Lợi nhuận và vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp
Quan điểm của các nhà kinh tế học : Ngay khi có hoạt động sản xuất, trao đổi, mua bán hàng hóa, lợi nhuận trong kinh doanh đã là một đề tài nghiên cứu, tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế. Adam - ...
Quan điểm của các nhà kinh tế học :
Ngay khi có hoạt động sản xuất, trao đổi, mua bán hàng hóa, lợi nhuận trong kinh doanh đã là một đề tài nghiên cứu, tranh luận của nhiều trường phái, nhiều nhà lý luận kinh tế.
Adam - Smith là người đầu tiên trong số các nhà kinh tế học cổ điển, đã nghiên cứu khá toàn diện về nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận. Ông xuất phát từ quan điểm, giá trị trao đổi của mọi hàng hóa là do lao động sản xuất ra hàng hoá đó quyết định, để từ đó đặt nền tảng cho các lý thuyết về kinh tế thị trường. Theo A.Smith : Nếu chất lượng của lao động chi phí cho việc sản xuất ra một sản phẩm nào đó càng lớn thì giá trị và do đó giá trị trao đổi của nó cũng càng lớn. Ông khẳng định giá trị của một hàng hoá quy định giá trị trao đổi : Trong cấu thành giá trị của hàng hóa có tiền lương, địa tô và lợi nhuận. Theo A.Smith, lợi nhuận của nhà tư bản được tạo ra trong quá trình sản xuất, là hình thái biểu hiện khác của giá trị thặng dư, tức phần giá trị do lao động không được trả công tạo ra. Ông đã định nghĩa : "Lợi nhuận là khoản khấu trừ vào giá trị sản phẩm do người lao động tạo ra". Nguồn gốc của lợi nhuận là do toàn bột tư bản đầu tư đẻ ra trong cả lĩnh vực sản xuất và lưu thông. Lợi nhuận là nguồn gốc của các thu thập trong xã hội và của mọi giá trị trao đổi.
Adam - Smith cho rằng không chỉ có lao động nông nghiệp mà cả lao động công nghiệp cũng tạo ra lợi nhuận. Nhà tư bản tiền tệ cho nhà tư bản sản xuất vay vốn và nhận được lợi tức cho vay. Đó là một biểu hiện khác của lợi nhuận đã được tạo ra trong sản xuất. Chính các nhà tư bản (cho vay - sản xuất) sẽ thoả thuận để phân chia giá trị thặng dư được tạo ra từ sản xuất - kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Sản xuất tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển thì tính cạnh tranh càng quyết liệt. A.Smith còn phát hiện việc phân chia lợi nhuận theo tỷ suất lợi nhuận bình quân và khi quy mô đầu tư tư bản càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm sút.
Tuy còn những sai lầm trong hệ thống lý luận của mình nhưng A.Smith đã chỉ ra được rằ
ng : Nguồn gốc thực sự cho giá trị thặng dư là do lao động tạo ra, còn lợi nhuận, địa tô, lợi tức chỉ là biến thể, là hình thái biểu hiện khác nhau của giá trị thặng dư mà thôi.
D.Ricacdo và những người kế tục đã xây dựng học thuyết kinh tế của mình trên cơ sở những tiền đề và phát kiến của A.Smith. D.Ricacdo cũng hoàn toàn dựa vào lý luận giá trị lao động để phân tích chỉ rõ nguồn gốc và bản chất của lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tư bản chủ nghĩa.
D.Ricacdo đã khẳng định : Lao động là nguồn gốc của giá trị và giá trị hàng hoá sản phẩm lao động được phân thành các nguồn thu nhập tiền lương, địa tô, lợi nhuận. Ông kết luận : "Lợi nhuận chính là phần giá trị lao động thừa ra ngoài tiền công ; lợi nhuận là lao động không được trả công của công nhân. D.Ricacdo coi lợi nhuận là phần giá trị thừa ra ngoài tiền công, giá trị hàng hóa do công nhân tạo ra luôn luôn lớn hơn số tiền công, số chênh lệch đó chính là lợi nhuận. Ông thấy được quan hệ mâu thuẫn giữa tiền lương và lợi nhuận : Việc hạ thấp tiền lương làm cho lợi nhuận tăng và ngược lại, tiền lương tăng làm cho lợi nhuận giảm, còn giá trị hàng hóa không thay đổi. Ông nhận thấy sự đối lập giữa tiền lương và lợi nhuận, tức sự đối lập lợi ích kinh tế của công nhân và các nhà tư bản.
Phân tích sâu hơn sự vận động của lợi nhuận trong sản xuất tư bản chủ nghĩa, D.Ricacdo đã nhận định : Nếu tư bản được đầu tư vào sản xuất những đại lượng bằng nhau, sẽ nhận được những lợi nhuận như nhau và bình quân hoá lợi nhuận là một xu hướng khách quan của sản xuất - kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Về quan hệ giữa tiền công và lợi nhuận, ông cho rằng : lợi nhuận phụ thuộc vào mức tăng năng suất và đối nghịch với tiền công.
Tương đối khác biệt với các học thuyết giá trị lao động ở trên, Jan Batitxay cho rằng : Bản chất lợi nhuận là phần thưởng thích đáng cho việc mạo hiểm đầu tư tư bản để kinh doanh, là hình thức tiền công đặc biệt mà nhà tư bản trả lại cho mình.
Jan Batitxay đưa ra nguyên tắc phân phối thu nhập trong xã hội tư sản :
Công nhân làm thuê nhận được tiền công từ sản phẩm lao động.
Chủ ruộng đất nhận được địa tô từ việc chuyển nhượng quyền sử dụng cho các nhà tư bản chủ nghĩa.
Chủ tư bản nhận được lợi nhuận từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.
Kế thừa những nguyên lý đúng đắn, khoa học của những nhà lý luận tiền bối. C.Mác đã nghiên cứu một cách toàn diện và triệt để về nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận trong kinh doanh tư bản chủ nghĩa. Dựa trên lý luận lao động, lấy sản xuất tư bản chủ nghĩa làm đối tượng nghiên cứu, phân tích, C.Mác đã phát hiện và làm rõ toàn bộ quá trình sản xuất giá trị thặng dư dưới chủ nghĩa tư bản - điều mà các vị tiền bối của ông chưa làm được. C.Mác đã khẳng định : Về nguồn gốc lợi nhuận là do lao động làm thuê tạo ra, về bản chất : Lợi nhuận là hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, là kết quả của lao động không được trả công, do nhà tư bản chiếm lấy, là quan hệ bóc lột và nô dịch lao động trong xã hội tư bản chủ nghĩa. Khi truy tìm nguồn gốc, bản chất của lợi nhuận, C.Mác viết : "Giá trị thặng dư được quan niệm là toàn bộ con đẻ của tư bản ứng trước, mang hình thái chuyển hoá là lợi nhuận" và "giá trị thặng dư (là lợi nhuận) là phần giá trị dôi ra của giá trị hàng hóa so với chi phí sản xuất của nó, nghĩa là phần dôi ra của tổng số lượng lao động chứa đựng trong hàng hóa với số lượng lao động được trả công chứa đựng trong hàng hóa".
Vượt trên tất cả các nhà lý luận trước đây, C.Mác đã phân tích tất cả các khía cạnh khác nhau của lợi nhuận, sự hình thành lợi nhuận và sự vận động của quy luật lợi nhuận bình quân, xuyên qua các quan hệ kinh tế là các quan hệ chính trị - xã hội của phạm trù lợi nhuận. Là nhà tư tưởng vĩ đại của giai cấp công nhân, sự nghiên cứu về kinh tế của C.Mác là cơ sở, là phương tiện vạch rõ những mâu thuẫn nội tại của xã hội tư bản, những mâu thuẫn đối kháng đẩy chủ nghĩa tư bản đến chỗ tất yếu bị diệt vong, xây dựng học thuyết về giai cấp và đấu tranh giai cấp.
Lợi nhuận được xem như một cực đối lập với tiền lương trong cơ chế phân phối thu nhập tư bản chủ nghĩa. C.Mác viết : giá cả sức lao động biểu hiện ra dưới hình thái chuyển hoá là tiền công, nên ở cực đối lập, giá trị thặng dư biểu hiện ra dưới hình thức chuyển hoá là tiền công, nên ở cực đối lập, giá trị thăng dư biểu hiện ra dưới hình thức chuyển hoá là lợi nhuận. Trong doanh nghiệp tư bản chủ nghĩa, để theo đuổi mục tiêu của lợi nhuận tiền trả cho việc thuê sức lao động có xu hướng giảm sút. Mác tóm tắt như sau : "Tiền công và lợi nhuận là tỷ lệ nghịch với nhau". Giá trị trao đổi của tư bản, tức là lợi nhuận tăng lên theo tỷ lệ mà giá trị trao đổi của lao động tức là lao động tiền công giảm xuống và ngược lại. Lợi nhuận tăng lên theo mức độ mà tiền công giảm xuống và giảm xuống theo mức độ tiền công tăng lên". Và "lợi nhuận tăng lên không phải vì tiền công đã sụt xuống vì lợi nhuận tăng lên".
Tóm lại, hầu hết các nhà lý luận khi xây dựng học thuyết kinh tế của mình đều cố gắng vạch rõ bản chất, nguồn gốc của lợi nhuận của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Tiền lương, lợi nhuận, lợi tức, địa tô được xem là những vấn đề trọng yếu của các lý thuyết kinh tế.
Kết luận :
- Lợi nhuận là một phạm trù kinh tế của nền kinh tế hàng hóa nói chung, một nền kinh tế mà trong quan hệ sản xuất nó tồn tại các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
- Lợi nhuận của sản xuất kinh doanh là một hình thái biểu hiện của giá trị thặng dư, tức là phần giá trị dôi ra ngoài tiền công, do lao động làm thuê tạo ra. Tuy nền sản xuất xã hội có sự đối lập giữa chủ doanh nghiệp và người làm thuê. Lợi nhuận biểu hiện mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế giữa chủ và giới thợ, biểu hiện quan hệ bóc lột và nô dịch lao động.
- Trong môi trường cạnh tranh của nền kinh tế hàng hóa có sự chuyển hoá lợi nhuận và hình thành tỷ suất lợi nhuận. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự thay đổi của cấu tạo hữu cơ tư bản chủ nghĩa, việc tăng đầu tư tư bản cố định vào sản xuất, việc thay thế lao động sống bằng hệ thống máy móc làm cho tỷ suất lợi nhuận có xu hướng giảm đi.
- Lợi nhuận của sản xuất kinh doanh có quan hệ chặt chẽ với tiền công trả cho việc thuê lao động. Với tư cách là một yếu tố của chi phí sản xuất, tiền công có xu hướng vận động ngược chiều với lợi nhuận doanh nghiệp. Khi năng suất lao động tăng lên, lợi nhuận tăng nhưng tiền công lại giảm xuống.
Kết cấu của lợi nhuận trong doanh nghiệp :
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất - kinh doanh, là chỉ tiêu chất lượng đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và cơ chế hạch toán kinh tế độc lập, phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng nên lợi nhuận được hình thành từ nhiều bộ phận. Nếu xét theo nguồn hình thành, lợi nhuận của doanh nghiệp bao gồm các bộ phận sau :
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh :
Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất - kinh doanh là lợi nhuận do tiêu thụ sản phẩm lao vụ, dịch vụ của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, là khoản chênh lệch giữa doanh thu của hoạt động kinh doanh trừ đi giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hóa dịch vụ đã tiêu thụ và thuế theo quy định của pháp luật (trừ thuế thu nhập doanh nghiệp).
Đây là bộ phận lợi nhuận chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ lợi nhuận. Bộ phận lợi nhuận này được xác định bằng công thức sau :
Trong đó :
* Doanh thu thuần từ hoạt động kinh doanh là toàn bộ giá trị của sản phẩm hàng hóa cung ứng dịch vụ trên thị trường được thực hiện trong một thời kỳ nhất định sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ doanh thu như : giảm giá hàng bán, hàng bị trả lại (nếu có chứng từ hợp lệ), thuế TTĐB, thuế XK phải nộp (nếu có).
Đây là bộ phận doanh thu chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh thu, nó quyết định đến sự tồn tại của doanh nghiệp.
Thời điểm xác định doanh thu là khi người mua đã chấp nhận thanh toán, không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp đã thu được tiền hay chưa.
Tiền thu về trong kỳ là tổng số tiền mà doanh nghiệp thu được từ hoạt động bán hàng trong kỳ bao gồm cả khoản tiền mà khách hàng còn nợ kỳ trước, kỳ này trả hoặc tiền ứng trước của khách để mua hàng. Tiền thu về trong kỳ có thể lớn hơn hoặc nhỏ hơn doanh thu trong kỳ của doanh nghiệp.
- Giảm giá hàng bán : Số tiền mà doanh nghiệp chấp nhận giảm cho người mua vì những nguyên nhân thuộc về doanh nghiệp (hàng sai quy cách, kém phẩm chất...) hoặc số tiền thưởng cho người mua do mua một lần với số lượng lớn (bớt giá) hoặc số lượng hàng mua trong một khoảng thời gian là đáng kể (hồi khấu).
- Hàng bán bị trả lại : Phản ánh doanh thu của số hàng tiêu thụ bị khách hàng trả lại, do lỗi thuộc về doanh nghiệp như vi phạm cam kết, vi phạm hợp đồng, hàng sai quy cách...
- Thuế tiêu thụ bao gồm thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, là nghĩa vụ của doanh nghiệp với Nhà nước về hoạt động tiêu thụ sản phẩm, hàng hóa, cung cấp lao vụ, dịch vụ...
* Tổng chi phí liên quan đến hàng hóa tiêu thụ trong kỳ bao gồm :
- Tổng trị giá vốn của hàng hóa tiêu thụ trong kỳ là khái niệm dùng chung cho tất cả các doanh nghiệp để chỉ giá mua thực tế của hàng đã tiêu thụ trong các doanh nghiệp thương mại ; chỉ tiêu này có thể là giá thành sản xuất thực tế của sản phẩm đã tiêu thụ trong các doanh nghiệp sản xuất.
- Chi phí bán hàng là toàn bộ các chi phí phục vụ trực tiếp cho việc tiêu thụ hàng hóa sản phẩm dịch vụ phân bổ cho sản phẩm hàng hóa dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp là chi phí phục vụ cho việc điều hành và quản lý chung trong toàn doanh nghiệp phân bổ cho sản phẩm hàng hóa dịch vụ đã tiêu thụ trong kỳ.
Chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp là hai khoản lớn có ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, nó phản ánh trình độ tổ chức, quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Ngoài hoạt động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp còn có các hoạt động hay nghiệp vụ thuộc lĩnh vực khác như hoạt động tài chính và nghiệp vụ bất thường.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động tài chính
Lợi nhuận từ hoạt động tài chính : Đây là bộ phận lợi nhuận được xác định bằng chênh lệch giữa các khoản thu và chi về hoạt động tài chính bao gồm :
- Lợi nhuận về hoạt động góp vốn tham gia liên doanh.
- Lợi nhuận về hoạt động đầu tư, mua, bán chứng khoán ngắn hạn, dài hạn.
- Lợi nhuận về cho thuê tài sản.
- Lợi nhuận về các hoạt động đầu tư khác.
- Lợi nhuận về chênh lệch lãi tiền gửi ngân hàng và lãi tiền vay ngân hàng.
- Lợi nhuận cho vay vốn.
- Lợi nhuận do bán ngoại tệ.
Doanh thu hoạt động tài chính là những khoản thu và lãi liên quan đến hoạt động về vốn.
Chi hoạt động tài chính là những khoản chi phí và các hoạt động lỗ liên quan đến hoạt động về vốn.
Lợi nhuận thu được từ hoạt động bất thường
Lợi nhuận bất thường là những khoản lợi nhuận mà doanh nghiệp không dự tính trước hay có dự tính đến nhưng ít có khả năng xảy ra như : tài sản dôi thừa tự nhiên, nợ khó đòi đã xử lý nay đòi được, nợ vắng chủ hoặc không tìm ra chủ được cơ quan có thẩm quyền cho ghi vào lãi, thanh lý nhượng bán tài sản cố định, phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho... Những khoản lợi nhuận bất thường có thể do chủ quan đơn vị hay do khách quan đưa tới.
Thu nhập bất thường của doanh nghiệp bao gồm :
- Thu nhập về nhượng bán, thanh lý TSCĐ.
- Thu tiền được phạt vi phạm hợp đồng.
- Thu các khoản nợ khó đòi đã xử lý, xóa sổ.
- Thu các khoản nợ không xác định được chủ.
- Các khoản thu nhập kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót hay lãng quên ghi sổ kế toán năm nay mới phát hiện ra...
Chi bất thường là những khoản chi phí và những khoản lỗ do các sự kiện hay nghiệp vụ riêng biệt với hoạt động thông thường của đơn vị gây ra như :
- Chi phí thanh lý nhượng bán TSCĐ.
- Giá trị còn lại của TSCĐ đem thanh lý, nhượng bán.
- Tiền bị phạt do vi phạm hợp đồng.
- Bị phạt thuế, truy thu thuế.
- Các khoản chi phí do kế toán ghi nhầm hay bỏ sót khi vào sổ.
- Các khoản thu sau khi trừ đi các khoản chi phí là lợi nhuận bất thường.
Tỷ trọng của mỗi bộ phận lợi nhuận trong lợi nhuận doanh nghiệp có sự khác nhau giữa các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực kinh doanh khác nhau và thuộc các môi trường kinh tế khác nhau. Việc xem xét kết cấu lợi nhuận có ý nghĩa quan trọng trong việc cho ta thấy được các khoản mục tạo nên lợi nhuận và tỷ trọng của từng khoản mục trong tổng lợi nhuận, từ đó xem xét, đánh giá kết quả của từng hoạt động, tìm ra các mặt tích cực cũng như tồn tại trong từng hoạt động để đề ra quyết định thích hợp để nâng cao hơn nữa lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Nhìn chung, trong các doanh nghiệp, lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là bộ phận chủ yếu quyết định phần lớn tổng lợi nhuận của doanh nghiệp so với lợi nhuận hoạt động tài chính và lợi nhuận hoạt động bất thường.
Để đạt được các khoản doanh thu đó, trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhất thiết các doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Những khoản chi phí đó bao gồm :
- Chi phí về vật chất tiêu hao trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá như : chi phí về nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất, khấu hao máy móc thiết bị.
- Chi phí để trả lương cho người lao động nhằm bù đứp chi phí lao động sống cần thiết họ đã bỏ ra trong quá trình sản xuất đó để tạo ra sản phẩm, hàng hoá.
- Các khoản tiền thực hiện nghĩa vụ đối Nhà nước. Đó là các khoản thuế gián thu phải nộp cho Nhà nước theo luật định : Thuế GTGT, thuế tiêu thụ đặc biệt...
Quản lý những khoản chi phí này là một vấn đề cấp thiết được đặt ra cho các doanh nghiệp bởi nếu trong hoạt động sản xuất kinh doanh phát sinh những khoản chi phí không hợp lý, không đúng với thực chất của nó đều gây ra những khó khăn trong quản lý, làm giảm lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy để kiểm soát tình hình sản xuất và chi phí bỏ vào sản xuất, các doanh nghiệp đã sử dụng một công cụ quan trọng là giá thành sản phẩm (biểu hiện bằng tiền của toàn bộ chi phí của doanh nghiệp để hoàn thành sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định). Nội dung giá thành của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ bao gồm :
- Giá thành sản xuất của sản phẩm hàng hóa, dịch vụ tiêu thụ : là toàn bộ các khoản chi phí bỏ ra để có được sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mang đi tiêu thụ (chỉ tính cho các hàng hoá dịch vụ được tiêu thụ trong kỳ hạch toán). Gồm chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên là họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình kinh doanh, là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ta có hàng loạt các xí nghiệp, doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn thua lỗ không có hiệu quả, trong đó có cả xí nghiệp Nhà nước, tư nhân... Đặc biệt trong điều kiện kinh tế thị trờng hiện nay cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp :
- Tạo ra khả năng để tiếp tục kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao hơn.
- Đảm bảo tái sản xuất mở rộng.
- Việc không ngừng nâng cao lợi nhuận là đảm bảo hiệu quả kinh doanh thể hiện năng lực, trình độ quản lý sản xuất của đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường một doanh nghiệp tạo được lợi nhuận chứng tỏ là đã thích nghi với cơ chế thị trường.
- Lợi nhuận càng cao thể hiện sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp càng vững chắc, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ, tăng khả năng cạnh tranh, sản xuất ra nhiều sản phẩm mới đây là tạo đà nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp.
- Sản xuất kinh doanh có hiệu quả đạt lợi nhuận cao có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động.
- Lợi nhuận là điều kiện tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ trách nhiệm với Nhà nước và xã hội. Thông qua việc nộp ngân sách đầy đủ tạo điều kiện cho đất nước phát triển, tăng trưởng kinh tế.