Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Tây Ban Nha?
Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Mức tăng của phần này thấp hơn mức tăng tổng thể GERD của Tây Ban Nha trong giai đoạn 2005-2009. Hơn nữa, dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Tây Ban Nha cho thấy số lượng các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động NC&PT năm 2010 đã giảm 15,6% so với năm ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)
Mức tăng của phần này thấp hơn mức tăng tổng thể GERD của Tây Ban Nha trong giai đoạn 2005-2009. Hơn nữa, dữ liệu từ Văn phòng Thống kê Tây Ban Nha cho thấy số lượng các doanh nghiệp thực hiện các hoạt động NC&PT năm 2010 đã giảm 15,6% so với năm 2009, tiếp tục xu hướng từ năm 2008. Các so sánh quốc tế về chỉ sổ đổi mới của doanh nghiệp (các doanh nghiệp hàng đầu, bằng sáng chế, nhãn hiệu hàng hoá) cho thấy một vị thế cạnh tranh yếu, và các DNVVN thực hiện tốt hơn các doanh nghiệp lớn về khía cạnh đóng góp cho NC&PT và chi tiêu cho đổi mới. Những nỗ lực của Tây Ban Nha đã dẫn đến sự gia tăng số lượng các nhà nghiên cứu và sản lượng khoa học, mặc dù con số của năm 2010 cho thấy số các xuất bản phẩm khoa học của Tây Ban Nha chỉ chiếm 3,6% và số bằng sáng chế ba vùng của Tây Ban Nha chiếm 0,5% tổng số tương ứng của OECD. Tỷ lệ đơn đăng ký sáng chế của các trường đại học và các phòng thí nghiệm công bằng mức trung bình của OECD. Mộc dù đã tăng được ưu thế công nghệ hiệu hữu của mình ở các công nghệ mới nổi, nhưng vị trí của Tây Ban Nha về CNTT-TT vẫn còn tương đối yếu. Về nguồn nhân lực, hiệu xuất của Tây Ban Nha thấp về kiến thức khoa học của học sinh 15 tuổi, học vị tiến sĩ về khoa học và kỹ thuật và nghề nghiệp KH&CN.
| Chỉ tiêu | Giá trị | Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010) |
| Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010 | 47,2 | +1,6 |
| Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009 | 5,22 | +5,9 |
| GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 1,39 | +5,3 |
| Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010 | 0,7 | +0,86 |
Những thay đổi gần đây trong chi tiêu cho NC&PT: Từ năm 2005 đến năm 2010, GERD tăng trung bình hàng năm 5,3% từ 1,12% lên 1,39% GDP. Khu vực công đóng góp phần lớn trong nỗ lực này. Tuy nhiên, năm 2010, ngân sách nhà nước dành cho NC&PT (GBAORD) giảm từ 10,3 tỷ USD xuống 9,8 tỷ USD tính theo giá trị thực tế. Triển vọng tài chính yếu cho năm 2012 có thể làm tăng xu hướng này và tỷ lệ ngân sách của chính phủ trong BERD (17,1% trong năm 2009) nhiều hơn so với hầu hết các nước OECD (trung bình 8,9% năm 2009).
Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Chiến lược Đổi mới nhà nước (E2i) giai đoạn 2010-2015 nhằm thay đổi mô hình sản xuất của Tây Ban Nha bằng cách thúc đẩy và tạo ra cơ cấu để cải thiện việc sử dụng tri thức khoa học và phát triển công nghệ. Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới, có hiệu lực từ tháng 12 năm 2011, thay thế cho Luật Khoa học năm 1986 và nhằm mục đích tích hợp các hoạt động công nghệ và đổi mới với nghiên cứu khoa học. Khuôn khổ quản trị mới được nêu trong Luật KHCNĐM được hỗ trợ bởi Chiến lược Khoa học và Công nghệ 2013 - 2020 của Tây Ban Nha, đang được phát triển, và Kế hoạch Nhà nước về nghiên cứu KH&CN đã được soạn thảo gần đây.
Chính sách quản trị KHCNĐM: Luật KHCNĐM tạo ra một cơ cấu quản trị và tài trợ cho nghiên cứu mới cho hệ thống KHCNĐM của Tây Ban Nha với sự ra đời của Cơ quan Nghiên cứu Nhà nước (cơ quan tài trợ) và cải cách toàn diện các viện nghiên cứu công. Luật này xác định các cơ chế quản trị mới để đảm bảo sự phối hợp của các chính quyền trung ương và địa phương (ví dụ như hệ thống thông tin KHCNĐM để chia sẻ thông tin giữa các chính quyền trung ương và địa phương). Trung tâm Phát triển công nghệ công nghiệp (CDTI) vẫn chịu trách nhiệm tài trợ cho các hoạt động đổi mới và công nghiệp đến gần hơn với thị trường. Ngoài ra, Chính phủ mới, được thiết lập tháng 12 năm 2011, thành lập Bộ Kinh tế và Năng lực cạnh tranh mới đảm nhận thẩm quyền của Bộ Khoa học và Đổi mới.
Nền tảng khoa học: Các nhiệm vụ thách thức nhất đối với Tây Ban Nha là nâng cao chất lượng các ấn phẩm khoa học của mình và tăng cường sự đóng góp của nghiên cứu cho nền kinh tế và xã hội. Chiến lược Đại học 2015 nhằm mục đích tăng sự đóng góp của các trường đại học cho các nhu cầu kinh tế - xã hội và nâng cao năng lực cạnh tranh của họ. Chiến lược bao gồm một hệ thống đánh giá, theo tiêu chuẩn quốc tế, để theo dõi và đo mức độ tiến bộ của các trường đại học.
Đổi mới và NC&PT của doanh nghiệp: Chính phủ tiếp tục cải thiện môi trường NC&PT và đổi mới của doanh nghiệp và đã có những tăng trưởng đáng kể về số lượng các doanh nghiệp thực hiện NC&PT và đổi mới ngay cả khi hiệu suất hiện tại khá yếu kém. Khấu trừ thuế doanh nghiệp của Chính phủ cho các hoạt động đổi mới gần đây đã được nâng từ 8% lên 12%, và Luật Kinh tế bền vững đã nâng giới hạn trên đối với các hoạt động đổi mới và NC&PT toàn cầu từ 50% lên 60% tổng thuế. Trung tâm Phát triển Công nghệ Công nghiệp cũng cung cấp các dịch vụ thông tin cho các doanh nghiệp quan tâm đến phát triển các dự án NC&PT (ví dụ như mạng PIDI). Chiến lược Đổi mới quốc gia đặt mục tiêu tăng chi tiêu cho NC&PT và đổi mới của doanh nghiệp 8,3 tỷ USD một năm vào năm 2015, và số các doanh nghiệp đổi mới là 40.000, số nhân lực trong các doanh nghiệp công nghệ cao và trung bình đạt nửa triệu.
Tinh thần doanh nghiệp: Vốn đầu tư mạo hiểm của Tây Ban Nha thấp hơn mức trung bình của OECD, mặc dù nước này đã đưa ra các chương trình hỗ trợ cho các giai đoạn mới khởi nghiệp như Chương trình INNVIERTE (422 triệu USD cho giai đoạn 2011-2014). Tỷ lệ bằng sáng chế cấp cho các doanh nghiệp trẻ của Tây Ban Nha dưới 5 năm tuổi nằm ở mức dưới trung bình. Chương trình InnoEmprcsa 2007-2013 đặc biệt nhằm vào các DNVVN, bao gồm các dự án khu vực và các dự án siêu khu vực, trong đó có sự tham gia của DNVVN từ một số khu vực.
Cơ sở hạ tầng khoa học và CNTT-TT: Tây Ban Nha đa phát triển một cơ sở họ tầng CNTT-TT mạnh mẽ, nhưng các cơ sở mạng vẫn còn yếu kém. Tây Ban Nha có cơ cấu KH&CN mở cho toàn bộ cộng đồng khoa học, công nghệ và công nghiệp quốc gia và quốc tế. Kế hoạch Avanza2 cho giai đoạn 2011 -2015 với ngân sách khoảng 6 tỷ USD để thúc đẩy CNTT-TT trong lĩnh vực hành chính công, y tế, phúc lợi xã hội và giáo dục và để mở rộng mạng lưới viễn thông. Các nỗ lực gần đây ở cáp quốc gia bao gồm cải thiện và nâng cấp các CNTT-TT hiện có với ngân sách khoảng 160 triệu USD cho giai đoạn 2007-2015.
Nguồn nhân lực: Mặc dù đã có những cải thiện tổng thể trong giáo dục và nguồn nhân lực, bao gồm cả việc tăng số lượng tiến sĩ, Tây Ban Nha vẫn thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao với các liên kết mạnh mẽ với ngành công nghiệp. Luật KHCNĐM mới khuyến khích mức độ lưu động nghiên cứu cao hơn giữa các tổ chức công và tư.
Các công nghệ mới nổi: Tây Ban Nha không chỉ đầu tư vào các công nghệ tạo khả năng, đặc biệt là CNTT-TT và công nghệ sinh học có vai trò quun trọng đối với các lĩnh vực như khoa học sức khỏe và năng lượng, mà còn đầu tư vào các công nghệ liên quan đến vũ trụ. Tây Ban Nha có các chương trình mục tiêu và các quan đối tác công-tư (ví dụ CIBER, RETICS) cho CNTT-TT, công nghệ sinh học và các dự án nghiên cứu xuất sắc trong sinh học và y tế. Chương trình GENOMA phát triển và tài trợ cho các sáng chế và thành lập các doanh nghiệp spin-off. Dữ liệu về đơn đăng ký sáng chế theo hiệp định PCT cho thấy ưu thế công nghệ hiệu hữu trong các công nghệ liên quan đến môi truờng, công nghệ sinh học và các công nghệ nano.
Đổi mớị xanh: Đổi mới xanh là một trọng tâm chính, nhất là trong các công nghệ năng lượng tái tạo. Để hỗ trợ tăng trưởng xanh, Tây Ban Nha đã tạo ra Nền tảng công nghệ môi trường (PLANETA) để thúc đẩy hợp tác về công nghệ môi trường của các tổ chức nghiên cứu công và tư.
Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013
Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN
Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật