward III, mặc dù có vẻ như một chiến lược lớn theo đó nhiều đội quân hội tụ về Paris từ Normandy, Flanders, Anh và Gascony là điều cực kỳ khó, Dường như Edward hy vọng sẽ chinh phục các vùng ven biển phía Bắc, sau đó thêm chúng vào Anh, nơi các đồng minh của ông đã làm rất tốt. Nếu vậy, kế hoạch đã được chứng minh là không thể và chiến dịch của Edward đã ít nhiều trở nên một chevauchee (trận càn quét) hoặc đột kích lớn. Mặt khác tất cả các chiến dịch của người Anh trong năm 1344-1359, trong đó có cả trận Crécy chỉ đơn giản là có thể gây những bất ổn về mặt chính trị để làm trầm trọng thêm những yếu điểm của Philip VI. Do đó mục đích về quân sự của Edward có thể là sẽ tăng cường, củng cố yêu cầu của ông ta về vương miện của nước Pháp
Người ta cho rằng sau khi hạm đội của Edward khởi hành quay trở về nhà thì nó đã được chất đầy chiến lợi phẩm sau sự sụp đổ của thành phố Caen, ông ta đã không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc hành quân bộ đối để đến địa điểm có đồ cung cấp mà ông ta hy vọng sẽ gặp chúng tại La Crotoy tại Ponthieu. Dường như là Edward III không muốn đánh một trận lớn với Philip cho đến khi ông liên kết với những đồng minh người Fleming, do đó, việc phải rút lui sẽ là những tin tức khó chịu nhất. Tuy nhiên một khi không thể tránh khỏi một trận chiến, thì kế hoạch của Edward III là rõ ràng ông rằng muốn đánh nhau với các kỵ binh Pháp hơn là bộ binh của họ. Do đó, ông ta đã tìm cách kích động để đối phương tung ra các đợt tấn công bằng kỵ binh ngược từ dưới thấp lên trên cao vào những đội hình bộ binh phòng ngự được chuẩn bị tốt. Một khi cuộc tấn công của người Genova bị đánh bại thì tất nhiên là chính xác những gì Edward III mong muốn đã xảy ra.
Kế hoạch phòng thủ của người Pháp
Philip VI đã hầu như không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc phải áp dụng một chiến lược phòng thủ, trong đó lực lượng địa phương phải cố gắng bảo vệ những thị trấn trên đường tiến quân của người Anh và quấy nhiễu những kẻ xâm lược, trong khi đó thì nhà vua nhanh tróng tập hợp một đội quân để đối mặt với họ một cách công khai. Nếu tình hình trở nên không thể đối với người Anh trong việc quản trị các vùng lãnh thổ mà họ đã chinh phục, thì sau đó một khoảng thời gian người Pháp có thể sẽ tại chiếm lại chúng. Trong thực tế đây là những gì đã xảy ra ở Normandy. Chỉ có ở Calais thì quân xâm lược mới xác định chiếm giữ những gì mà họ mới chiếm được. Sau khi quân đội của Edward III vượt qua sông Seine, Philip VI có thể đã hy vọng rằng bằng cách truy kích người Anh một cách khốc liệt, ông có thể khuyến khích họ rời khỏi Pháp mà không cần phải có một trận chiến lớn. Hy vọng này đã bị tan vỡ khi ông nhìn thấy quân Anh đã ở vào một vị trí được chuẩn bị tốt ở Crécy
Khi một trận chiến lớn trở thành là điều không thể tránh khỏi, kinh nghiệm trước đây của Philip có thể đã quay trở lại đánh lừa ông ta. Tại Cassel trong năm 1328 một cuộc tấn công kỵ binh Pháp hoàn hảo vào cánh của người Flemish đã mang lại co ông một chiến thắng nhanh chóng, những thành công khác của vua Philip tại Buironfosses năm 1339 và Bouvines năm 1340 là những trận “ bất chiến tự nhiên thành”, tại đó việc (Philip VI) cố tình lảng tránh một trận chiến quyết định đã hai lần đánh bại những chiến dịch trước đó của Edward III. Nhưng chiến thuật này đòi hỏi phải có một vị trí chính trị mạnh mẽ. Sự tàn phá được gây ra bởi người Anh kể từ khi họ đổ bộ xuống Normandy, chưa kể đến những lời chế nhạo của những người mô tả chiến thuật của ông là “hành vi của một con cáo chứ không phải là của một con sư tử”, vua Philip đã phải chịu áp lực cho một hành động dứt khoát.
Cuộc xâm lược
Một lực lượng rất lớn quân Anh được tập hợp ở Portsmouth vào tháng 5 và tháng 6 năm 1346, mặc dù không lớn như Edward III đã hy vọng. Việc tuyển binh cũng chậm hơn so với dự định. Tuy nhiên, Vua Edward III cũng phải chấp nhận nguy cơ phơi bày đất nước của mình ra cho những cuộc tấn của người Scotland ( hiện đang là Đồng minh của Pháp ) bằng việc tuyển quân ở khắp mọi nơi ngoại trừ những quận xa nhất ở phía bắc. Dường như ít nhất một nửa quân đội là những tay cung thủ, ngoài ra họ còn bao gồm thợ mỏ, thợ rèn, kỹ thuật viên cầu phà, thợ mộc, người dựng lều trại, bác sĩ giải phẫu, sỹ quan, binh lính và kị sỹ.
Kết quả là quân Anh có một lực lượng từ khoảng 10,00 và 15.000 nghìn người và cần có ít nhất là 750 chiếc tầu để vận chuyển. Sự tập trung của đội tàu này đã bị trì hoãn bởi các cơn bão và điều kiện thời tiết tương tự. Những chiếc tàu lớn nhất là những chiếc Cog 200 tấn, nhưng vì thiếu những chiếc tàu phù hợp có nghĩa là những chiếc tầu 10 tấn cũng đã được trưng dụng, chúng có thể bao gồm cả những con tàu chạy ven biển và chúng đã đưa một số lượng rất lớn thực phẩm đến điểm tập trung quân. Bản thân Edward III đã đến Porchester Castle vào ngày 1 tháng Sáu để giám sát các hoạt động. Trong lúc này chính phủ Anh đã sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền tận dụng tình cảm chống Pháp. Sau đó quân đội đã được trả trước thêm một khoản lương từ một đến hai tuần và các cảng London, Dover, Winchelsea và Sandwich được khóa chặt để ngăn chặn tin tức về hạm đội Anh đang chuẩn bị xâm lược lược Pháp có thể bị dò gỉ. Không có chiếc tàu được phép ra khơi cho đến sau một tuần sau khi hạm đội Anh đã khởi hành, ngoại lệ duy nhất là những con tầu mà Sir Hugh Hastings và những người của ông đã dùng để đến Flanders
Mọi người hoàn toàn không được biết rằng vào lúc nào thì Edward III cho thay đổi kế hoạch cuối cùng của ông, nhưng có thể đã có một cuộc họp bí mật vào khoảng ngày 20 tháng Sáu. Trước đây người ta đã giả định rằng hạm đội sẽ giong buồm đến Gascony và các con tàu được chuẩn bị cho một cuộc hành trình kéo dài hai tuần. Nhưng sau đó Edward III hoặc là đã thay đổi kế hoạch của mình hoặc lúc này mới nói với các chỉ huy của ông về kế hoạch thật của mình, đó là tiếp đất ở bán đảo Cotentin thuộc xứ Normandy.
Một cuộc xâm lược khác được tung ra từ xứ Flanders, được hỗ trợ