Liên minh tiền tệ châu Âu
Liên minh châu Âu là kết quả của hoạt động liên kết kinh tế quốc tế, là kết quả của một quá trình hợp tác và đấu tranh giữa tranh chấp và thoả hiệp của các nước thành viên nhằm đi đến thống nhất và tạo ra một sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết. ...
Liên minh châu Âu là kết quả của hoạt động liên kết kinh tế quốc tế, là kết quả của một quá trình hợp tác và đấu tranh giữa tranh chấp và thoả hiệp của các nước thành viên nhằm đi đến thống nhất và tạo ra một sức mạnh tổng hợp từ sự liên kết. Bằng quyết tâm cao của các nước thành viên mới có được EU - 15 hùng mạnh như ngày nay và tiến tới là EU - 28 sau đợt mở rộng sang Đông và Trung Âu.
EU có quá trình phát triển lâu dài, bắt đầu từ rất sớm so với các khu vực liên kết kinh tế quốc tế khác. Ngay sau đại chiến thế giới thứ hai, các nước châu Âu đã nhận thấy hoạt động liên kết kinh tế quốc tế cần thiết hơn bao giờ hết.
Trong hai cuộc đại chiến nửa đầu thế kỷ XX Tây Âu và Nhật Bản bị huỷ diệt nặng nề về kinh tế, trong khi đó Mỹ đã làm giàu từ việc bán vũ khí cho các nước tham chiến. Vì vậy, sau chiến tranh thế giới Mỹ đã trở thành một cường quốc kinh tế số 1 và Mỹ cũng đã nhánh chóng tận dụng thế mạnh kinh tế đó là củng cố địa vị của mình, bằng kế hoạch Marsall (chi viện vốn cho Tây Âu và Nhật Bản để phục hồi kinh tế sau chiến tranh). Trước bối cảnh đó các quốc gia châu Âu đều có mong muốn khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng một nền hoà bình vững chắc độc lập tự chủ. Vì vậy cần phải thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ, các quốc gia liên kết với nhau xây dựng liên minh EU khởi đầu bằng cộng đồng than thép châu Âu (CECA).
Ngày 18 - 04 -1951, bằng hiệp định Paris cộng đồng than thép châu âu chính thức ra đời.
- Mục đích xây dựng CECA để tạo ra sự chủ động có được sự hợp tác trong việc phát triển hai mặt hàng quan trọng lúc đó (than và thép). Có thể coi đây là thị trường chung với hai mặt hàng này là chương trình thử nghiệm của việc xây dựng thị trường chung châu Âu. Dư luận châu Âu tin tưởng cùng việc thành lập Cộng đồng châu Âu sẽ đưa các nước thành viên lên một bước phát triển mới.
- Nguyên tắc xây dựng cộng đồng là bình đẳng và hợp tác, các nước tham gia vào cộng đồng trên tinh thần tự nguyện.
CECA gồm có 6 nước tham gia là : Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ, ý và Luxembua.
Sau một thời gian ngắn CECA đã đạt được nhứng kết quả mong đợi của các nhà sáng lập CECA, đã đem lại những lợi ích kinh tế chính trị to lớn khiến các nước thành viên tiếp tục phát triển con đường đã chọn bằng việc xây dựng cộng đồng kinh tế Châu Âu (EEC).
Ngày 25 - 3- 1957, ký kết hiệp định Roma, thành lập cộng đồng kinh tế châu Âu (EEC) và cộng đồng nguyên tử châu Âu (CECA). Tất cả các thành viên của CECA đều tham gia vào EEC và CEEA.
Cộng đồng kinh tế châu Âu và cộng đồng nguyên tử châu Âu có cơ sở vững chắc từ sự thành công của cộng đồng than thép châu Âu. Chính từ thành công của CECA đã chứng tỏ sức mạnh của hợp tác liên kết kinh tế quốc tế và thúc đẩy mở rộng hợp tác không chỉ trong hai mặt hàng, trong hoạt động thương mại mà còn hợp tác trong các chính sách kinh tế, cần có sự hợp tác, thống nhất chính sách kinh tế của toàn khối. Đây chính là nội dung hoạt động chủ yếu của EEC. Từ các kết quả đạt được của EEC đã thu hút đông đảo các nước bên ngoài xin gia nhập. Năm 1961 các nước Anh, Đan Mạch, ireland lần lượt làm đơn xin gia nhập EEC. Các nước này tham gia vào EEC với các mục đích khác nhau. Chẳng hạn với Anh, để có thể phát triển nền công nghiệp phải tham gia vào EEC thì mới thâm nhập được vào thị trường giàu có này. Đan Mạch tham gia với mong muốn tiêu thụ sản phẩm công nghiệp và tạo điều kiện phát triển nền công nghiệp, còn ireland lại tham gia với mục đích chính là để tránh tính lệ thuộc vào nông nghiệp của Anh...
Trong Cộng đồng châu Âu, bên cạnh sự hợp tác xây dựng cộng đồng, củng cố lợi ích chung, các thành viên luôn cạnh tranh với nhau để dành củng cố địa vị của mình trong cộng đồng. Pháp là một nước lớn trong EEC, do sợ sự cạnh tranh địa vị của mình khi có Anh tham gia vào EEC và sợ quan hệ Anh - Mỹ sẽ làm tăng sự ảnh hưởng của Mỹ ở châu Âu. Vì vậy, Pháp vận động Đức phủ quyết định việc Anh xin gia nhập. Đương nhiên hai nước Đan Mạch và ireland nộp đơn cùng đợt cũng được xem xét.
Sau 10 năm hoạt động EEC đã đạt được những kết quả đáng kể đã tạo điều kiện cho các nước thành viên có thể hợp tác, liên kết ở mức độ cao hơn, đồng thời EEC cũng bắt đầu tỏ ra tương xứng với thực lực của cộng đồng do vậy đã khiến các quan chức châu Âu đi đến hợp nhất cộng đồng thành Cộng đồng châu Âu (EC).
Ngày 1 - 7 - 1967, EC chính thức ra đời dựa trên sự hợp nhất của cộng đồng than thép châu Âu, cộng đồng nguyên tử châu Âu và cộng đồng kinh tế châu Âu. Tất cả các thành viên của cộng đồng EEC đều tham gia vào EC. Mục đích chính để thành lập EC là tạo ra sự hợp tác, liên kết ở một mức độ cao hơn, mở rộng phạm vi liên kết không chỉ bó hẹp trong liên kết kinh tế. Nội dung hoạt động của EC là hợp tác về chính sách thuế, chính sách nông nghiệp như thành lập đồng minh thuế quan 7/1968, xây dựng xây dựng kế hoạch Manshall về nông nghiệp bên cạnh đó là các hoạt động hợp tác kinh tế và tiền tệ, thi hành nâng đỡ tiền tệ ngắn hạn, đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực tài chính...
Nhìn thấy các kết quả đạt được của Cộng đồng châu Âu, nhiều nước làm đơn xin gia nhập EC. Anh, Đan Mạch và ireland sau nhiều lần đàm phán thất bại, năm 1973 được kết nạp và đưa tổng số thành viên từ 6 lên 9 nước.
Năm 1981, Hy Lạp trở thành thành viên thứ 10. Tiếp đó Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha lần lượt trở thành thành viên của Cộng đồng châu Âu vào năm 1986, đã đưa tổng số thành viên lên tới 12. áo, Thụy Điển và Phần Lan là thành viên của Hiệp hội mậu dịch tự do châu Âu (EFTA). Sau khi ba thành viên khác của EFTA: Anh, Đan Mạch và ireland đã gia nhập EC, đồng thời do quan hệ kinh tế giữa EC và EFTA được xúc tiến mạnh mẽ, 3 nước áo, Thụy Điển và Phần Lan tích cực xin gia nhập và lần lượt trở thành thành viên thứ 13, 14, 15 của EC vào năm 1989, 1991 và 1992.
Qua các lần mở rộng, do số thành viên tham gia nhiều hơn Cộng đồng châu Âu lớn mạnh dần lên về quy mô. Tuy nhiên, càng mở rộng nhiều thành viên hơn, quá trình tham khảo ý kiến, phối hợp sẽ phức tạp hơn và nhiều vấn đề về lợi ích sẽ khó dung hoà hơn. Cần có một bộ máy quản lý mới đã thôi thúc châu Âu đi tới Hội nghị Maastrich tháng 12/1991. Hội nghị này đã chuẩn y hiệp ước thống nhất châu Âu, mở đầu cho sự thống nhất về kinh tế chính trị, tiền tệ ở châu Âu.
Theo hiệp ước Maastrich ký ngày 7/2/1992 Cộng đồng châu Âu đổi tên thành liên minh châu Âu và chính thức vận hành từ ngày 1/1/1993.
EU gồm 15 thành viên, mục đích chính của EU là tạo ra sự hợp tác thống nhất cao, tạo điều kiện phát triển kinh tế các nước thành viên củng cố sức mạnh toàn khối, tiến tới thành lập khu vực tiền tệ (tạo sự liên kết thống nhất ở mức độ cao từ kinh tế đến tiền tệ) để EU có đủ sức mạnh cạnh tranh và hợp tác có hiệu quả với các nước, các khối liên minh khác.
Sau hơn 40 năm ra đời và phát triển, liên minh châu Âu đã đạt được những thành tựu đáng kể, đã xây dựng và củng cố mối quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước thành viên và đã tạo ra được thị trường chung về hàng hoá và dịch vụ. Mục tiêu lâu dài liên minh châu Âu là nhằm thống nhất châu Âu bằng con đường hoà bình, bằng sức mạnh của hợp tác và liên kết kinh tế quốc tế.
Thực tế liên minh châu Âu đã có thị trường chung về hàng hoá và dịch vụ, đã có sự liên kết hợp tác trong lĩnh vực tài chính tiền tệ. Song để thị trường chung thực sự trở nên thống nhất thì các rào cản tiền tệ phải được loại bỏ hoàn toàn. Điều này chỉ có được khi có duy nhất một đồng tiền chung được lưu hành và được điều hành thống nhất bằng một chính sách tiền tệ chung. Chính vì vậy mà liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) được ra đời mà nội dung chính của nó là cho ra đời và vận hành đồng tiền chung trong toàn khối.
Nội dung chính của hội nghị Maastrich đã được chính thức hoá trong hiệp ước Maastrich (ký ngày 7/2/1992). Cũng theo hiệp ước này đã khẳng định công việc chuẩn bị cho ra đời đồng tiền chung duy nhất trong khuôn khổ xây dựng liên minh tiền tệ 3 giai đoạn và 5 tiêu thức gia nhập làm căn cứ cho tất cả các nước mong muốn và có đủ điều kiện gia nhập khối đồng tiền chung (khối EURO).
là tiến tới hoà nhập các chính sách kinh tế, tiền tệ của các nước thành viên EU là khâu không thể thiếu được trong quá trình chuẩn bị cho ra đời đồng tiền chung châu Âu.
Mục tiêu của liên minh tiền tệ châu Âu là thống nhất xây dựng một chính sách tiền tệ chung, phát hành đồng tiền chung để thị trường chung châu Âu thực sự thống nhất, đồng thời tạo thế đối trọng về tài chính với các khu vực khác chủ yếu là Nhật, Mỹ từ việc thống nhất tiền tệ:
Quá trình hình thành của Liên minh tiền tệ Châu Âu.
Liên minh kinh tế tiền tệ châu Âu (EMU) là sản phẩm trực tiếp của hiệp ước Maastrich ký ngày 7-2-1992, giai đoạn mới của tiến trình liên kết châu Âu.
Thực ra tiến trình xây dựng EMU đã được đề cập từ rất sớm, với những bước thăng trầm nhất định. Ngay từ hiệp ước Rome một số điều khoản đã được đề cập đến có liên quan tới hợp tác các chính sách tiền tệ và các chính sách hối đoái. Ngay lúc đó, người ta đã tranh luận về vấn đề: Một thị trường chung không biên giới phải được củng cố bằng một đồng tiền chung. Nhưng trên thực tế, chỉ đến sau năm 1971 các nước châu Âu mới thực sự quan tâm vì trước đó tiền tệ của các nước này vẫn được cố định với đồng USD trong hệ thống Bretton Woods. Năm 1971 hệ thống Bretton Woods hoàn toàn sụp đổ các đồng tiền châu Âu được thả nổi hoàn toàn. Thay đổi tự do theo cung cầu trên thị trường không làm cho tỷ giá của các nước này ổn định hơn, mà trái lại càng thêm trao đảo mạnh (do đầu cơ tiền tệ ngày càng ra tăng và sự chu chuyển về vốn mạnh mẽ giữa các nước xuất phát từ sự khác biệt về lãi suất) thêm vào đó là sự giảm giá của đồng USD làm các nước châu Âu co cụm lại gần nhau trong vấn đề tiền tệ. Khi đồng USD giảm giá thì dự trữ quốc gia bằng đồng USD sẽ giảm xuống buộc các nước phải tăng dự trữ để đảm bảo giá trị thực tế của dự trữ quốc gia cùng với sự mất giá của USD, đã thúc đẩy họ tìm một đồng tiền khác ổn định hơn làm cơ sở thay cho đồng USD ngày một mất giá.
Năm 1969, một cuộc họp cấp cao của EEC đã yêu cầu những vị Bộ trưởng Bộ Tài chính của mình cùng với Uỷ ban của cộng đồng phác thảo ra một kế hoạch từng bước tiến tới liên minh kinh tế - tiền tệ.
Năm 1970 nhóm làm việc dưới sự lãnh đạo của thủ tướng Luxembua lúc đó là Pierre Werner đã đưa ra một kế hoạch đầy tham vọng: "Thực hiện liên minh tiền tệ" trong vòng 10 năm (được gọi là kế hoạch Werner). Nội dung của kế hoạch có nhiều điểm giống với Hiệp ước Maastricht. Nhưng kế hoạch này đã thiếu một tiền đề tiên quyết để thành công. Không như hiệp ước Maastricht, nó không được ký kết ràng buộc như một hiệp ước được phê duyệt và có giá trị pháp lý như một công ước quốc tế, trái lại trong từng công đoạn của nó với tất cả các chi tiết đều phải được quyết định mới. Chính vì vậy kế hoạch này đã thất bại ở giai đoạn thứ 2. Cùng với hàng loạt các biến cố xảy ra trong tình hình kinh tế chính trị lúc đó đã làm tan kế hoạch này.
Cuối những năm 1970 trước sự suy thoái về kinh tế kéo dài đặc biệt là trước thế sút kém của một Cộng đồng châu Âu phân tán về thị trường tiền tệ, trong so sánh với Mỹ và Nhật, đồng thời cùng với việc đồng USD tiếp tục giảm giá trong cuối những năm 70. Các thành viên châu Âu lại một lần nữa cùng nhau thử sức trong vấn đề liên kết tiền tệ. Theo sáng kiến của Tổng thống Pháp Giseard de Stanh và thủ tướng Đức Helmut Schmidt, hệ thống tiền tệ châu Âu đã ra đời 13-3-1978 (EMS). Mục đích của EMS là duy trì tỷ giá cố định trong toàn khối và tỷ giá của cả khối sẽ thay đổi theo thị trường. Đó thực chất là một hệ thống thả nổi có điều tiết. Cùng với sự ra đời của EMS là sự ra đời của đơn vị tiền tệ châu Âu: đồng ECU (1978), đây thực chất là một "giỏ tiền tệ". Giá trị của đồng ECU được xác định trên cơ sở giá trị của "một giỏ tiền tệ" bao gồm một số lượng cố định mỗi đồng tiền trong cộng đồng. Số lượng mỗi đồng tiền này lại được xác định tuỳ thuộc vào tiềm lực kinh tế của mỗi nước.
Đồng ECU cũng có chức năng nhất định như tính toán, thanh toán, dự trữ... Song rất hạn chế trong một phạm vi nhất định, là đơn vị tính toán đồng ECU là cơ sở tính tỷ giá giữa các đồng tiền trong cộng đồng, đồng thời nó còn là cơ sở xác định ngân sách cộng đồng, thuế, giá cả nông nghiệp. Là phương tiện thanh toán, đồng ECU là cơ sở xác định và thanh toán các khoản nợ của các ngân hàng trung ương khi các ngân hàng này phải tiến hành các can thiệp để giữ tỷ giá trong giới hạn quy định trên thực tế đồng ECU không phải là một đồng tiền thực sự, mà là một đồng tiền nặng vô danh nghĩa. Thành tích lớn nhất đạt được của EMS là tạo ra được một vùng tiền ổn định, giảm được các rủi ro do sự biến động của đồng USD, và đồng Yên Nhật, giúp các nước châu Âu giảm được lạm phát. Nhưng đến 1992 EMS đã xụp đổ, một mặt là do những nguyên nhân kinh tế khách quan, một mặt là do những thiếu sót về tính chất và cơ cấu trong chính bản thân EMS một trong những lý do đó là sự biến đổi kinh tế trong hệ thống rất nhanh, và sự biến đổi này không tương ứng nhau giữa các nước, dẫn tới mâu thuẫn với tỷ giá cố định trong hệ thống EMS và mâu thuẫn đã bùng nổ, phá vỡ thế ổn định.
Hệ thống tiền tệ châu Âu bộc lộ những hạn chế trong lúc cục diện thế giới 2 cực đã chấm dứt, vấn đề chính trị đã gác lại, các thế lực đều dồn sức chuẩn bị lực lượng để giành địa vị tối ưu trong tương lai, chủ yếu là chạy đua xây dựng củng cố thế lực và kinh tế, cục diện 2 cực chấm dứt, những trật tự mới đang dần hình thành xu hướng hợp tác, liên kết kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ hình thành các khu vực kinh tế. Trong bối cảnh đó, Cộng đồng châu Âu tuy đã đạt được những thành tựu nhất định trong quá trình liên kết, song hầu hết các mặt Cộng đồng châu Âu còn thua kém Mỹ, Nhật. Trong cuộc cạnh tranh quyết liệt với các trung tâm, khu vực kinh tế trong giai đoạn mới. Trước hết các nước châu Âu phải thống nhất chặt chẽ hơn để tạo ra một sức mạnh tổng hợp, đáp ứng những cơ hội và thách thức mới. Trước tình hình đó, vào năm 1989 báo của J.Delors - Chủ tịch uỷ ban châu Âu lúc đó đã ra đời, và vạch ra những điều kiện và chương trình cụ thể của một liên minh kinh tế - tiền tệ. Hiệp ước Maastricht ra đời chính thức hoá dự án về đồng tiền chung. Khẳng định quá trình xây dựng liên minh kinh tế và tiền tệ (EMU) gồm 3 giai đoạn và xác định nội dung công việc cụ thể của từng giai đoạn.
Giai đoạn 1 từ 1-7-1990 đến 31-12-1993 nhiệm vụ của giai đoạn này là phối hợp chính sách tiền tệ và chính sách kinh tế giữa các nước, giúp các nước đạt được các chỉ tiêu để ra nhập khu vực đồng EURO cụ thể hoàn chỉnh thị trường chung châu Âu đặc biệt là hoàn chỉnh quá trình lưu thông và tự do vốn, đặt nền kinh tế quốc gia dưới sự giám rất nhiều bên, phối hợp chính sách tiền tệ giữa các nước trong phạm vi "uỷ ban thống đốc của ngân hàng trung ương để ổn định tỷ giá giữa các đồng tiền".
Giai đoạn 2: từ 1-1-1994 đến 1-1-1999 nhiệm vụ của giai đoạn này là tiếp tục phối hợp chính sách kinh tế, tiền tệ nhưng ở mức cao hơn, để chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của đồng EURO. Trong giai đoạn, này các tiêu thức gia nhập EMU sẽ được rà soát lại một cách kỹ lưỡng giữa các nước để đến cuối giai đoạn này có thể quyết định cụ thể nước nào sẽ gia nhập EMU. Đồng thời thành lập viện tiền tệ châu Âu, với nhiệm vụ thực hiện một số chính sách tiền tệ chung để ổn định giá cả tạo điều kiện chuẩn bị cho sự ra đời và vận hành đồng EURO. Đây là bước chuyển tiếp để đưa ngân hàng trung ương châu Âu ECB và hoạt động ở cuối giai đoạn này.
Giai đoạn 3 là từ 1-1-1999 đến 30-6-2002 với nội dung cho ra đời đồng EURO, công bố tỷ giá chuyển đổi chính thức giữa đồng EURO và các đồng tiền quốc gia. Thứ ba là ECB chính thức vận hành và chịu trách nhiệm điều hành chính sách tiền tệ của liên minh.
Quá trình chuẩn bị, thể hiện quyết tâm cao của các nước thành viên nhằm xây dựng thành công EMU với nội dung chính là tạo ra một đồng tiền chung (đồng EURO) và một chính sách tiền tệ thống nhất. Trước khi đi vào tìm hiểu về chính sách tiền tệ châu Âu và đồng EURO việc nghiên cứu các tiêu thức ra nhập khu vực khu vực đồng EURO là rất cần thiết.
Các tiêu thức gia nhập khối EURO.
Theo hiệp ước Maastrich, để tham gia EMU, các thành viên phải thoả mãn các tiêu chuẩn sau:
- Tiêu chuẩn lạm phát: tỷ lện lạm phát không vượt quá mức 1,5% mức lạm phát bình quân của 3 nước có chỉ số lạm phát thấp nhất.
- Tiêu chuẩn về lãi suất dài hạn: Mức lãi suất dài hạn không được vượt quá 2% mức lãi suất dài hạn trung bình của ba nước có mức lãi suất dài hạn thấp nhất.
- Tiêu chuẩn về thâm hụt ngân sách: Mức bội chi ngân sách không được vượt quá 3% GDP (có tính đến các trường hợp sau đây: Mức thâm hụt đang ở trong xu hướng được cải thiện để đạt tới tỷ lệ quy định, mức thâm hụt vượt quá 3% GDP chỉ mang tính chất tạm thời không đáng kể và không phải mức bội chi cơ cấu).
- Tiêu chuẩn về tỷ giá: Đồng tiền quốc gia phải là thành viên của cơ chế tỷ giá châu Âu (ERM) hai năm trước khi gia nhập liên minh kinh tế tiền tệ và không được phá giá tiền tệ so với các đồng tiền khác.
Theo các tiêu thức trên, đến tháng 5/1998 đã có 13 trong 15 thành viên EU đạt tiêu chuẩn.
Hai nước không đạt tiêu chuẩn là Hy Lạp và Anh do có mức lạm phát cao và chu kỳ kinh tế suy giảm.
Hai nước Thụy Điển và Đan Mạch, mặc dù đủ tiêu chuẩn tham gia song chưa sẵn sàng tham gia khu vực đồng tiền chung này. Tuy nhiên các nước này dự định sẽ tham gia vào khu vực đồng tiền chung trong những năm tới.
Ngày 2/5/1998, Uỷ ban châu Âu đã quyết định xem xét các quốc gia đủ tiêu chuẩn và sẵn sàng tham gia vào khu vực EURO lần đầu danh sách được xếp theo quy mô GDP như sau: Đức, Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Hà Lan, Bỉ, áo, Phần Lan, Bồ Đào Nha, ireland, Lucxambua. Khu vực đồng EURO còn có thể mở rộng sang các thành viên Đông và Bắc Âu như: Thụy Sĩ và Na Uy.
Chính sách tiền tệ của liên minh châu Âu.
Giới thiệu khái quát về NHTW (Ngân hàng Trung ương) châu Âu (ECB).
Bộ máy điều hành thống nhất tiền tệ là NHTW châu Âu, ECB có trách nhiệm hoạch định chính sách tiền tệ thống nhất châu Âu.
Theo hiệp ước Maastrich và các văn bản có giá trị pháp lý khác của EU, chính thức khẳng định ECB hoàn toàn chịu trách nhiệm về chính sách tiền tệ chung toàn khối EURO - 11 từ ngày 1/1/1999.
Ngân hàng TW (Trung ương) châu Âu chính thức được ra đời từ ngày 1/7/1998 nhưng chịu trách nhiệm hoạch định chính sách tiền tệ thống nhất bắt đầu từ ngày 1/1/1999. Trụ sở của ECB đặt tại Fracfart. Cơ cấu ECB gồm có hội đồng thống đốc dưới hội đồng thống đốc có ban giám đốc, trong ban giám đốc có 1 chủ tịch, 1 phó chủ tịch và 4 thành viên.
Tháng 5/1998, Hội đồng kinh tế tiền tệ châu Âu bỏ phiếu bầu thống đốc của ECB, ông Wim Duisenberg, quốc tịch Hà Lan nguyên thống đốc NHTW Hà Lan, đang đương chức giám đốc viện tiền tệ châu Âu đã trúng cử thống đốc ECB với 50 phiếu thuận 1 phiếu trống và 5 phiếu trắng.
EBC có vị trí độc lập với các nước thành viên và Uỷ ban châu Âu trong việc hoạch định chính sách tiền tệ thống nhất. Điều này vừa ngăn ngừa hữu hiệu việc lạm dụng tiền tệ để tài trợ cho các mục tiêu quân sự, chính trị, nguồn gốc của lạm phát, bất ổn tiền tệ vừa đảm bảo cho đồng EURO mạnh và ổn định. Tính chất không thể bãi miễn chức thống đốc ECB, nhiệm kỳ 8 năm để đảm bảo tính độc lập thực sự của ECB trong việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ trong toàn khối.
Mục tiêu của chính sách tiền tệ thống nhất được xác định rõ ràng là ổn định giá cả. Qua ổn định giá cả góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, giảm thất nghiệp... Việc công khai mục tiêu ổn định giá cả như là mục tiêu duy nhất của chính sách tiền tệ châu Âu không phụ thuộc vào bất kỳ sự can thiệp nào, trong bất kỳ trường hợp nào đã khẳng định tính độc lập của ECB.
Về mặt nghiệp vụ, ECB phải xác định các mục tiêu trung gian mang tính kỹ thuật như: khối lượng tiền phát hành, tỷ giá, lãi suất... các mục tiêu trung gian hoàn toàn do ECB độc lập xác định.
Cơ chế và công cụ vận hành chính sách tiền tệ châu Âu
ECB điều hành chính sách tiền tệ chung thông qua hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu (ESCB)
Hội đồng thống đốc có trách nhiệm xây dựng chính sách tiền tệ thống nhất. Ban giám đốc điều hành của ECB được trao quyền thực thi chính sách tiền tệ theo các quy định và các hướng dẫn được vạch ra bởi hội đồng thống đốc. Trong một phạm vi nhất định, nhằm tăng cường hiệu quả ECB có thể sử dụng các NCB (Ngân hàng trung ương quốc gia thành viên) để thực hiện các giao dịch.
Có thể tóm tắt cơ chế vận hành của Hệ thống ngân hàng trung ương châu Âu như sau: ESCB = ECB + NCBs (NCBs) các NHTW quốc gia thành viên EU 11
Các công cụ chủ yếu ECB sử dụng để đạt được mục tiêu là nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ cho vay bù đắp thâm hụt thường xuyên.
Bên cạnh đó, các nhà hoạch đinh chính sách tiền tệ châu Âu đã thiết kế khá đầy đủ các cơ chế, quy định để thực thi chính sách tiền tệ chung thống nhất và đưa EMU vận hành như cơ chế đổi tiền, cơ chế thanh toán, cơ chế tỷ giá với các nước trong EU chưa tham gia vào EURO - 11 (EMRII), cơ chế giám sát tài chính công và ngân sách lành mạnh, cơ chế báo động khi một nước có sự vi phạm các tiêu thức hội nhập đã cam kết, cơ chế phạt khi có sự vi phạm kỷ luật ngân sách hoặc luật tài chính... Sau đây sẽ xem xét một số quy định cơ bản.
Các quy định cơ bản.
Tỷ giá chuyển đổi
Tỷ giá chính thức của các đồng tiền của các nước thành viên được xác định theo cơ chế tỷ giá cũ (ERM I) được công bố vào tháng 5/1998 được sử dụng như tỷ giá chuyển đổi song phương cho các nước thành viên tham gia từ ngày 1-1-1999.
Tuần lễ chuyển đổi: kéo dài 3 ngày rưỡi tính từ đầu giờ chiều ngày 31-12-1998, sau khi tỷ giá chuyển đổi chính tức EURO/ECU và EURO/NCU được thông báo. Đến trước thời gian mở cửa của các thị trường tài chính ngày làm việc đầu tiên trong năm 4-1-1999. Một "Uỷ ban tuần lễ chuyển đổi" được thành lập "nhằm kiểm soát các khâu chuẩn bị cuối cùng cho việc xuất hiện đồng EURO". Các đối tượng sử dụng đồng EURO ngay trong tuần lễ chuyển đổi là: các công ty được niêm yết trên thị trường chứng khoán, thị trường liên ngân hàng, mọi hoạt động của ngân hàng trung ương châu Âu về các chính sách tiền tệ và giao dịch ngoại hối được sử dụng đồng EURO.
Nguyên tắc làm tròn số trong quá trình chuyển đổi
Tỷ giá chuyển đổi có 5 chữ số thập phân. Số tiền phải trả tính trên cơ sở tỷ lệ chuyển đổi sẽ được làm tròn tới hai chữ số thập phân theo nguyên tắc 5 thêm, 4 bỏ. Nguyên tắc này được áp dụng trong các giao dịch chuyển đổi tiền mặt, các giao dịch mua bán, các giao dịch chứng khoán và các khoản nợ.
Tuy nhiên có một số quốc gia vẫn sử dụng nguyên tắc làm tròn như đối với nước mình là Đức, áo, Hà Lan.
Nguyên tắc không - không: Việc sử dụng đồng EURO trong giai đoạn quá độ theo nguyên tắc không bắt buộc, không ngăn cấm đối với cả các nước trong và ngoài khối trong việc sử dụng đồng EURO. Có nghĩa là không có sự hạn chế nào trong việc sử dụng đồng tiền mới. Theo nguyên tắc này ngụ ý rằng các bên tham gia hợp đồng không có quyền bắt buộc đối tác sử dụng đồng EURO nếu không có một thoả thuận vào đồng ý của bên đối tác. Đối với các hợp đồng đang tồn tại, đơn vị tính toán vẫn là đồng tiền quốc gia và được duy trì cho đến 1-1-2002, trừ khi các bên có sự nhất trí sử dụng đồng EURO hoặc các trường hợp ngoại lệ khác. Đối với các hợp đồng được ký kết trong giai đoạn quá độ, việc sử dụng đồng tiền nào trong thanh toán, tuỳ vào thoả thuận của hai bên tại thời điểm ký kết hợp đồng. Tuy nhiên có một số ngoại lệ là các ngân hàng phải chấp nhận thanh toán các đồng tiền được đề nghị thanh toán. Nhà nước có thể quy định toàn bộ số dư nợ hiện hành của mình mà không cần có sự nhất trí của người cho vay và tương tự với các trường hợp vay khác, ngoài ra nhà nước còn có thể thay thế đơn vị tính toán trên thị trường tài chính của mình.
Cơ chế tỷ giá mới (EMR II)
Hội đồng châu Âu tại Amsterdam tháng 6-1997 đã thông qua quyết định hình thành cơ chế tỷ giá mới thay thế cho hệ thống tiền tệ châu Âu (EMS) hiện hành. Trên cơ sở đó viện tiền tệ châu Âu (EMI) đã chuẩn bị một thoả ước về cơ chế tỷ giá mới giữa các nước thành viên khu vực đồng EURO và các nước thành viên ngoài khu vực có nội dung như sau:
Việc tham gia vào EMR II là tự nguyện đối với tất cả các nước thành viên không thuộc khu vực đồng EURO. Tuy nhiên quy định đối với tất cả các ngân hàng của các nước thành viên.
Dù nước đó có tham gia vào EMR II hay không miễn là thành viên của EU thì các ngân hàng này đều phải:
- Báo cáo thường xuyên các hoạt động can thiệp hối đoái và các hoạt động hối đoái khác.
- Cần có sự chấp nhận của ngân hàng trung ương ECB và các ngân hàng nhà nước của các quốc gia thành viên không tham gia khác về các hoạt động can thiệp hoặc các giao dịch lớn bằng các đồng tiền quốc gia vượt quá mức độ giới hạn đã được thoả thuận và có thể ảnh hưởng tới hoạt động thị trường hối đoái.
Tỷ giá chính thức giữa các đồng tiền quốc gia (NCU) trong cơ chế EMR II với đồng EURO được ECB xác định với biên độ giao động cho phép là ±1,5% (tuy nhiên biên độ này có thể thu hẹp trong quá trình hội tụ kinh tế để tham gia vào khu vực đồng tiền chung của 4 nước thành viên còn lại trong quan hệ tỷ giá đồng EURO được gọi là đồng yết giá. Với năm chữ số thập phân có giá trị.
Để đảm bảo tỷ giá nằm trong biên độ này, ECB và các ngân hàng nhà nước của các quốc gia thành viên ngoài khu vực đồng EURO thực hiện sự can thiệp không hạn chế và tự động thông qua sử dụng các công cụ tài trợ vốn ngắn hạn. Tuy nhiên mức độ can thiệp cũng như sự cần thiết can thiệp còn tuỳ thuộc vào ảnh hưởng của nó đến mục tiêu ổn định giá cả. Trong những trường hợp có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu này, ECB và các ngân hàng nhà nước có quyền ngừng can thiệp (Điều này trái với nguyên tắc can thiệp tự động trong cơ chế tỷ giá của EMS). Nền tảng cốt lõi cho sự ổn định tỷ giá là sự ổn định kinh tế vĩ mô, vì vậy nó không thể tách rời cố gắng điều chỉnh kinh tế để hội nhập của các nước thành viên còn lại trong giai đoạn quá độ.
Hệ thống thanh toán
Mỗi quốc gia thành viên có ít nhất một hệ thống thanh toán đồng EURO để thực hiện các giao dịch nội địa, một số các nước có hai hệ thống thanh toán: Hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế (RTGS) và hệ thống thanh toán bù trừ. Để thực hiện các giao dịch giữa các quốc gia, các nước thành viên có thể lựa chọn các phương thức thanh toán sau:
- Tiếp tục sử dụng hình thức ngân hàng đại lý, nhưng chỉ lựa chọn một đại lý tại một trung tâm với một tài khoản đồng EURO để hoạch toán các khoản giao dịch bằng đồng EURO với tất cả các thành viên khác.
- Tạm thời duy trì cơ chế hiện hành với một tài khoản được mở tại một ngân hàng đại lý của một số quốc gia để hoạch toán các giao dịch với quốc gia đó.
- Thực hiện chi trả trực tiếp thông qua hệ thống thanh toán theo thời gian thực tế (RTGS) được nối mạng với một trung tâm thanh toán toàn lãnh thổ (TARGET) hoặc thông qua hệ thống thanh toán bù trừ của hiệp hội ngân hàng khu vực EURO (EBA).
TARGET: là trung tâm thanh toán cho toàn lãnh thổ EMU nó được nối mạng trực tiếp với 15 trung tâm thanh toán quốc gia (RTGS), cho phép các khoản giao dịch giữa các quốc gia thành viên có thể thực hiện được trong một ngày. Hệ thống này bắt đầu hoạt động vào tháng 11-1998. Sau khi hoàn thành các hệ thống pháp lý và đạt được thoả thuận của 15 nước thành viên. Hệ thống TARGET thực sự là kênh để điều chỉnh mức độ thanh khoản giữa các khu vực khác nhau để xử lý nhanh chóng các khoản chi trả với khối lượng lớn.
Có thể nhận xét rằng: Cùng với việc thống nhất chính sách tiền tệ là việc cho ra đời đồng tiền chung và đưa vào lưu thông trong toàn khối, đây là hai nôi dung quan trọng trong việc xây dựng liên minh tiền tệ châu Âu hai nội dung này có quan hệ mật thiết với nhau, tạo tiền đề cho nhau. Không thể xây dựng liên minh tiền tệ với một đồng tiền chung mà không có một chính sách tiền tệ thống nhất. Vì vậy, việc xây dựng và vận hành chính sách tiền tệ là một điều kiện rất cần thiết cho đồng tiền chung ra đời.