24/05/2018, 16:34

Tiền dự trữ và quản lý tiền dự trữ

Tiền dự trữ là gì ? là việc dự trữ tiền mặt tại kho của NH (dự trữ quá mức) và tiền mặt gửi tại NHTU (DTBB). Tại sao phải dự trữ tiền mặt mà không hề tạo ra lợi tức cho hđ NH vì hai nguyên nhân sau : ...

Tiền dự trữ là gì ?

là việc dự trữ tiền mặt tại kho của NH (dự trữ quá mức) và tiền mặt gửi tại NHTU (DTBB).

Tại sao phải dự trữ tiền mặt mà không hề tạo ra lợi tức cho hđ NH vì hai nguyên nhân sau :

  • Luật NH quy định và để hđ thì phải tuân thao luật đó , đó là DTBB mà bất kì một NHTM nào và các tổ chức tín dụng phải tuân theo .
  • Dự trữ tiền mặt là do chúng có tính lóng cao nhất trong mọi tài sản có của NH và được NH sử dụng khi có dòng tiền rút ra .

Vai trò của tiền dự trữ

Quản lý khả năng tiền mặt

Quản lý khả năng tiền mặt là nghiệp vụ nhằm duy trì khả năng thanh khoản của NH để đáp ứng nhu cầu rút tiền & thanh toán thường xuyên của khách hàng , đồng thời nó thực hiện chức năng kiểm tra tính toán số dư phù hợp với nhu cầu tính toán của NH & nhu cầu của NHTƯ như tính toán tiền mặt tại két tiền gửi của NHTƯ …Đồng thời đảm bảo ổn định tiền tệ , điều tiết mức cung tiền tệ .

Vai trò của tiền DT

DTBB là gì ? Là số tiền phải giữ lại do NHTƯ quy định đồng thời nhằm duy trì sự ổn định trong hệ thống NH (HTNH) . NHTƯ tiến hành kiểm soát hoạt động của NHTM .

DTBB của NHTƯ nhằm can thiệp & cứu giúp các NHTM khi NHTM gặp khó khăn .Qua hệ thống đó thì NHTƯ điều tiết số tiền cung ứng . DTBB có thể dưới dạng tiền mặt ở NH hay tiền gửi ở NHTƯ , khoảng 90% các NH đáp ứng các yêu cầu DT dưới dạng tiền mặt , 10% không phải tiền mặt .

Do các nước có điều kiện địa lý khác nhau do đó quy định DTBB cũng khác nhau .

Trong các công cụ của chính sách tiền tệ thì việc thay đổi DTBB thường ít thay đổi hơn so với việc thay đôỉ lãi suất chiết khấu hay điều chỉnh nghiệp vụ tiền tệ mở . Bởi vậy những người giám sát NHTƯ luôn coi việc thay đổi DTBB là một thay đổi cơ bản trong chính sách tiền tệ . Những thay đổi trong DTBB đòi hỏi sự thay thế quan trọng trong danh mục vốn của NH nên sự thay đổi thường xuyên sẽ rất rễ bị đổ bể .

  • ảnh hưởng của DTBB :

DTBB có một CFC’ quan trọng .Các khoản DT không sinh lời vì vậy việc sử dụng DTBB đẻ kiểm soát quá trình cung ứng tiền tệ đặt ra 1 loại thuế đối với các NH . Nói cách khác , do việc không thể cho vay của các khoản dự trữ , các NH ssẽ đối mặt với một CFC’ cao hơn về vốn mà họ có được từ người gửi .

VD : giả sử các NH trả cho người gửi 5% từ khoản tiền gửi của họ & tỷ lệ DTBB là 10% . Với một khoản tiền gửi là 100$ , NH giữ 10$ làm DT & cho vay phần còn lại là 90$ .NH phải trả cho ngqời gửi là 5$ tiền lãi vì vậy CFC’ về vốn để cho vay 90$ là (5/90).100 = 5.6% chứ không phải là 5%.

Với sự tăng mạnh của DTBB ảnh hưởng sâu đến nền kinh tế (KT) , việc tăng thuế đánh vào các NH làm giảm cho vay NH sẽ làm khả năng tín dụng & cung tiền.

Bởi vì yêu cầu DT là một khoản thuế đánh vào tiền gửi NH & vì những thay đổi không khôn ngoan trong DTBB có thể có hậu quả KT tồi tệ nên các nhà KT , những nhà hoạch định chính sách thường tranh cãi xem Fed có nên đặt ra yêu cầu DT hay không. Qua nhiều năm họ đã đưa ra ủng hộ DTBB . Đó là :

  • Ảnh hưởng của DTBB đến khả năng thanh khoản : do các trug gian NH nhận các khoản tiền gửi lỏng được chuyển thành các khoản tiền cho vay kém lỏng hơn do đó đặt ra cho các NH một sự rủi ro về khả năng thanh toán thành thử một số nhà phân tích laị lý luận rằng DTBB tạo ra nguồn cung vốn để trợ giúp việc trả được nợ trong các vụ khủng hoảng NH. Mặc dù DTBB tạo ra 1 nguồn cung vốn cho toàn bộ HTNH nhưng nó chỉ ảnh hưởng giới hạn đến khả năng thanh toán của NH riêng lẻ . Đồng thời với việc tạo nguồn vốn cung cấp & giới hạn đến khả năng thanh toán của một NH riêng lẻ thì DTBB giới hạn vốn sẵn có cho 1 NH để đầu tư vào các khoản cho vay & chứng khoán nhưng chúng không loại bỏ sự cần thiết phải duy trì một phần của nguồn vốn này dưới dạng tài sản lỏng . Các NHvẫn cần giữ 1 phần trong danh mục vốn của họ dưới dạng chứng khoán fhị trường như là một giải pháp phòng ngừa việc rút tiền gửi không dự tính được .

DTBB ảnh hưởng đến kiểm soát tiền tệ .

DTBB có ảnh hưởng rất lớn đến kiểm soát tiền tệ . DTBB tăng cường sự kiểm soát của NHTƯ đối với quá trình cung ứng tiền tệ . Nhớ lại rằng tỷ lệ % của số tiền gửi được giữ lại làm dự trữ là một nhân tố quyết định của số nhân tiền tệ , do đó nó cũng quyết định đến sự phản ứng của cung tiền đối với sự thay đổi trong cơ số tiền. Việc Fed kiểm soát tỷ lệ DT tiền gửi qua DTBB làm cho số nhân tiền ổ định hơn & cung tiền trở nên dễ kiểm soát hơn đối với NHTƯ .

Do DTBB có ảnh hưởng lớn đến khả năng kiểm soát tiền tệ do đó DTBB ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tạo tiền đối với NHTM .Khả năng tạo tiền của các NHTM đã biến mức tiền gửi ban đầu tại 1 NH đàu tiên nhận tiền gửi thành một khoản tiền kí gửi mới lớn hơn gấp nhiều lần khi tiền qua nhiều NH. Khả năng tạo tiền tạo ra một “bội số của mức cung tiền tệ” .Khả năng này liên quan trực tiếp đến công cụ DT tối thiểu bắt buộc . Trong công cụ của chính sách tiền tệ . Vì vậy nghiên cứu khả năng này sẽ có biện pháp tốt đẻ sử dụng công cụ DTBB.

Ta có công thức lượng tiền NH tạo ra = tiền gửi vào / tỷ lệ DTBB

Vậy tỷ lệ DTBB càng cao thì độ an toàn trong hđ của NHTM càng cao nhưng tỷ lệ cai quá sẽ làm cho chính sách tiền tệ kém hiệu lức sẽ dẫn đến hệ số sử dụng vốn của các NHTM quá thấp dẫn đến ảnh hưởng đến chính sách lãi suất , bất lợi cho hđ kinh doanh (KD)& huy động vốn của các NHTM , đình đốn tín dụng.

Cho nên tỷ lệ DTBB (TLDTBB) phải đặt ra phù hợp nếu không NHTM sẽ mất hẳn khả tạo tiền ,đồng thời mất hẳn khả năng KD . Sự ra đời của HTNHTM là phù hợp với yêu cầu khách quan của KT thị trường nhưng khả năng tạo tiền của nó cũng do tính chất của mục tiêu hđ của nó đòi hỏi NHTƯ phải thiết lập một hệ thống công cụ của chính sách tiền tệ thích hợp để quản lý & điều khiển khối lượng tiền.

- DTBB ảnh hưởng đến lãi suất :

TLDTBB tỷ lệ thuận với lãi suất cho vay ,tỷ lệ nghịch với tiền cho vay , do tiền dự trữ không được tính lãi giảm NHTG do đó gây ra nhiều vụ sai phạm trong hđ NH,NHTƯ phải đưa ra TLDTBB phù hợp với khả năng của các NHTG hđ có hiệu quả . Ngoài ra , ở một số nước người ta còn duy trì chính sách lãi sàn , lãi trần đối với việc gửi tiền & cho vay dẫn đến sự lúng túng trong hđ do vậy DTBB cần phải để cho NHTG tự do hoá lãi suất dao động trong phạm vi quản lý được .để cân đối thu chi , đem lại lợi nhuận cho hđ NH .

  • DTBB ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ quốc gia :

Vì MB = C + R mà M = m. MB do vậy khi TLDTBB thay đổi đều tác động đồng đều lên các tổ chức tín dụng , NHTG nhưng do việc thay đổi TLDTBB với số lượng nhỏ không ảnh hưởng lắm đến mức cung tiền do tính linh hoạt kém do đó ảnh hưởng của nó còn nhiều hạn chế .

  • Dự trữ quá mức : là tiền dự trữ tại két của NHTG .Việc duy trì một lượng DT quá mức hợp lý có thể giúp cho NH đạt lợi nhuận tối đa .
  • Vai trò của tiền dự trữ : Chúng ta xem xét một NHTM A có thể đối phó với dòng tiền rút ra xuất hiện khi những người gửi tiền ở NNH này rút tiền mặt từ những tài khoản séc hoặc tài khoản tiết kiệm hoặc phát séc gửi tới NH khác như thế nào.

Giả sử NHTM A có tiềnDT quá mức dồi dào & tất cả tiền gửi có cùng TLDTBB như nhau là 10%.Ta có bảng quyết toán TS.

TH1: Ta có tiền gửi 100tr & (DTBB + DTQM) là 20tr.

NH mất đi 10tr$ tiền gửi & 10tr$ tiền dự trữ nhưng DTBB là 10% tức là 9tr$ do đó vẫn dư số tiền DTBB là 1tr$.

Vởy nếu 1 NH có những khoản DT dồi dào , một dòng tiền rút ra không đòi hỏi phải có những thay đổi các phần khác trong bản quyết toán TS của nó.

Do NHTM B cho vay hết kkhông DT mà lẽ ra NH phải DT 9tr$ để phòng khi có dòng tiền rút ra vì vậy NHTM B dẫn đến thiếu hụt 1 lượng tiền 9tr$ .Để bù đắp thiếu hụt NHTM B sử dụng một số phương pháp sau:

- Giảm bớt các món tiền cho vay của mình 1 số lượng bằng 9tr$ & đem gửi nó vào NHTƯ làm tăng tiền DT của nó lên 9tr$ hoặc thu hồi các khoản vay.Nhưng biện pháp này sẽ làm giảm lợi nhuận , mất uy tín với khách hàng vì vậy nhtm sẽ mất uy tín trong KD.

- NH giảm các món tiền cho vay của mình bằng cách bán tháo chúng cho các NH khác. Điều này sẽ phải trả giá đắt vì các NH khác không trực tiếp biết rõ các khách hàng đã vay các mons tiền đó & như vậy có thể họ không sẵn lòng mua các món cho vay đó theo đủ giá trị của chúng.

  • NH bán chứng khoán của mình giúp thoả mãn dòng tiền rút ra đó & gửi tiền thu được vào NHTƯ đưa đến bản quyết toán tài sản.Tuy không khách hàng mất lòng hoặc tổn thất do việc bán các món tiền cho vay nhưng NH này chịu môtj số CFC’ môi giới & giao dịch khác khi nó bán các chứng khoán nói trên.

- NH có thể đáp ứng dòng tiền rút ra là giành được các khoản tiềnDT bâừng cách vay tiền từ NHTƯ . Nhược điểm của phương pháp này là chịu 2 phí tổn :lãi suất phải trả cho NHTƯ được gọi là lãi chiết khấu & 1 CFC’ không phải tiền ,đó là việc NHTƯ không khuyến khích vay quá nhiều của NHTƯ.Do vậy NHTM phải DT.

  • NH đi vay các NHTM khác. Biẹn pháp này đòi hỏi phải chịu lãi suất cao.

  • NH bán kỳ phiếu , trái phiếu của NH.Biện pháp này chấp nhận mức trả lãi trái phiếu cao, lợi nhuận thấp.

-Vậy các khoản tiền dự trữ quá mức là sự bảo hiểm chống đỡ lại các CFC’ kèm theo với dòng tiền rút ra càng lớn các NH sẽ càng muốn giữ nhiều tiền DTQM hơn nhưng việc duy trì hợp lý một lượng tiền DT làn cho NH hiện đại đạt được lợi nhuận tối đa.

Quá trình NHTƯ cung cấp tiền DT cho NHTM

NHTW có thể cung cấp tiền DT cho NHTM bằng nhiều cách khác nhau như là cho vay chiết khấu & mua chứng khoán từ các NHTM từ đó NHTƯ cung cấp tiền DT cho NHTM . Khi NHTM thiếu tiền DT.

Cho vay chiết khấu đối với NHTM thì NHTM sẽ tăng tiền dự trữ & tăng lượng tiền vay của NHTƯ.

Kết quả là tiền DT tăng thêm 100$.

Vậy tác dụng của mua chứng khoán trên TT tự do đối với tiền DT thay đổi tuỳ theo việc nguời bán các chứng khoán đó giũ món tiền thu được dưới dạng tiền gửi hay tiền mặt. Nếu số tiền ấy được gửi dưới dạng tiền gửi thì tiền DT tăng thêm số tiền trên trái khoán của NHTM.

0