Đại học
Đại học (tiếng Anh: University) là một bậc học chuyển tiếp của bậc phổ thông trung học dành cho những học sinh có khả năng và nguyện vọng học tập tiếp lên trên. Trường đại học là một tổ chức cung cấp nền giáo dục cao và là nơi nghiên cứu, cấp bằng học thuật ...
Đại học (tiếng Anh: University) là một bậc học chuyển tiếp của bậc phổ thông trung học dành cho những học sinh có khả năng và nguyện vọng học tập tiếp lên trên. Trường đại học là một tổ chức cung cấp nền giáo dục cao và là nơi nghiên cứu, cấp bằng học thuật cho rất nhiều các lĩnh vực ngành nghề. Các trường đại học cung cấp cho chương trình giáo dục cho sinh viên và chương trình giáo dục sau đại học cho các học viên. Từ university[1] được lấy từ từ latin là universitas magistrorum et scholarium, nghĩa của nó là cộng đồng của các giáo viên và học giả.
Giáo dục đại học gồm hai phần: dạy và học. Một số phương pháp cổ điển trong giáo dục đại học thường đặt trọng tâm vào một trong hai phần đó. Chẳng hạn như giảng bài (lectures, hay lên lớp) là một phương pháp truyền đạt kiến thức. Có người cho rằng giảng bài là một phương pháp chuyển giao thông tin từ cuốn sổ ghi chép của người dạy đến cuốn sổ ghi chép của người học mà không phải qua cái đầu của cả hai. So với giảng bài, những lớp seminar (hội họp chuyên đề), dạy phụ (tutorial), và thực hành thường chú trọng vào việc học hơn.
Trong truyền thống giáo dục đại học quá trình học quan trọng hơn là môn học. Thời xa xưa ở Anh chẳng hạn, một văn bằng cử nhân văn học cổ điển được xem là một chứng chỉ để được tuyển vào các chức vụ trong guồng máy cầm quyền. Những người này được tuyển không phải vì họ có kiến thức cao sâu về các tác phẩm của Cicero hay Plato, mà vì họ được huấn luyện để có một thói quen trí tuệ, kĩ năng phân tích vấn đề, và khả năng tiếp thu và diễn đạt những văn bản phức tạp một cách rõ ràng. Trong giáo dục y khoa, chúng ta muốn sinh viên phải học một lượng thông tin lớn, nhưng khả năng tổ chức và xử lí những thông tin như thế để đi đến một chẩn đoán còn quan trọng hơn là tiếp nhận thông tin. [2]
Đại học ở Mỹ
Các trường đại học Mỹ nói chung không có thi đầu vào. Đây là một quan điểm rất tiến bộ: học tập là quyền chính đáng của mọi người, mặc dù xuất phát điểm có thể khác nhau. Nhờ vậy, tất cả những ai có chí đều có thể có cơ hội, ngược lại quốc gia cũng không bỏ phí nhân tài. Nhiều người cho rằng giáo dục phổ thông ở Mỹ không tốt bằng ở châu Âu, nhưng bù lại, số người đã hoặc đang theo đại học ở Hoa Kỳ nhiều hơn gấp bội. Vì thế, lực lượng lao động của Mỹ có chất lượng đào tạo không hề thua kém châu Âu.
Nhưng muốn học, phải trả tiền. Khi anh bỏ tiền để mua kiến thức, anh sẽ có ý thức về việc học tập hơn. Còn nếu anh trả tiền mà không học, tức không nhận kiến thức, thì đó cũng là quyền của anh. Nói vậy, nhưng việc đăng ký học cũng không phải hoàn toàn chỉ có chuyện tiền nong. Một số trường nổi tiếng khá kén chọn sinh viên. Một số bang cũng ưu tiên nhận sinh viên từ bang mình. Còn đối với sinh viên nước ngoài, điểm thi tiếng Anh (TOEFL) đặc biệt quan trọng.
Nhìn chung, bậc đại học (Undergraduate/ Bachelors program) ở Mỹ kéo dài 4 năm: Năm thứ nhất gọi là "Freshman Year", năm thứ hai: "Sophomore Year", năm thứ ba: "Junior Year", năm thứ tư - "Senior Year". Hai năm đầu học các môn cơ bản, năm thứ ba bắt đầu học chuyên ngành. Bậc cao học (Graduate Study) có hai cấp: Thạc sĩ (master degree) nhìn chung kéo dài 2 năm, và Tiến sĩ (PhD) từ 5 đến 7 năm.
Trường Đại học Y khoa là một ngoại lệ. Muốn vào trường, sinh viên phải có bằng tốt nghiệp đại học thuộc một số ngành như sinh hoá, sinh vật... Chương trình kéo dài 4 năm nữa, sau đó phải thực tập từ 2 đến 4 năm. Như vậy, để hành nghề chữa bệnh, cần phải học và thực tập từ 10-12 năm!
Chúng ta cần phân biệt Đại học tổng hợp (University) với Đại học đơn ngành (College). "College" chỉ có một ngành học, có thể độc lập hoặc thuộc một "Univerrity"; còn "University" có nhiều ngành, thường bao gồm nhiều "College". Các trường đại học Mỹ có thể chia ra làm 6 loại chính:
- Các trường của bang (State College hoặc University ): do chính phủ các bang quản lý và cung cấp tài chính. Mỗi bang ở Mỹ có ít nhất một trường Đại học tổng hợp và một số trường đại học đơn ngành loại này.
- Các trường tư (Private College hoặc University): Thường thu học phí cao hơn so với các trường của bang và thường nhỏ hơn về quy mô.
- Các trường địa phương (Community College): thuộc sự quản lý của các quận hoặc thành phố. Các trường này thường tổ chức các lớp buổi tối cho những người phải làm việc ban ngày. Tuy nhiên, một số quốc gia không công nhận bằng do các trường này cấp.
- Các trường nghề (Professional School): đào tạo một số chuyên môn như Hội hoạ, Âm nhạc, Kỹ thuật, Thương mại.... Các trường này có thể thuộc một trường Đại học tổng hợp hoặc độc lập.
- Các Viện công nghệ (Institute of Technology): dạy khoa học và công nghệ trong vòng ít nhất bốn năm. Một số cũng nhận nghiên cứu sinh.
- Các trường của Nhà thờ (Schools run by Church): Nhiều trường đại học Mỹ (College và University) do các tổ chức tôn giáo thành lập và quản lý. Phần lớn các trường này tiếp nhận cả sinh viên thuộc các tôn giáo khác, nhưng ưu tiên những người theo tôn giáo của họ. Sinh viên các trường này thường bắt buộc phải học Kinh thánh và đi lễ nhà thờ.
Việc học tập ở Mỹ rất tốn kém. Mức chi tiêu tối thiểu của một sinh viên ở các trường công vào khoảng 10 ngàn đô la/năm, còn ở các trường tư khoảng 35 ngàn đô la. Vì thế, trừ một số người được nhận học bổng hoặc xuất thân từ gia đình giàu có, sinh viên Mỹ hầu hết vừa học vừa làm, một số làm việc ngay tại trường. Việc vừa học vừa làm, là một yếu tố quan trọng khiến sinh viên Mỹ tự lập hơn nhiều so với sinh viên các nước khác. Nhiều người bỏ dở chương trình học, nhiều năm sau mới tiếp tục học trở lại và thi tốt nghiệp. Trong mọi trường hợp, khi ra trường, nhiều người trong số họ không chỉ đã có công ăn việc làm, mà còn có kinh nghiệm giao tiếp, có quan hệ, có thái độ thực tiễn về vấn đề tài chính, và nhất là có bản lĩnh trong việc hoạch định tương lai. [3]
Đại học ở Anh
Các bằng cử nhân ở đại học như Bachelor of Arts (BA), Bachelor of Law (LLB) ,Bachelor of Business ,Administration (BBA) ,Bachelor of Music (BMus) ,Bachelor of Education (BEd) ,Bachelor of Veterinary Science (BVSc), Bachelor of Science (BSc).Đặc biệt, ở Scotland, bằng đại học ở các môn khoa học nhân văn của 4 trường đại học có lịch sử lâu đời như St Andrews, Edinburgh, Glasgow, và Stirling , cũng như ở đại học University of Dundee là một bằng MA (Master of Arts).
Ngoài ra, ở Anh, Xứ Wales và Bắc Ireland có các bằng đại học khác như: Bằng Meng (Master of engineering) cần 4 năm học trong đó 3 năm đầu là chương trình Bachelor of Engineering. Tương tự như vậy, có bằng Mphys (Master Vật lý) và MSc (Master khoa học tự nhiên) cũng học trong 4 năm. Trong khi ở các trường khác, nơi khác tại Vương quốc Anh, master vẫn là một bằng cấp sau đại học. Thời gian của hầu hết các chương trình cử nhân tại Anh, Xứ Wales và Bắc Ireland là 3 năm và tại Scotland là 4 năm. Các chương trình về Y, Kiến trúc, Nha sẽ lâu hơn.
Các bằng đại học của Anh được xếp hạng khi tốt nghiệp theo kết quả học tập, lần lượt từ cao xuống thấp như sau:
- First class honours (viết tắt: a first);
- Upper second class honours (viết tắt: a 2:1);
- Lower second class honours (viết tắt: a 2:2);
- Third class honours (viết tắt: a third);
- Pass (dưới mức Pass, sẽ không được cấp bằng tốt nghiệp).
Các trường đại học ở Anh có hàng vạn chương trình, khóa học bao gồm hàng trăm ngành học, và các hình thức kết hợp đa dạng, phù hợp với nhiều loại hình viện trường khác nhau. Mọi sinh viên đều có thể lựa chọn cho mình các môn học và ngành hợp thích hợp phù hợp với khả năng, nhu cầu và nguyện vọng của mình. Các chương trình đào tạo đại học của Vương quốc Anh được công nhận rộng rãi trên trường quốc tế và gắn bó chặt chẽ với thực tiễn sản xuất, kinh doanh. Bên cạnh các học bổng, các chương trình đại học dành cho sinh viên nước ngoài có rất nhiều và thuộc rất nhiều các lĩnh vực mà mọi người quan tâm [4]. Các kỹ năng, kiến thức tiên tiến nhất mà sinh viên được trang bị trong nhà trường đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp và do đó mang lại nhiều cơ hội nghề nghiệp cho sinh viên sau khi ra trường. Những kiến thức đại học cũng là nền tảng để sinh viên tiếp tục học lên sau đại học. Các chương trình sau đại học của Vương Quốc anh cũng rất phong phú chẳng hạn như: các chương trình MBA [5], chương trình thạc sĩ tài chính [6] dành cho sinh viên quốc tế.
Bởi vì các yêu cầu đầu vào cho các chương trình giáo dục đại học là khá cao ở Anh, các trường đại học của Anh cũng có các khóa dự bị đại học dành cho các sinh viên chưa đạt yêu cầu đầu vào. Các khóa học này bao gồm:
- Foundation degrees;
- Access & Foundation courses;
- Work-based courses (các khóa thực hành, hướng nghiệp): như các khóa HND (Higher National Diploma), đặc biệt trong các ngành khoa học, kỹ thuật và kinh doanh. Các khóa này học trong 2 năm và tương đương với 2 năm học cử nhân. Sau đó, sinh viên sẽ được chuyển lên học thêm 1 năm nữa (“top-up”) của chương trình cử nhân để lấy bằng cử nhân.
Từ điển định nghĩa đẳng cấp thế giới (world class) là “được xếp hạng trong số những gì tốt nhất, lỗi lạc nhất, được coi là hàng đầu trên toàn thế giới; có một chất lượng xuất sắc theo tiêu chuẩn quốc tế”.
Sự xuất sắc trong nghiên cứu được coi là một nền tảng quan trọng trong khái niệm đại học đẳng cấp thế giới, vì điều này được công nhận rộng rãi trong giới hàn lâm. Những công trình nghiên cứu này có thể được định lượng và liên thông giữa các trường. Nhưng nếu nghiên cứu được coi là nhân tố chủ yếu, mọi bộ phận của trường đại học sẽ đứng trước yêu cầu phải tạo ra những công trình nghiên cứu lỗi lạc. Những giáo sư hàng đầu tất nhiên sẽ là trung tâm của nhà trường.
Tự do học thuật và một bầu không khí sôi nổi về trí tuệ cũng là một đặc điểm trọng yếu của đại học đẳng cấp thế giới. Các giáo sư và sinh viên phải được tự do theo đuổi tri thức và công bố những kết quả nghiên cứu của họ mà không e sợ bị trừng phạt.
Đại học đẳng cấp thế giới có một mức độ tự trị đáng kể và một truyền thống luôn được giữ vững, thường được củng cố bằng những đạo luật, qui định để bảo đảm rằng cộng đồng học thuật (thường là các giáo sư, nhưng đôi khi có cả sinh viên) có thể kiểm soát những nhân tố trọng yếu của đời sống học thuật như việc tuyển sinh, chương trình đào tạo, tiêu chí cấp bằng, bầu chọn giáo sư, định hướng cơ bản trong hoạt động chuyên môn của nhà trường. Cơ sở vật chất và trang thiết bị đầy đủ cho các hoạt động chuyên môn là một tiêu chuẩn thiết yếu. Hơn thế nữa, các nguồn tài chính tương xứng phải sẵn sàng hỗ trợ việc nghiên cứu và giảng dạy, cũng như các hoạt động khác của nhà trường.