24/05/2018, 13:02

Khoa học, công nghệ và đổi mới ở nước Phần Lan?

Ảnh minh họa (Nguồn: internet) Với 2,7% GDP năm 2010, chi tiêu của doanh nghiệp cho NC&PT cao hơn mức trung bình của OECD. Phần Lan có ưu thế công nghệ hiện hữu mạnh và vững chắc trong CNTT- TT và đã tăng ưu thế của quốc gia về các cổng nghệ nổi trội và công nghệ môi trường ...

Ảnh minh họa (Nguồn: internet)

Với 2,7% GDP năm 2010, chi tiêu của doanh nghiệp cho NC&PT cao hơn mức trung bình của OECD. Phần Lan có ưu thế công nghệ hiện hữu mạnh và vững chắc trong CNTT- TT và đã tăng ưu thế của quốc gia về các cổng nghệ nổi trội và công nghệ môi trường trong thập kỷ qua, dù vẫn chưa bằng mức trung bình của OECD. Giữa ngành công nghiệp và khoa học cố mối ỉiên kết chặt chẽ và nhiều nghiên cứu công được khu vực công nghiệp tài trợ. Hợp tác quốc tế về khoa học và đổi mới mang tỉnh hòa trộn: hoạt động nghiên cứu hợp tác quốc tế tạo ra 50% số bài báo khoa học, cao hơn một chút so với mức trung bình của OECD, nhưng chỉ có 19% sáng chế theo PCT, thấp hơn mức trung bình của OECD. Tỷ lệ các trường đại học và viện nghiên cứu công đăng ký sáng chế thấp hơn mức trung bỉnh của OECD. Các chỉ số nhân lực đáng khích lệ với 38% người lớn có trình độ đại học và 37% lao động làm công việc KH&CN.

Chỉ tiêu

Giá trị

Tăng trưởng hàng năm, % (2005-2010)

Năng suất lao động, GDP trên giờ làm việc tính theo USD, năm 2010

47,9

+1,1

Năng suất môi trường, GDP trên một đơn vị phát thải CO2 tính theo USD, năm 2009

3,46

+0,7

GERD, tính theo % GDP, năm 2010

3,88

+3,2

Tài trợ công trong GERD, tính theo % GDP, năm 2010

1,0

+3,2

Phần Lan dẫn đầu OECD với 23 nhà nghiên cứu trên 1.000 lao động và xếp đầu bảng về điểm số của PISA cho khu vực OECD về khoa học cho lứa tuổi 15. Hạ tầng CNTT-TT rất phát triển với 29 thuê bao băng thông rộng cố định và 79 thuê bao không dây trên 100 dân. Mức độ sẵn sàng của chính phủ điện tử vượt trên trung bình của OECD, bằng Canađa và Thụy Điển.

Những thay đổi gần đây trong chi tiêu KHCNĐM: Tổng chi tiêu của doanh nghiệp cho NC&PT đạt 3,88% GDP năm 2010, cao thứ hai trong khu vực OECD. Từ năm 2005-2010, mức chi tiêu này tăng đều đặn 3,2% năm và dự kiến sẽ đạt 4% GDP vào năm 2015. Ngân sách của Chính phủ cho NC&PT giảm vào năm 2012 và NC&PT công đặt mục tiêu đạt 1% GDP. Năm 2010, khu vực công nghiệp cấp 66% tổng chi quốc gia cho NC&PT, ngân sách chính phủ chiếm 26%, còn 7% kinh phí NC&PT là từ nguồn nước ngoài. Do cường độ NC&PT cao, nên gói kích thích của Phần Lan năm 2009 chỉ thúc đẩy chi tiêu KHCNĐM ở mức vừa phải với kinh phí bổ sung là 159 triệu USD.

Chiến lược KHCNĐM tổng thể: Hệ thống đổi mới của Phần Lan hiện đang trải qua đợt cải cách mới và định hình lại trọng tâm của chiến lược quốc gia. Chiến lược này được đánh giá lần cuối vào năm 2009. Các khuyến nghị bao gồm đơn giản hóa hệ thống phức tạp và chồng chéo, xem xét lại các tổ chức và chương trình, cũng như giảm số lượng các tổ chức và trường đại học liên quan đến NC&PT. Kế hoạch hành động theo nhu cầu và người sử dụng năm 2010-2013 hàm ý chuyển hướng khỏi hệ thống dựa trên nguồn cung. Các lĩnh vực cần giải quyết, bao gồm tập trung NC&PT cũng như đổi mới trong một số lĩnh vực, quốc tế hóa nghiên cứu ở mức thấp và phân khúc giáo dục, nghiên cứu và đổi mới. Phần Lan đặt mục tiêu trở thành một trong những hệ thống KHCNĐM tốt nhất thế giới vào năm 2015.

Chính sách quản trị KHCNĐM: Bộ Việc làm và Kinh tế được tổ chức lại vào tháng 9/2011 và chịu trách nhiệm lập kế hoạch chính sách đổi mới và dự thảo ngân sách. Bộ Giáo dục và Văn hóa phụ trách các vấn đề liên quan đến chính sách giáo dục đại học và khoa học. Hội đồng Nghiên cứu và Đổi mới là cơ quan tư vấn chính về khoa học, công nghệ và đổi mới. Cả hai bộ và Hội đồng Nghiên cứu và Đổi mới cùng nhau dự thảo Kế hoạch Hành động chính sách khoa học và đổi mới vào đầu năm 2013. Kế hoạch mới này là một nội dung thẩm định của Chính phủ vào giữa năm. Chương trình 2011-2015 của Chính phủ đã đưa ra các hướng dẫn thúc đẩy đổi mới trong môi trường kinh tế hiện nay. Văn kiện chính sách quan trọng nhất là các hướng dẫn chính sách nghiên cứu và đổi mới 2011-2015. Nhóm công tác mới của Chính phủ về hợp tác nghiên cứu, dự báo và đánh giá đã bắt đầu hoạt động năm 2011. Một số đánh giá về các chương trình và dự án đang được thực hiện và sẽ được báo cáo vào năm 2012-2013. Hội đồng nghiên cứu và đổi mới tiến hành cải cách các viện nghiên cứu công bắt đầu vào năm 2011.

Nền tảng khoa học: Phần Lan có nền tảng khoa học vững vàng, chi tiêu lớn cho NC&PT của khu vực công, các trường đại học xếp hạng cao và tỷ lệ tương đối cao các công bố khoa học tính theo GDP.

NC&PT và đổi mới trong doanh nghiệp: Cơ quan Tài trợ Công nghệ và Đổi mới Phần Lan (Tekes) đã chuyển hướng từ tập trung cấp kinh phí cho các dự án NC&PT công nghiệp và công nghệ sang các công ty dịch vụ, đổi mới phi kỹ thuật và các DNVVN. Một kế hoạch mới ưu đãi thuế cho NC&PT đã được quyết định đưa ra năm 2013, hướng vào các công ty và tổ chức vốn mạo hiểm tư nhân. Nguyên tắc định hướng mới của Cơ quan Tài trợ Công nghệ và Đổi mới là khu vực tư nhân chiếm không dưới 2/3 tổng chi NC&PT quốc gia.

Tinh thần doanh nghiệp: Phần Lan có văn hóa kinh doanh đang tăng trưởng, ngành công nghiệp đầu tư mạo hiểm lớn mạnh và số lượng lớn các công ty trẻ đăng ký sáng chế. Sự chuyển dịch chính sách hướng vào các doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ thúc đẩy việc nới lỏng chỉ sổ doanh nghiệp. Tổ chức Enterprise Phần Lan là cơ quan tư vấn cho các DNVVM. Chương trình Vigo Accelerator đã tăng vốn khoảng 80 triệu USD cho các công ty khởi nghiệp triển vọng về công nghệ sạch, CNTT-TT, di động và khoa học sự sống.

Đổi mới khu vực công: Để tối ưu hóa các dịch vụ công, Sáng kiến Thành phố kiểu mẫu tiên phong tập trung vào nhóm 10 thành phố mới. Quản lý đổi mới là nỗ lực chung của các bộ để tăng cường sự điều phối chính sách. Năm 2011, Phần Lan nhìn chung đã cung cấp miễn phí dữ liệu tư liệu và thông tin của khu vực công.

Hạ tầng khoa học và CNTT-TT: CNTT-TT được ưu tiên cao ở Phần Lan. Thư viện số Quổc gia, Trung tâm Khoa học Công nghệ Thông tin, Cơ quan Lưu trữ dữ liệu khoa học xã hội Phần Lan và Apps4 Phần Lan là các chương trình quản lý thông tin số hóa. Cơ quan Tài trợ Công nghệ và Đổi mới hỗ trợ một loạt chương trình nhằm vào công nghệ như các giải pháp di động giá trị gia tăng, một dự án công nghệ không dây và công nghệ Ubicom.

Toàn cầu hóa: Để hướng tới quan hệ hợp tác nghiên cứu quốc tế ở mức vừa phải, Phần Lan đã thông qua Chiến lược Quốc tế hóa giáo dục, nghiên cứu và đổi mới (2010-2015). Công ty tài chính của nhà nước, có tên gọi là Finnvera, cấp các khoản vay và bảo lãnh cho các công ty xuất khẩu, trong khi Groove (2010-2014) với 173 triệu USD từ Cơ quan Tài trợ công nghệ và đổi mới Phần Lan, giúp các DNVVN mở rộng trên toàn cầu. Các doanh nghiệp quốc tế có hoạt động NC&PT ở Phần Lan công có thể được nhận kinh phí từ Cơ quan Tài trợ công nghệ và đổi mới Phần Lan.

Nguồn nhân lực: Các cải cách giáo dục được thực hiện gần đây để đảm bảo hệ thống giáo dục và thị trường lao động cạnh tranh hoạt động hiệu quả. Đạo luật Trường đại học đã thay đổi hiện trạng các trường đại học, làm tăng quyền tự chủ của các trường đại học và đã sáp nhập một số trường đại học, cơ sở giáo dục bậc cao thành Đại học miền Đông Phần Lan, Đại học Turku và Đại học Aalto. Chương trình Giáo sư ưu tú là một chương trình chung cùa Cơ quan Tài trợ Công nghệ và Đổi mới Phần Lan và Viện Hàn lâm Phần Lan để thu hút các nhà nghiên cứu quốc tế hàng đầu. Trung tâm LUMA đẩy mạnh các nghiên cứu khoa học và toán học. Là một phần của Chiến lược châu Âu 2020, Phần Lan cố gắng tăng tỷ lệ lao động đạt trình độ đại học lên 42%. Các chương trình đào tạo tiến sĩ tập trung vào phát triển sự nghiệp nghiên cứu.

Lĩnh vực công nghệ nổi trội: Cơ quan Tài trợ Công nghệ và Đổi mới Phần Lan khuyến khích đổi mới trong một số lĩnh vực công nghệ nổi trội: khu vực dịch vụ, dược phẩm, tàu thuyền, du lịch, thực phẩm và nước, công nghệ sinh học, CNTT-TT và số hóa, an toàn và an ninh. Cơ quan này cấp kinh phí cho các cơ sở hạ tầng để hỗ trợ sử dụng xe ô tô điện.

Đổi mới xanh: Đầu tư NC&PT công nghệ năng lượng đã được đẩy mạnh từ giữa những năm 2000 và tăng lên đến 324 triệu USD năm 2010. Chương trình chiến lược của Chính phủ được triển khai năm 2012 nhằm thúc đẩy tăng trưởng, hoạt động kinh doanh, đổi mới và quốc tế hóa khu vực doanh nghiệp môi trường. Cơ quan Tài trợ Công nghệ và Đổi mới Phần Lan mới đây đã công bố một chương trình mới, có tên gọi là Hướng tới tăng trưởng bền vững và nền kinh tế xanh. Trung tâm Chương trình Chuyên gia gồm có các cụm công nghệ sạch, năng lượng và lâm nghiệp. Bốn trung tâm sẽ chuyên tập trung vào nghiên cứu tăng trưởng xanh. Dự án ICOS quan trắc các khí nhà kính và Chương trình pin nhiên liệu 2007- 2013 với ngân sách 185 triệu USD để phát triển các giải pháp năng lượng thay thế. Viện Môi trường Phần Lan, Trung tâm Nghiên cứu Kỹ thuật VTT và Côngxoócxium của một số viện nghiên cứu công thực hiện nghiên cứu môi trường.

Khoa học và Công nghệ Thế giới 2013

Cục Thông tin khoa học và công nghệ Quốc Gia - Bộ KH&CN

Nguồn tin: Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật

0