23/05/2018, 15:57

Kỹ thuật trồng Lục trúc – Bambusa oldhamii

Lục trúc có tên khác là Tre đài loan, tên đồng nghĩa là: Sinocalamusoldhamiỉ(Munro.) McClure; Dendrocalamopsis oldhamii (Munro.) Keng f.; Leleba oldhamii (Munro) Nakai. Tên thương phẩm: Oldham bamboo, Green bamboo, Giant timber bamboo (Anh), Ryoku – chiku (Nhật). Sản phẩm: chủ yếu lấy măng ...

Lục trúc có tên khác là Tre đài loan, tên đồng nghĩa là: Sinocalamusoldhamiỉ(Munro.) McClure; Dendrocalamopsis oldhamii (Munro.) Keng f.; Leleba oldhamii (Munro) Nakai.

Tên thương phẩm: Oldham bamboo, Green bamboo, Giant timber bamboo (Anh), Ryoku – chiku (Nhật).

Sản phẩm: chủ yếu lấy măng làm thực phẩm.

Đặc điểm hình thái Lục trúc

Lục trúc là loài tre thân ngầm mọc cụm thưa cây, thân khí sinh tròn, không thật thẳng, cao từ 8 – 9m; đường kính thân cây từ 3 – 7cm, tối đa chỉ đạt 10cm; khi non thân cây có màu xanh sáng, cây trưởng thành có màu xanh thẫm, ở nơi có ánh sáng mặt trời thường xuyên khi già thì chuyển sang màu vàng. Thân ngầm dạng củ, có từ 4 – 8 mắt chồi (đôi khi đến 10 mắt), nhưng thường thấy từ 2 – 4 mắt chồi có khả năng sinh măng phát triển thành cây, các mắt chồi còn lại không phát triển hoặc chỉ phát triển đến giai đoạn măng. Thân khí sinh thường phân cành từ đốt thứ 3 hoặc đốt thứ trở lên, mỗi đốt có 1 mắt và từ các mắt đó ra khá nhiều cành nhỏ và ngắn, chỉ có 1 cành chính phát triển to và dài hơn, lá to màu xanh lục. Lóng dài từ 30 – 36cm, vách thân dày khoảng 1cm. Măng có màu xanh sáng và có phấn trắng, không có lông ngoại trừ phần màu tối lộ ra ở gốc của bẹ mo (Nguyễn Hoàng Nghĩa, 2005). trong luc tructrong luc truc

Phân bố và đặc diểm sinh thái Lục trúc

Phân bố hoặc nguồn gốc

Theo nhiều tài liệu đã công bố cho thấy tre Lục trúc trước đây có phân bố tự nhiên chủ yếu ở vùng á nhiệt đới thuộc khu vực châu Á như Trung Quốc và Đài Loan. Hiện nay loài cây này chỉ còn thấy ở rừng trồng, nhiều nhất cũng ở Trung Quốc và Đài Loan. Ở Trung Quốc hiện có khoảng 5 triệu tập trung thành rừng ở tỉnh Phúc Kiến. Đài Loan đã thống kê được khoảng 4.459ha. ở nước ta, Lục trúc được nhập giống của Đài Loan vào trồng thử nghiệm đầu tiên ở Ba Vì – Hà Nội (Hà Tây cũ) từ năm 1994 với diện tích khoảng 20ha, đến năm 1997 tiếp tục phát triển mở rộng tại Tân Yên – Bắc Giang và một số nơi khác. Kết quả trồng thử nghiệm ở những nơi này đều cho thấy khả năng sinh trưởng tốt, năng suất măng khá cao và rất có triển vọng.

Một số đặc điểm sinh thái

Thông qua các mô hình trồng thử nghiệm ở nước ta kết hợp với các tài liệu nước ngoài cho thấy Lục trúc thích hợp ở những nơi có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 18 – 22°C, nhiệt độ thấp nhất có thể đến âm 9°C, chịu được băng giá trong thời gian ngắn. Lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.400 – 2.000mm. Độ cao thích hợp nhất dưới 500m so với mực nước biển, độ dốc dưới 25 độ, nhưng tốt nhất là những nơi có địa hình bằng phẳng đến hơi dốc (dưới 15 độ).

Có thể trồng Lục trúc trên nhiều loại đất khác nhau, độ dày tầng đất từ 30cm trở lên, nhưng tốt nhất là các loại đất tầng dày như đất dốc tụ và đất bồi tụ giầu mùn ở ven sông, suối, đất tơi xốp, ẩm thường xuyên và thoát nước tốt. Chưa thấy trồng trên đất thịt nặng, đất pha sỏi cát, đá ong hoá, đất chua phèn hoặc nhiễm mặn.

Kỹ thuật tạo giống Lục trúc

– Chọn hom gốc

Hiện nay cây giống để trồng rừng chủ yếu là giống vô tính, nhất là hom gốc, chọn những cây tre trưởng thành từ 8 tháng đến 12 tháng tuổi, thân khí sinh khỏe mạnh, không sâu bệnh hoặc không bị cụt ngọn để tạo hom giống.

– Tạo giống hom gốc

Hom gốc được tạo ra từ một phần thân khí sinh và phần thân ngầm liền kề gọi là củ, phần thân khí sinh sát mặt đất gồm 2 lóng nguyên vẹn và một nửa lóng thứ 3 được cắt vát một góc 45 độ, thân ngầm hay gọi là củ gồm phần liền kề thân khí sinh đến sát thân ngầm của cây mẹ, được tách ra từ bụi cây mẹ, sinh trưởng bình thường. Thân khí sinh của hom gốc có thể cao khoảng 30 – 50cm, đường kính lóng thứ 3 lớn hơn 3cm, trên thân ngầm có ít nhất 2 mắt mầm (mắt cua) còn tươi phân bố ở 2 bên, hom gốc không bị dập nát, không nứt vỡ, không bị sâu bệnh hoặc mục thôi.

Dùng dụng cụ chuyên dùng bới lộ toàn bộ phân thân ngầm nối với gốc cây mẹ, dùng dụng cụ sắc cắt lấy thân ngầm tại vị trí sát gốc cây mẹ. Hom gốc có thể đem trồng ngay hoặc giâm trong vườn ươm đến khi sinh chồi (măng cành) từ các mắt trên thân khí sinh và bung hết lá thì đem trồng.

– Thời vụ tạo giống hom gốc

Thời gian tạo giống thích hợp ở các tỉnh miền Bắc từ tháng 2 đến tháng 4 hoặc tháng 7 đến tháng 8 hàng năm, ở miền Trung từ tháng 8 đến tháng 11, miền Nam và Tây Nguyên từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm.

Kỹ thuật trồng Lục trúc

– Chọn đất và nơi trồng

Có thể trồng Lục trúc trên các loại đất có tầng dầy từ 30cm trở lên, tốt nhất là đất dốc tụ và đất bồi tụ có tầng dày ≥ 50cm, giầu mùn ở ven sông suối, đất tơi xốp, ẩm thường xuyên và thoát nước tốt. Đồng thời các loại đất này phải ở những nơi có nhiệt độ trung bình hàng năm từ 18 – 22°C, nhiệt độ thấp nhất có thể đến âm 9°c, chịu được băng giá trong thời gian ngắn; lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.400 – 2.000mm; độ cao dưới 500m so với mực nước biển; độ dốc dưới 25 độ, nhưng tốt nhất là những nơi có địa hình bằng phẳng đến hơi dốc (dưới 15 độ).

– Thời vụ trồng

Ở miền Bắc có thể trồng tre Lục trúc từ tháng 2 đến tháng 4 hoặc từ tháng 7 đến tháng 8, ở miền Trung từ tháng 8 đến tháng 11, ở miền Nam và Tây Nguyên từ tháng 5 đến tháng 8 hàng năm, trồng vào những ngày có mưa hoặc râm mát.

– Phương thức và mật độ trồng

Tùy theo đặc điểm địa hình nơi trồng rừng, có thể áp dụng một trong những phương thức trồng sau:

i/ Trồng tập trung thuần loài;

ii/ Trồng hỗn loài theo băng hay rạch với các loài cây gỗ lá rộng thường xanh;

iii/ Trồng phân tán bao quanh dưới chân đồi.

Mật độ trồng từ 400 – 625 cây/ha, cự ly giữa các khóm cây trong hàng ít nhất khoảng 4m, hàng nọ với hàng kia ít nhất từ 4 – 5m.

– Xử lý thực bì

Nơi đất dốc (≥15 độ) thường áp dụng phương thức xử lý thực bì cục bộ theo băng hay rạch, chỉ phát toàn diện trên băng (rạch) với kích thước đã quy định (có thể từ 2 – 5m), xác thực vật được xếp theo hàng sát băng chừa nhưng ở phía dưới dốc của băng chặt; nơi địa hình tương đối bằng phẳng (dưới 15 độ) có thể xử lý thực bì toàn diện bằng cơ giới hoặc thủ công, phát trắng thực bì trên diện tích đã thiết kế trồng rừng, xác thực vật được gom lại và xếp trên các đường lô hoặc xếp theo hàng xen giữa các hàng dự kiến cuốc hố trồng rừng. Công việc này được hoàn thành trước khi trồng ít nhất là 30 ngày.

– Làm đất

Chủ yếu sử dụng phương pháp thủ công, dùng các dụng cụ chuyên dùng đào hố với kích thước là 60 x 60 x 60cm hoặc 60 x 60 x 40cm, khi đào hố chú ý để lớp đất mặt sang một bên và lóp đất dưới sang một bên, hố được đào trước khi trồng ít nhất là 15 ngày.

– Bón lót và lấp hố

Bón lót từ 15 – 20kg phân hữu cơ/hố (phân chuồng, phân xanh), có thể bón thêm từ 0, 15 – 0,2kg phân NPK tổng hợp (tỷ lệ 5:10:3), sau đó dùng cuốc gạt lóp đất mặt đã đào ở hố lên và gạt lóp đất mặt xung quanh xuống hố cho tới khi đầy 2/3 hố, đảo đều phân và đất trong hố, tiếp tục gạt lớp đất còn lại đã đào ở hố lên cho ngang bằng miệng hố. Công việc này phải hoàn thành trước khi trồng từ 10 – 15 ngày, nếu bón phân xanh thì công việc làm đất và bón phân phải hoàn thành trước khi trồng ít nhất 30 ngày.

– Kỹ thuật trồng

Trước khi vận chuyển đến nơi trồng phải cắt ngắn rễ còn khoảng từ 2 – 3 cm, nếu thời gian từ khi tạo giống đến khi trồng lâu hơn một ngày, nên ngâm phần thân ngầm (củ) xuống nước vài giờ, sau đó nhúng phần củ xuống bùn loãng. Khi trồng, dùng cuốc tạo một lỗ chính giữa hố, độ sâu đảm bảo sao cho phần thân ngầm thấp hơn mặt hố khoảng 5cm, đặt cây giống xuống lỗ, xoay ngửa phần nõm của thân ngầm lên trên, phần thân khí sinh nghiêng một góc 45 độ về phía đỉnh dốc hoặc về cùng một hướng song song với đường đồng mức, điều chỉnh sao cho 2 hàng mắt mầm hướng sang hai bên.

Tiếp theo, vun đất vào gốc, nén chặt nhưng tránh không được làm tổn thương đến các mắt mầm, vun đất cao nổi hình mai rùa phủ đến khoảng 2/3 lóng thân thứ nhất. Sau đó tủ rom, rạ, cỏ, rác khô xung quanh gốc cây để giữ ẩm, tưới nước đủ ẩm cho đất xung quanh gốc cây, đồng thời đổ nước đầy phần lóng trên cùng của thân khí sinh.

Kỹ thuật chăm sóc và nuôi dưỡng rừng

– Trồng dặm

Sau khi trồng được từ 1 – 2 tháng cần kiểm tra và tiến hành trồng dặm thay thế những hom chết hoặc những hom có nguy cơ chết, khả năng sinh trường kém, bằng những hom giống đảm bảo tiêu chuẩn dự phòng trong vườn ươm. Sau khi trồng nếu gặp thời tiết nắng hạn cần tưới nước đủ ẩm thường xuyên vào buổi sáng sớm hay buổi chiều tối, cho đến khi hom giống mọc măng trên thân khí sinh và ra cành lá đầu tiên.

– Kỹ thuật chăm sóc rừng

Chăm sóc trong 3 năm đầu, năm thứ nhất chăm sóc từ 2 – 3 lần tùy theo thời vụ trồng (trồng vụ Xuân thì chăm sóc 3 lần, trồng vụ Hè – Thu thì chăm sóc 2 lần); năm thứ 2 và thứ 3 mỗi năm chăm sóc 3 lần, lần thứ nhất chăm sóc vào đầu năm (mùa Xuân), lần thứ hai tiến hành chăm sóc vào giữa năm (Hè – Thu) và lần thứ ba vào cuối năm kết hợp phòng chống cháy rừng (mùa Đông).

Nội dung chăm sóc chủ yếu là phát dây leo, cây bụi, rẫy cỏ, xới xáo xung quanh gốc cây với đường kính rộng lm. Có thể kết hợp bón thúc mỗi năm 1 lần vào lần chăm sóc thứ nhất hoặc thứ hai, hoặc vào đầu mùa mưa, mỗi gốc bón từ 15 – 30kg phân hữu cơ kết hợp với 0,2 – 0, 3kg NPK (5:10:3). Đào rãnh rộng khoảng 20cm và sâu khoảng 25cm xung quanh gốc và cách gốc cây khoảng 30cm, rải phân đều trong rãnh và lấp đất, vun tiếp đất vào gốc cây, cao hơn mặt đất xung quanh khoảng 5cm.

Trong quá trình chăm sóc ở năm thứ 2 trở đi chú ý chặt bỏ những cành nhánh sát mặt đất, chặt bỏ cây già, cây bị sâu bệnh hoặc bị gẫy dập. Thường xuyên theo dõi kiểm tra phát hiện sâu bệnh hại để có biện pháp phòng trừ kịp thời. Ngăn chặn lửa rừng và trâu bò hoặc gia súc phá hoại măng và cây trưởng thành.

– Kỹ thuật môi dưỡng rừng

Khi rừng trồng Lục trúc đã già cỗi, năng suất thấp, cây mẹ nhỏ dần, những gốc măng sau khai thác nổi nên mặt đất có thể do xói mòn đất, mỗi năm có thể bón thúc 1 – 2 lần vào mùa mưa, mỗi gốc bón từ 30 – 40kg phân chuồng hoai kết hợp với 0,5 – lkg NPK (5:10:3), đào rãnh rộng khoảng 30cm, sâu khoảng 30cm xung quanh gốc và cách gốc cây từ 30 – 40cm, rải phân đều trong rãnh và lấp đất, vun tiếp đất vào gốc cây, cao hơn mặt đất xung quanh khoảng từ 5 – 10cm. Đồng thời chặt tỉa cây già, nếu rừng đã thành thục cũng chỉ để lại mỗi bụi từ 9 – 10 cây theo tỷ lệ 4(5):3 (4):2(1), tức là 4 – 5 cây 1 năm tuổi, 3 – 4 cây 2 năm tuổi và 1 – 2 cây 3 năm tuổi.

Kỹ thuật khai thác và sử dụng

– Kỹ thuật khai thác

Măng lục trúcMăng lục trúc

Sản phẩm chính của Lục trúc là măng làm thực phẩm, thời vụ khai thác chính là từ tháng 4 – 9 hàng năm, chỉ khai thác những măng mới nhú lên khỏi mặt đất nhiều nhất là 10cm, phần lớn còn chìm trong đất. Tiến hành khai thác vào buổi sáng, tại thời điểm giữa vụ măng (tháng 6 – 7) chọn 4 – 5 măng to khoẻ phân bố đều xung quanh khóm tre để lại làm cây mẹ, còn lại khai thác hết. Dùng cuốc hoặc dụng cụ chuyên dùng bới hở toàn bộ cây măng cho đến tận củ, dùng dụng cụ sắc để cắt măng tại vị trí phình to nhất của thân ngầm, tránh không làm tổn thương đến mắt mầm ở phần còn lại. Sau khi khai thác chưa nên lấp đất ngay, cần phơi nắng phần thân ngầm còn lại vài ngày rồi mới lấp đất. Có thể dùng nước vôi loãng quét lên vết cắt ở phần thân ngầm còn lại để phòng chống nấm bệnh hại làm mất khả năng sinh măng ở vụ sau.

– Sử dụng

Măng tre Lục trúc tuy năng suất thấp hơn một số loài tre khác, nhưng là loại thực phẩm có hương vị thơm ngon đặc trưng, chất lượng cao, được thị trường ưa chuộng nên có giá trị xuất khẩu cao. Măng Lục trúc có thể ăn tươi hoặc phơi khô hay đóng hộp xuất khẩu (Đỗ Văn Bản, 2011).

0